Xoa Lập phùng bạo vũ
Hiền tức nhập Quách gia
Sáng hôm sau, quần hùng rời Kỷ gia trang, chỉ còn lại Tử Khuê và Thiết Đảm Hồng Nhan. Họ ở thêm bốn ngày nữa mới lên đường.
Kỹ Tòng Thư lưu luyến mãi và hứa với cháu trai rằng sẽ đi Hứa Xương ngay khi lành vết thương. Ông nóng lòng muốn gặp lại đứa em xa cách bao năm. Ông sẽ đích thân đến thăm Quách gia trang trước để chứng tỏ rằng mình chẳng hề oán hận Kỹ Thanh Lam. Không những thế, Tòng Thư còn muốn định cư ở Hứa Xương để anh em được gần gũi nhau. Ngàn mẫu vườn ở đây ông sẽ bán đi hai phần, phần còn lại tặng cho bọn đệ tử kẻ chết được nhiều hơn người còn sống.
Hai người đến Dụ Châu thì trời đã xế chiều, có đi tiếp cũng chẳng về kịp Nghiệp thành. Họ ghé vào quán trọ trong thành nghỉ ngơi.
Sau trận chiến tại Kỹ gia trang, thanh danh Hàn Thiếu Lăng đã nổi như cồn, trước tiên là ở cùng đất phí Nam tỉnh Hà Nam này. Và chắc chắn rằng tiếng tăm ấy sẽ dần lan tỏa khắp võ lâm theo bước chân của những người đã chứng kiến trận chiến ấy. Họ Hàn lân lượt đả thương Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn, Bang chủ Bích Huyết bang Trịnh Bá Nghiêm và Thất Hoàn Đao Hướng Vụ Quang bằng chỉ một chiêu. Chiến tích ấy quả là vô tiền khoáng hậu, oanh liệt phi thường.
Người ta đã mau mắn tặng cho Hàn Thiếu Lăng một mỹ hiệu là Cầu Nhiêm đại hiệp (Đại hiệp rậm râu).
Thiết Đảm Hồng Nhan, kẻ luôn sát cánh chiến đấu bên cạnh ngôi sao mới, cũng được ca ngợi và đánh giá rất cao.
Nhân vật nổi tiếng thứ ba là Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn, kẻ đã cướp được “Diêm Vương quỷ kỳ” trước mặt Hội đồng Võ lâm. Thiên hạ còn rỉ tai nhau một tin đồn là Chiết Mai bang cùng Bích Huyết bang đã trao giải thưởng ba ngàn lượng vàng cho bất cứ ai cáo giác chỗ trú ẩn của Thần Ma.
Nhưng ít người han hố số vàng ấy vì lão chết toi họ Lục di chuyển trên không trung, biết đâu mà lần.
Thanh danh là chiếc áo lộng lẫy nhưng cũng mang đến nhiều phiền toái cho người quân tử, chỉ những kẻ tiểu nhân mới đắc ý khi nổi tiếng và lợi dụng thanh danh để trục lợi.
Vì còn trẻ nên lúc đầu Tử Khuê cũng rất khoan khoái khi nghe mọi người ca tụng mình. Nhưng trên đoạn đường từ Báo Bình đến Dụ Châu, chàng đã phải dừng cương hàng chục lần để đáp lễ sự tôn sùng của khách võ lâm liền thức ngộ ra rằng mình không thích hợp với thanh danh. Chàng ngượng ngùng lắng nghe những câu tán dương sáo rỗng và thầm hổ thẹn xiết bao khi được gọi là “Võ Lâm đệ nhất cao thủ”. “Thiên hạ đệ nhất kiếm”... Chàng càng bối rối khi Tống Thụy đứng gần đấy cứ nhìn rồi tủm tỉm cười.
Cho nên giờ đây, hai người cố tình tìm một khách sạn sang trọng, đắt tiền nhất, nơi mà khách giang hồ ít khi dám bén mảng tới. Xương Vinh đại lữ điếm là một nơi như thế chỉ dành cho bấc phú quý hay những lái buôn lắm vàng nhiều bạc.
Gương mặt râu ria oai vệ của Tử Khuê đã khiến lão chưởng quỹ già chột dạ. Lão phân vân không hiểu hai kẻ mang gươm này vào đây ở trọ với mục đích gì? Nhưng chợt nhớ ra rằng mình đã biếu xén hậu hĩnh cho Tri huyện Dụ Châu hàng tháng, nên đêm đêm quân binh túc trực bên ngoài, lão an tâm phúc đáp :
- Bẩm đại gia và phu nhân! Bổ điếm vẫn còn một phòng thượng hạng rộng rãi và thoáng mát, hy vọng nhị vị hài lòng.
Tống Thụy thoáng chau mặt nhưng không cải chính. Nàng gật đầu và dặn thêm một mâm cơm cùng vò tượu Thiệu Hưng lâu năm.
Lão chưởng quỹ sai tiểu nhị đưa khách lên phòng trên lầu, rồi cắm cúi ghi chép tên họ hai kẻ khả nghi vào sổ. Lão giữ luôn thẻ Đinh của họ nên chẳng sợ bị quỵt tiền.
Dù là phòng thượng hạng thì cũng có một chiếc giường, Tử Khuê ngao ngán thầm nghĩ đêm nay mình sẽ phải ngủ trên trường kỷ hoặc sàn nhà. Chàng rất thương mến Tống Thụy song vẫn chưa đến mức quyết tâm lấy nàng làm vợ.
Mẹ chàng là người chán ghét chế độ đa thê, thường dạy rằng: “Nam nhân nhiều vợ sẽ chẳng bao giờ có được hạnh phúc đích thực. Do đó, trừ phi chính thất không sanh được con trai nối dõi tông đường. Khuê nhi chớ nên đa mang”.
Lý do thứ hai ít quan trọng hơn là vì Thiết Đảm Hồng Nhan lớn hơn chàng bốn tuổi. Kỹ nương cũng không thích điều ấy. Tuổi xuân của nữ nhân qua mau hơn nam nhân, nhan sắc tàn phai theo từng đứa con, và đến một lúc nào đó vợ chồng sẽ như đũa lệch khó so, người đàn ông lại nghĩ đến chuyện nạp thiếp.
Chính vì những nguyên nhân ấy mà Tử Khuê đã chấp nhận từ hôn Đông Nhạc Tiên Hồ, dù lòng cũng tiêng tiếc. Tuy Thái Vân chỉ như tượng đá nhưng lại là pho tượng đẹp hiếm có trên đời.
Tối hôm ấy, hai người tĩnh tọa luyện khí, Tử Khuê có công lực thâm hậu hơn nên xả công hơi trễ. Lúc mở mắt thì chàng thấy Tống Thụy đã giành lấy chiếc trường kỹ nhường giường cho mình.
Tử Khuê nói mãi chẳng được liền xách gối xuống sàn gỗ mà ngủ. Hai người trằn trọc một lúc lâu rồi cũng thiếp đi vì mệt mỏi. Cưỡi ngựa đường dài là một việc cực nhọc, tổn hao nhiều sức lực, cơ đùi, cơ lưng đều mỏi rời.
Cuối canh ba, Thiết Đảm Hồng Nhan bỗng nghe gan bàn chân nhột nhạt, thức giấc mở mắt ra xem. Nàng giật bắn mình khi thấy một bóng ma trắng toát, tóc buông xõa, mặt mũi đầy máu, lưỡi thè ra dài cả gang tay. Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn tọa đăng mù mù, cảnh tượng ấy càng bội phần đáng sợ.
Ma quỷ là hiện tượng siêu nhiên nằm ngoài sự hiểu biết của lý trí lại hiếm khi gặp được, nên con người luôn khiếp sợ, nhất là nữ nhân. Thiết Đảm Hồng Nhan to gan lớn mật, sẵn sàng đối mặt với cả cái chết nhưng cũng không bình tĩnh nổi trong trường hợp này. Sợ ma, sợ rắn và bóng tối là bản năng của đàn bà.
Tống Thụy hồn phi phách tán, rú lên rồi nhảy vào đến chỗ Tử Khuê, chui vào chăn, ôm chặt chàng mà run như cầy sấy, miệng lắp bắp :
- Quỷ! Có quỷ!
Tử Khuê ngồi bật dậy ngó quanh rồi vỗ về, trấn an :
- Ma quỷ nào đáng sợ. Ta đã từng gặp qua rồi, nàng không nhớ sao!
Tống Thụy vẫn chưa hoàn hồn, kéo chàng nằm xuống rồi rúc vào nách.
Gần khắc sau nàng đã hết sợ, bắt đầu biết hổ thẹn khi ôm ấp Tử Khuê. Nhưng nàng không sao buông ra được nữa, tâm thức bị xâm chiếm hoàn toàn bởi ý niệm khát khao được ở mãi bên chàng. Đây chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời mà nàng tìm kiếm bao năm. Tử Khuê như cây sối cao lớn, vững chắc để nàng nương tựa suốt đời. Tống Thụy suy nghĩ miên man, hiểu rằng mình đã yêu say đắm chàng trai anh hùng cái thế và trung hậu này. Ngoài chàng ra, chẳng còn nam nhân nào khác trong thiên hạ xứng đáng để nàng trao thân gửi phận.
Khi đã xác định được tình cảm, Tống Thụy bớt băn khoăn về việc đụng chạm xác thân, đắm chìm trong tâm trạng của một kẻ tìm được tình yêu. Nàng là người trọng tình cảm lứa đôi thơ mộng nên nhẹ phần dục tính, dẫu có rạo rực cũng không nghĩ đến chuyện hiến dâng.
Ngược lại Tử Khuê đang trong thời kỳ phát dục mạnh mẽ nên cơ thể rất nhạy cảm với mùi hương kiều mỵ và sự mềm mại, ấm nóng của da thịt mỹ nhân. Chàng cắn răng chế ngự lửa lòng, nằm im như tượng gỗ, thao thức đến gần sáng mới ngủ được.
Thựa ra, Thiết Đàm Hồng Nhan cũng vậy. nàng không ngủ được vì quá hạnh phúc và vì một chút nghi hoặc, giận hờn. Tuy nàng rất khâm phục tư cách quân tử của chàng song lại tự hỏi :
- Phải chăng Tử Khuê không yêu ta nên mới trơ ra như thế kia? Đáng lẽ chàng phải ôm ta hoặc hôn hít vài cái để biểu lộ tình cảm chứ?
Do không nắm chắc được tình cảm đối phương nên Tống Thụy khá phân vân, quyết định giữ kín nỗi lòng, chờ Tử Khuê tỏ tình trước.
Sáng ra, Thiết Đảm Hồng Nhan đã toại nguyện vì Tử Khuê say ngủ ôm nàng như ôm gối dài, vô cùng thân mật.
Thiết Đảm Hồng Nhan khoan khoái hưởng thụ một lát rồi cựa quậy khiến Tử Khuê thức giấc. Chàng hổ thẹn vì tư thế nằm sỗ sàng của mình liền ngõ lời tạ lỗi. Tống Thụy cười mát, hững hờ đáp :
- Sư huynh chớ lo. Tiểu muội chẳng vì việc đêm qua mà bắt huynh phải lấy tiểu muội đâu.
Đàn bà là thế đấy, tuy đã yêu chết mê chết mệt mà ngoài mặt cứ vẫn kiêu kỳ.
Dùng điểm tâm xong, hai người rời thành Dụ Châu. Họ chẳng ghé thăm Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán vì mới gặp mấy hôm trước.
Chiều hôm ấy, Tử Khuê và Tống Thụy về đến Nghiệp Thành. Tuy rất vui mừng nhưng Tống Nhiên và Ngụy Công Tử không giấu được vẻ lo âu. Chủ nhân Hồng Vận đại phạn điếm nghiêm nghị bảo Tử Khuê :
- Khuê nhi! Hiện nay ngươi đã trở thành mục tiêu săn đuổi của rất nhiều người, tính mạng đang bị đe dọa trên từng dặm đường phía trước. Hôm qua, lão phu được một bằng hữu trong giới Hắc Đạo cho biết Âu Dương Mẫn đã ngấm ngầm bắn tin với Hoạch Đầu hội, tổ chức giết mướn đáng sợ nhất võ lâm rằng sẽ mua thủ cấp Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng với giá vạn lượng vàng ròng. Hoạch Đầu hội đã nhận lời và đang triển khai nhân thủ truy tìm ngươi. Mắt khác, cả Chiết Mai bang và Bích Huyết bang cũng cử nhân thủ bám theo để giết ngươi cho bằng được.
Tử Khuê nghe lão nói thế nên xanh mặt. Chàng được sư phụ và mẫu thân dặn dò rất kỹ câu “Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng”, nên giờ đây rất lo lắng.
Thiết Đảm Hồng Nhan phì cười chế giễu :
- Té ra Cầu Nhiêm đại hiệp, một kẻ thần dũng tuyệt luân, lại có lá gan hơi nhỏ.
Tử Khuê rầu rĩ thú nhận :
- Đúng là ta có sợ thực. Đối phương dùng thủ đoạn đánh lén thì dẫu Đại La Thiên Tiên cũng khó toàn mạng, huống hồ gì ta.
Ngụy Công Tử Tề Thúc Như tủm tỉm gật gù khen :
- Khuê đệ còn trẻ mà không hiếu thắng, cao ngạo thì quả đáng phục.
Ngươi chớ lo, ta đã có sẵn diệu kế giúp ngươi thoát khỏi đại họa này.
Tử Khuê mừng rỡ vái tạ :
- Thế thì hay quá. Mong Tề đại ca chỉ giáo cho tiểu đệ.
Ngụy Công Tử đắc ý trình bày :
- Tề mỗ đã chuẩn bị cho ngươi một lai lịch giả rất chu đáo, cộng với tài hóa trang của ta thì dẫu kẻ thù đứng trước mặt ngươi cũng không nhận ra.
Thúc Như dừng lời, nâng chén rượu mời cả bàn uống cạn rồi mới nói tiếp :
- Trong võ lâm đương đại có một cao thủ độc hành, tuổi trung niên, tên Bàng Nguyên Hối, biệt hiệu là Thiết Thủ Thần Tiêu. Họ Bàng tính tình cô độc, lạnh lùng tự xem mình đứng giữa chính tà, hành động theo ý thích bản thân, lúc thiện, lúc ác, không theo quy củ nào cả. Vóc dáng và dung mạo Bàng Nguyên Hối cũng na ná như Khuê đệ nên hóa thân không khó.
Tử Khuê nhăn mặt :
- Nhưng lỡ mà tiểu đệ xui xẻo đến mức chạm mặt Thiết Thủ Thần Tiêu thực thì biết làm sao?
Ngụy Công Tử mỉm cười mà ánh mắt bi thương :
- Ngươi cứ yên tâm. Họ Bàng đã chết cách nay hai năm, do bọn ta tự tay chôn cất một cách bí mật, chẳng ai biết việc ấy.
Tống Nhiên thấy gã nghẹn lời liền kể thay :
- Nguyên Hối và Tề Tứ đệ vốn là bạn tri âm tri kỷ. Một đêm nọ, họ Bàng mang thương tích trầm trọng chạy đến Tề gia trang và chết ở đấy. Do kẻ thù của Thiết Thủ Thần Tiêu rất lợi hại nên Thúc Như phải âm thầm chôn bạn trong vườn nhà, không mộ chí.
Thiết Đảm Hồng Nhan hiếu kỳ hỏi :
- Bẩm phụ thân! Chẳng hay, hung thủ là nhân vật nào mà đáng sợ như thế? Và vì sao Bàng đại thúc lại có thù oán với họ?
Tống lão vuốt râu tư lự :
- Võ lâm chẳng phải chỉ gồm hai phe Hắc - Bạch mà còn có những cao thủ, dị nhân, những môn phái thần bí nữa. Trong số ấy, Lôi Đình thần cung là lực lượng đáng gờm nhất. Gần ba mươi năm trước, Lôi Đình thần cung đã một lần giương oai làm chấn động võ lâm. Lôi Đình cung chủ Trác Ngạn Chi xuất cung lần lượt so tài với các phái lớn, các đại cao thủ trong thiên hạ. Với hai pho “Lôi Đình kiếm pháp” và “Lôi Đình thần chưởng”, Trác cung chủ đả bại và đánh trọng thương rất nhiều tinh hoa của võ lâm Trung Nguyên.
Cho rằng võ công của mình là vô địch nên Lôi Đình Đế Quân đã trúng kế khích tướng của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh chấp nhận xa luân chiến với Tam Tôn. Quả nhiên, Đế Quân đả bại được Nam Thiên Tôn rồi Bắc Thiên Tôn, nhưng rốt cuộc, vì đuối sức nên lão ta đã trúng một kiếm của Trung Thiên Tôn.
Vết thương không nặng song Đế Quân phải theo lời giao ước mà hồi cung.
Khổ thay, Thiết Thủ Thần Tiêu lại tình cờ lạc đến Lôi Đình thần cung, nơi mà chẳng ai biết chỗ. Và không hiểu Nguyên Hối đã phạm lỗi gì mà bị Đế Quân cho thủ hạ truy sát đến tận Nghiệp thành này? Họ Bàng đã giấu kín ẩn tình ấy, chẳng chịu tiết lộ cho Thúc Như nghe.
Nghe xong, Tử Khuê đau khổ hỏi lại :
- Bẩm Tống lão gia. Nếu thế thì việc tiểu đệ hóa trang thành Thiết Thủ Thần Tiêu có khác gì “Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”. Thoát được Hoạch Đầu hội mà đụng nhằm Lôi Đình thần cung không chừng còn chết sớm hơn.
Ngụy Công Tử trừng mắt trách chàng :
- Sao ngươi ngốc thế. Chẳng lẽ bọn ta không biết điều ấy? Thực ra năm ngoái chẳng hiểu vì sao Lôi Đình thần cung lại nhờ Cái bang loan tin khắp nơi rằng họ đã bãi bỏ lệnh truy nã Bàng Nguyên Hối. Nghĩa là ngươi rất an toàn.
Tử Khuê thở phào ngượng nghịu nói :
- Tiểu đệ quả hồ đồ. Mong Tề huynh lượng thứ cho.
Quá trưa ngày mồng chín tháng năm, Tử Khuê đến Nhưỡng Thành, chỉ còn cách Hứa Xương độ hai ngày đường nữa. Chàng đói bụng nên ghé vào Tịch hà đệ nhất tửu quán dùng cơm. Do sông Tịch chảy ngang ngoại thành phía Nam nên chủ quán lấy tên này, hàm ý rằng tiệm mình đứng nhất trong cả vùng lưu vự sông Tịch Hà.
Nhưỡng Thành nằm ở giao lộ của năm con đường, tỏa đi năm hướng nên có phần phồn vinh hơn Nghiệp thành. Và Tịch Hà tửu quán cũng xứng danh đệ nhất vì cơ ngơi đồ sộ, tráng lệ, rộng rãi. Bàn ghế ở đây toàn bằng danh mộc đen bóng. Mặt bàn phủ vải xanh, còn ghế thì là loại ghế dựa. Phạn điếm thuần túy thì dùng ghế đôn, còn tửu quán luôn luôn bày ghế dựa. Lý do là vì các bợm nhậu thường ngồi lè nhè hàng mấy canh giờ, thắt lưng mỏi rời, cần có chỗ nương tựa.
Bàn bát tiên của Trung Hoa lúc đầu có mặt hình vuông nhưng sau đã biến thể thêm dạng tròn. Mặt bàn hình tròn vừa thẩm mỹ lại vừa tăng thêm diện tích, phòng khí số khách là chín hoặc mười chứ không phải tám. Tửu khách luôn muốn được ngồi chung với bạn nhậu tâm đầu ý hợp, dẫu chật một chút cũng chẳng sao.
Tịch Hà đệ nhất tửu điếm có hai tầng, tổng cộng một trăm bốn chục bàn, đều là loại mặt tròn cả. Tầng trệt đã chật ních, gã tiểu nhị liền dẫn Tử Khuê lên lầu. Chàng ngồi xuống, lột nón rộng vành, thận trọng quan sát các bàn chung quanh, và giật mình khi nhận ra Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim cùng hai ả nữ tỳ.
Cả ba đều lặng lẽ ăn uống, chẳng nói cười láu táu như các nữ nhân thường làm. Cổ nhân đã nói: “Ba người đàn bà đủ họp thành chợ”, thế mà họ im như thóc chứng tỏ tâm trạng rất nặng nề.
Nhất là Trình Thiên Kim, hoa dung sầu héo, ánh mắt buồn vời vợi, cứ nâng chén nốc tràn chẳng động đến thức nhắm. Da mặt nàng không đỏ mà lại hơi tái nên nét muộn phiền càng lộ rõ.
Tử Khuê không sao rời mắt khỏi gương mặt đẹp ai oán ấy và lòng choáng ngợp bởi một tình cảm lạ kỳ. Bóng Thiên Kim luôn vương vấn trong hồn nhưng Tử Khuê vì hổ thẹn mà cứ cố quên đi. Giờ gặp lại cố nhân chàng chợt thức ngộ rằng mình đã hoan hỉ phi thường, chỉ muốn bước sang cùng nàng trò chuyện.
Tất nhiên, Tử Khuê rất xót xa khi thất Thiên Kim buồn bã đến thế. Chàng muốn biết nguyên do và làm người an ủi. May thay, ả tỳ nữ áo xanh, mắt một mí, đã lên tiếng giúp Tử Khuê hiểu ra cớ sự. Ả dịu dàng an ủi Thiên Kim :
- Tiểu thư chớ nên quá bi quan. Tuy đạo quán Thiên Sư ở Hứa Xương không biết Vu Diệp chân nhân là ai song tiểu tỳ tin rằng chàng ta chẳng phải kẻ gian trá. Có lẽ chàng mới nhập môn và mới rời Long Hổ sơn lần đầu nên bọn đạo sĩ Thiên Sư ở các địa phương khác không thể biết được. Chúng ta cứ đi thẳng đến Thượng Thanh cung ở Giang Tây, hỏi thăm Trương Thiên Sư tất cả rõ thực.
Trái tim Tử Khuê đập loạn như trống trận vì hiểu rằng Thiên Kim đã đến Hứa Xương tìm mình, không thấy nên thất vọng. Chàng chưa kịp nghĩ thêm thì nghe mỹ nhân nói :
- Tiểu Trinh! Ta vì bệnh tình của thân mẫu mà khởi hành quá trễ, đã tự nhủ rằng nếu đến Hứa Xương không gặp thì sẽ đi Long Hổ sơn tìm chàng. Ta chỉ lo lắng một điều là vì sao chàng không có mặt ở Hứa Xương như đã nói. Ta tin chàng nói thật nhưng lại sợ Vu Diệp ngộ nạn dọc đường nên không sao cứu được.
Ả tỳ nữ thứ hai nàng mặc áo xanh, đúng quy định của hạng tồi tệ, song dung mạo khác ả kia ở chỗ mắt to và răng thì khấp khểnh. Ả ngập ngừng xen vào :
- Nô tỳ chỉ e ngại một việc là liệu khi gặp nhau chàng ta có chịu tiếp thụ ân tình của tiểu thư hay không?
Thiên Kim thở dài đáp :
- Tiểu Huệ nói chẳng sai. Nhưng ta tin rằng mối chân tình này có thể khiến chàng thấu hiểu và thương xót.
Tử Khuê bàng hoàng, ngơ ngẩn khi biết Nữ Hầu tước yêu thương mình tha thiết. Lạ thay, chàng lập tức cảm thấy hạnh phúc vì điều ấy và tự nhủ :
- Ta lấy Trình tiểu thư làm vợ thì cũng tốt chứ sao. Nhưng phải xem thử cái tính nóng như Trương Phí của nàng ta có sửa đổi được hay không?
Lúc này, bất chợt Thiên Kim quay mặt nhìn về hướng Tây, bắt gặp ánh mắt trân trối, sỗ sàng của Tử Khuê. Nhưng thay vì nổi tam bành, Thiên Kim chỉ khẽ cau đôi mày liễu, chẳng nói gì. Tử Khuê rất hài lòng trước phong thái đoan trang, thùy mị ấy, vừa ăn vừa suy nghĩ cách làm quen và đưa nàng về Hứa Xương.
Chàng định ăm chén thứ ba thì bên bàn của Thiên Kim đã xảy ra sự cố. Có năm người mặc áo tơi bằng vải sơn màu xanh, đầu đội nón tre sùm sụp, xăm xăm bước đến, vậy chặt bàn của chủ tớ Trình Thiên Kim. Ba nữ nhân biến sắc đứng phắt dậy, tay đặt vào đốc gươm, sẵn sàng đối phó. Thiên Kim điềm đạm hỏi :
- Ngũ vị là cao nhân phương nào và đến tìm ta có việc gì?
Một trong năm người kỳ dị ấy cười rộ, ngạo nghễ đáp :
- Chẳng lẽ kiến văn của Trình tiểu thư lại nông cạn đến mức nhìn không ra lai lịch của bọn ta sao? Xoa Lạp cốc mới bế môn có mấy năm đã bị lãng quên, lòng người quả là đen bạc.
Xoa nghĩa là áo tơi để che mưa, còn lạp là nón tre rộng vành. Hèn chi năm người này trang bị đủ hai thứ ấy, dù trời chẳng hề mưa.
Tử Khuê từng nghe sư phụ nhắc đến Xoa Lạp cốc, một trong những môn phái cổ quái nhất võ lân. Cũng như đối với Lôi Đình thần cung, người giang hồ chẳng hề biết địa điểm của Xoa Lạp bí cốc. Người ta chỉ có thể hiểu đại khái rằng Lôi Đình thần cung tọa lạc đâu đó ở vùng Thiểm Bắc, còn Xoa Lạp bí cốc thì nằm trong tỉnh Sơn Tây.
Xoa Lạp cốc tồn tại đã gần trăm năm song thỉnh thoảng mới xuất hiện trên chốn giang hồ. Tuy nhiên, môn nhân của họ có bản lĩnh rất cao cường, thủ đoạn lại tàn nhẫn phi thường, từng khiến người võ lâm phải rùng mình khi nhớ đến chuyện xưa.
Điển hình nhất là vụ Xoa Lạp cốc tiêu diệt Thạch Long trại ở vùng cực Bắc tỉnh Hà Nam, nơi giáp ranh với Sơn Tây. Toàn bộ ba trăm lẻ tám người của tổ chức này đều bị giết sạch, không chừa cả đàn bà lẫn trẻ con.
Tuy chẳng có ai sống sót để tố cáo nhưng thiên hạ đều biết Xoa Lạp cốc là hung thủ. Trước đó nửa tháng, Thạch Long trại chủ Hạ Tường Khánh vì tranh giành một ả kỹ nữ ở An Dương mà chặt đứt bàn tay của một khách mua hoa.
Nào ngờ gã ta lại là thủ hạ Xoa Lạp cốc và tuyên bố sẽ trả thù. Việc này được nhiều người chứng kiến nên sau khi huyết án xảy ra, lai lịch hung thủ lập tức được xác nhận.
Nhắc lại, nữ Hầu tước Trình Thiên Kim nghe đối phương xưng là người Xoa Lạp cốc thì cũng chẳng hề sợ hãi. Nàng đã uống khá nhiều rượu nên dũng khí ngất trời, không xem đám tơi nón kia ra gì. Thiên Kim thản nhiên hỏi lại :
- Chư vị chưa nói lý do đến tìm bản cô nương?
Kẻ lên tiếng lúc nãy là một lão nhân râu ngắn, mặt mũi âm trẩm, trắng bệch, tuổi độ quá sáu mươi. Lão ta cười nhạt đáp :
- Mấy ngày trước, Thiếu cốc chủ bổn cốc tình cờ gặp tiểu thư ở Hứa Xương. Người sinh lòng ái mộ nên sai bọn lão phu đến rước nàng đi du ngoạn Xoa Lạp cốc một chuyến.
Tử Khuê và toàn bộ thực khách tưởng rằng vị nữ Hầu tước nổi tiếng nóng nảy kia sẽ chửi bới hoặc rút gươm chém cái kẻ đã buông ra lời đề nghị khiếm nhã. Nào ngờ, Thiên Kim mỉm cười gật đầu :
- Hay lắm! Bổn cô nương từ lâu đã ngưỡng mộ oai danh của Xoa Lạp bí cốc, nay có dịp thăm thú thì quả là mãn nguyện bình sinh. Phiền chư vị dẫn đường cho.
Nói xong, nàng hớn hở gọi tiểu nhị tính tiền. Năm sứ giả của Xoa Lạp cốc ngơ ngác nhìn nhau, không ngờ sứ mạng của mình tưởng khó khăn ai dè lại hoàn thành một cách dễ dàng như thế. Lão râu ngắn có vẻ là trưởng toán nên luôn đứng ra phát biểu, lão ta hào phóng nói :
- Trình tiểu thư là thượng khách của bổn cốc, xin cứ để lão phu vinh hạnh thanh toán bữa cơm này.
Rồi lão loay hoay móc túi bạc ra để trả cho gã tiểu nhị. Đúng lúc hai tay lão bận rộn, Trình Thiên Kim rút kiếm đâm liền một nhát thần tốc xuyên thủng ngực đối phương.
Hai ả tỳ nữ Tiểu Trinh, Tiểu Huệ cũng xuất thủ gần như đồng thời với chủ nhân. Chúng kề cận Thiên Kim đã mười năm nên hiểu rõ ý này đến mức chẳng cần phải dùng lời hay dấu hiệu.
Khi Thiên Kim bạt kiếm thì hai ả cũng rút gươm thọc vào người hai lão Xoa Lạp cốc gần mình nhất. Nhưng do bản kĩnh không cao, động tác chậm chạp nên họ chẳng đả thương được ai, chỉ dọa cho hai lão ấy khiếp vía nhảy lùi.
Mảng vòng vây phía nam đã vỡ, Thiên Kim cùng hai tỳ nữ lao vút về hướng cầu thang mà đào tẩu. Trước đó, Thiên Kim còn vung cước hất ngã chiếc bàn bát tiên để cản đường đối phương.
Lão sứ giả bị thương gục ngã nhưng vẫn giận dữ quát :
- Đuổi theo bằm xác chúng cho ta!
Một lão ở lại chăm sóc thương thế cho nạn nhân, ba lão kia chạy xuống lầu. Thực khách nhốn nháo như ong vỡ tổ, một số hiếu kỳ ồ ạt kéo nhau ra lan can để xem Trình Thiên Kim có thoát được hay không. Thì ra nàng ta và hai nữ tỳ xinh xắn đã bị chặn lại ở sân trước bởi hai gã tơn nón khác. Như vậy là Xoa Lạp cốc cử đến đây tổng cộng bảy thủ hạ.
Hai kẻ chặn cổng tuổi chỉ độ tứ tuần song võ công rất cao cường, chỉ bằng một chiêu liên thủ họ đã chặn đứng được chủ tớ Thiên Kim. Ba nữ nhân hợp sức tấn công quyết liệt mà không sao mở được sinh lộ để đào vong, cuối cùng thì ba lão già trên lầu cũng đã xuống tới, vậy chặt họ lại.
Do oán hận Thiên Kim dùng ngụy kế đả thương thượng cấp của mình nên ba lão này xuất thủ cực kỳ độc ác. Chỉ trong chớp mắt bằng một đòn hợp công, họ đã đánh thanh trường kiếm trên tay Thiên Kim và một lão xấn tới để kết liễu đời nàng.
Thiên Kim mất vũ khí, chỉ còn cách thoái hậu và chờ chết vì lưng đã chạm phải Tiểu Huệ. Trong lúc tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc thì trên không trung bó bóng người sa xuống, đứng chắn trước mặt nàng và vung khí giới đánh chặn lão sứ giả hung hăng kia.
Quái nhân là một hán tử tuổi độ bốn mươi. Mặc võ phục trắng, thân thể lực lưỡng. Dung mạo của gã đáng lẽ cũng khá anh tuấn nếu đôi lông mày sâu róm kia không quá rậm và thô kệch. Lại thêm hai mảng lông đen ở dưới mắt, kéo dài từ chân sống mũi đến hết gò má, trông thật quái dị. Ngoài râu mép, gã còn có túm râu dê dưới cằm rất khó coi.
Đấy chính là nhan sắc hiện nay của Tử Khuê. Nhờ thứ thuốc mọc lông thần diệu của Cửu Hoa Thánh Y mà Ngụy Công Tử dễ dàng tạo cho chàng những đặc điểm của Thiết Thủ Thần Tiêu Bàng Nguyên Hối. Gia dĩ, họ Bàng tung hoành ở phía Tây ít khi dương oai nơi xứ lạ nên chẳng mấy người rõ mặt.
Lúc lìa đời trong Tề gia trang, Nguyên Hối đã để lại đầy đủ khí giới, giấy tờ tùy thân và cả bí kíp võ công. Tử Khuê chỉ cần tham khảo bí kíp hai ngày là đã có thể sử dụng thanh “Hắc Long Tiêu” một cách nhuần nhuyễn.
Thực ra phép đánh tiêu rất gần với kiếm pháp, gồm nhiều thức đâm. Tiêu thân tròn, không thể chém nhưng đòn quét của nó cũng làm cho đối phương thọ thương chứ chẳng chơi, vì “Hắc Long Tiêu” làm bằng thép ròng và nặng như trường kiếm. Do đó, Tử Khuê không gặp trở ngại gì khi dùng tiêu thi triển sở học kiếm thuật cao siêu củ mình.
Giờ đây, Tử Khuê múa tít “Hắc Long Tiêu” xuất chiêu “Nghịch Thủy Hành Chân” (Ngược nước giong thuyền), tiêu ảnh mịt mờ. Tiêu kình cuồn cuộn tựa sóng Trường Giang lớp lớp xuôi về Đông. Không khí lọt qua những lỗ tiêu tạo thành những âm thanh là lạ tựa tiếng gió hú trong cơn mưa bão.
Lão sứ giả Xoa Lạp cốc hung hãn cử kiếm công phá màn tiêu ảnh và có cảm giác như mình là kẻ lội ngược dòng, áp lực chung quanh cực kỳ nặng nề.
Đường kiếm của lão hơi chậm lại và chính lúc ấy Tử Khuê thò tả thủ khóa chặt lưỡi gươm rồi thọc mũi kiếm ở đầu tiêu vào tim kẻ địch.
Nạn nhân rú lên thảm khốc ôm ngực quỵ xuống trong sự bàng hoàng của đồng đảng. Người vừa bị giết là Ngũ Hộ pháp của Xoa Lạp cốc, bản lĩnh rất cao cường, sao lại có thể thọ hại ngay trong chỉ một chiêu. Điều đáng sợ kế tiếp là bàn tay của gã áo trắng chẳng ngán gươm đao.
Cái chết chóng vánh của ngũ hộ pháp đã khiến bọn Xoa Lạp cốc khiếp hãi, nhảy lùi về phía sau xem xét hung thủ là ai. Tiểu Trinh, Tiểu Huệ mừng vì được nghỉ tay, đứng thở dốc. Thiên Kim thì phấn khởi nhận lấy thanh kiếm mà Tử Khuê đoạt được của kẻ thù. Nàng nhận ra ân nhân là kẻ đã nhìn ngắm mình lúc trước nhưng không biết đấy là Vu Diệp chân nhân.
Lúc này, một sứ giả Xoa Lạp cốc đã nhớ ra lai lịch của gã cầm tiêu sắt, hai bàn tay xỏ trong đôi găng tay kỳ lạ, đầy những vẫy có óng ánh. Lão ta giận dữ quát :
- Thiết Thủ Thần Tiêu! Ngươi quả là không biết sống chết nên mới dám can thiệp vào việc của bổn cốc và lại còn giết chết Ngũ Hộ pháp nữa. Hôm nay bọn ta sẽ phân thây ngươi làm trăm mảnh.
Dứt lời, lão đưa tay trái lột chiếc nón tre có vành rộng hơn hai gang trên đầu xuống, sử dụng như chiếc khiêng. Ba người kia cũng hành động như thế.
Nhờ sự dạy dỗ của Vu Mộc chân nhân mà Tử Khuê sớm biết rằng nón tre của Xoa Lạp cốc là loại vũ khí. Phía dưới lớp cột tre đan kia là một lớp thép lá mỏng nhưng rất kiên cố, khả dĩ chịu đựng được đao kiếm. Và hơn thế nữa, phép đánh kiếm thuẫn hợp bích của họ rất quỷ dị, lợi hại.
Tử Khuê đã có “Ngư giáp miệt” (Vớ vẩy cá) vũ khí thành danh của Bàng Nguyên Hối, nên chẳng hề sợ hãi. Đôi găng tay quý giá này được khâu từ da của loại cá lạ sống ở hồ Thanh hải, hồ nước mặn lớn nhất Trung Hoa. Lúc xuất đạo, Nguyên Hối mới tròn hai mươi, trong một lần đến thăm người dì ruột sống cạnh hồ Thanh hải, thì nghe bà kể về con Thiết Giáp ngư. Gã liền tìm cách bắt cho bằng được cá quý. Sau bảy tháng nhẫn nại thả thuyền buông câu, cuối cùng, họ Bàng đã tóm được Thiết Giáp ngư, lột da khâu thành đôi bao tay. Nhờ có “Ngư giáp miệt” mà Nguyên Hối mau chóng thành danh, nổi tiếng khắp ba tỉnh Tây Bắc và đất Thiểm.
Giờ đây, “Ngư Giáp miệt” đã làm cho công phu “Thai Quang thần thức” của Tử Khuê lợi hại hơn trước gấp bội. Đôi găng quý che phủ đến tận khuỷu tay, tạo ưu thế tuyệt đối cho một quyền thủ.
Tử Khuê tận dụng ưu thế ấy vươn tả thủ vẽ liền chín thức Thao Quang, đối phó với thanh kiếm của lão sứ giả mặt tròn nung núc thịt, còn thiết tiêu thì điểm nhanh tựa mưa rào. Lão ta dùng nón tre phòng thủ rất hiệu qua vì diện tích nó khá lớn. Thủ pháp sử dụng thuẫn của lão lại vô cùng linh diệu tạo thành cả một bức màn thép kín như bưng, vô hiệu hóa toàn bộ những thế công của Tử Khuê.
Nhưng chẳng phải vì thế mà lão chiếm được thượng phong bởi lo sợ tả thủ đối phương đoạt mất kiếm. Cánh tay trái Tử Khuê hoạt động độc lập, chập chờn bám theo lưỡi kiếm của lão, thế thức huyền ảo phi thường. “Ngư giáp miệt” quả là báu vật hãn thế, kiếm sắt chạm vào là bị trượt đi nên không hề làm tróc được miếng nào.
Miệt có móng nhọn được mang ở tay thì gọi là “Thủ miệt”. Ở chân gọi là “Cước miệt”. Từ ngày xuất hiện trước thời nhà Hán, nhưng lúc ấy miệt hoàn toàn làm bằng da thú. Đến thời Đông Hán có thêm loại vớ, găng khâu bằng tơ lụa, gọi là “la”. Nhưng cuối cùng thì sau vài ngàn năm, từ “miệt” vẫn được sử dụng rộng rãi hơn cả.
Nhắc lại, Tử Khuê có “Ngư giáp miệt” mà vẫn ở thế quân bình, thì Trình Thiên Kim và hai ả nữ tỳ, chẳng thể an lành trước phép đánh kiếm thuẫn lợi hại của Xoa Lạp cốc. Chưa đầy nửa khắc, Tiểu Trinh, Tiểu Huệ đã lần lượt bị thương, kêu rên não ruột.
Tử Khuê chột dạ, hiểu rằng chẳng thể kéo dài cuộc chiến thêm nữa. Chàng nghiến răng, dồn toàn lực đánh liền sáu chiêu liên hoàn, tiêu ảnh mịt mờ xám xịt khiến đối thủ tối tăm mặt mũi bởi hàng ngàn thế thức tựa mưa sa.
Lão sứ giả Xoa Lạp cốc chẳng phải kẻ tầm thường, tuy hoa mắt trước đường tiêu vũ bão song vẫn ngoan cường chống cự, kiếm thuẫn dệt lưới quanh thân, kín đáo và vững chắc như tường đồng vách sắt. Công lực của lão thâm hậu hơn đối phương, thừa sức chịu đựng cho đến lúc gã họ Bàng đuối tay, rồi mới phản công.
Trong thế phòng thủ, đường kiếm loang nhanh như gió, thuận thế mà bay lượn chứ chẳng có điểm chết như lúc tấn công. Do đó, lão ta không sợ Tử Khuê chụp trúng kiếm của mình.
“Hắc Long tiêu” tuy làm bằng thép dày song cũng là vật rỗng nên khi va chạm với kiếm thì ngân lên ong ong rền rĩ tựa tiếng chuông.
Bỗng lão sứ giả thấy Thiết Thủ Thần Tiêu nhấp nhô, chờn vờn, thân trên ngã về mé tả, có vẻ như muốn đảo bộ sang hướng ấy để tránh chiếc thuẫn lỳ lợm và tìm sơ hở trong đường gươm của mình. Tất nhiên đối phương phải làm như thế vì cái thuẫn thiết lạp phòng thủ kín đáo hơn trường kiếm.
Nào ngờ, khi lão vừa xoay theo thì Bàng Nguyên Hối lại thả tấn về mé hữu, vươn thủ chụp lấy chóp nhọn của nón rồi hất ngược lên. Đương nhiên, sườn trái của lão hở ra và họ Bàng đã thọc mũi “Hắc Long tiêu” vào đấy.
Đoạn thép ở đầu “Hắc Long tiêu” chỉ lú ra độ nửa gang dạng như mũi trường kiếm, làm bằng loại thép cực tốt của Nhật Bản được mài sắc như dao cạo và mỏng như đầu kim, xuyên thấu phổi nạn nhân.
Với vết thương trầm trọng ấy, lão sứ giả Xoa Lạp cốc khó mà thoát chết.
Tử Khuê rảnh tay, lập tức quay ngoắt lại tấn công đối thủ của Tiểu Trinh là lão sứ giả mắt trâu, mũi lộ. Chàng xuất chiêu “Phiên Thiên Phục Địa” (Lật nhào trời đất) đánh vào mé hữu đối phương.
Ả tỳ nữ Tiểu Trinh thấy có tiếp viện thì phấn khởi tinh thần, xông lên đẩy kẻ thù vào thế lưỡng đầu thọ địch. Lão mắt trâu bắt buộc phải dùng chiếc thuẫn nón tre đối phó với Tiểu Trinh còn trường kiếm ở tay phải thì chống đỡ đường tiêu của Tử Khuê.
Trong văn chương cũng như võ học, yếu tố thiên bẩm cực kỳ quan trọng.
Do thiên phú chẳng đồng đều nên có kẻ học một biết mười và người học mười biết một. Kẻ đỗ Trạng nguyên khi chưa đến tuổi nhược quan, kẻ thi tám lượt chẳng đậu nổi tú tài.
Tử Khuê được trời xanh ưu đãi, ban cho trí tuệ thượng thừa, nên tuy còn trẻ mà đã thấu hiểu được đạo biến hóa của võ học, thành tựu vượt xa người thường.
Điều ấy giải thích cho việc chàng có thể đánh thắng những kẻ địch lão làng, tu vi thâm hậu hơn mình. Nghề đánh kiếm cũng là một nghệ thuật giống như âm nhạc, thi văn hay hội họa vậy. Và trong nghệ thuật thì tài không đợi tuổi.
Tử Khuê nắm được đạo biến hóa nên đường kiếm tiêu dao tự tại tựa nước chảy mây trôi và nhanh như gió thoảng. Trong khoảnh khắc chàng tung ra vài trăm thế thức với tốc độ kinh hồn phong tỏa thân trên đối thủ.
Lão sứ giả Xoa Lạp cốc rơi vào cơn lốc dữ, bấm bụng loang nhanh trường kiếm, cố bảo vệ mặt ngực và bụng. Lão luyện bốn mươi mấy năm, công thì chưa chắc đã hay nhưng phòng thủ thì thừa sức. Lão ta đã đỡ gạt được hết những đòn hiểm ác của cây tiêu đen trùi trũi, lòng cũng bớt khiếp sợ. Lão ung dung cử kiếm đánh bạt mũi tiêu đang thọc vào ngực mình. Nào ngờ, thép chẳng hề chạm thép và bụng dưới thì đau đớn khủng khiếp.
Khi huyệt Khí Hải đã bị đâm thủng thì Hạng Vũ cũng trói gà không chặt.
lão sứ giả rú lên thảm khốc, tứ chi bủn rủn, lảo đảo ngã quỵ. Tiểu Trinh nhân cơ hội này đâm bồi một kiếm vào ngực lão để rửa hận. Lúc nãy, lão ta đã rạch ba đường trên làn da mỹ miều của ả.
Tiểu Trinh quay sang giúp Tiểu Huệ, còn Tử Khuê thì liên thủ với Trình Thiên Kim. Nhưng từ trên lan can lầu phía trước tửu điếm, có tiếng già nua quát lớn :
- Rút lui thôi, quân binh đã đến!
Thế là hai gã tơi nón tuổi trung niên bỏ cuộc mà đào tẩu. Mấy lão già trên lầu cũng đã cõng người bị thương nạn nhân của Thiên Kim nhảy xuống đất chạy mất.
Quan quân Nhưỡng thành chẳng dám hạch sách vị Nữ Hầu tước đáng kính, lặng lẽ thu dọn xác chết mang về Nha môn.
Chiến tích oanh liệt của Thiết Thủ Thần Tiêu đã khiến chủ nhân Tịch Hà đệ nhất tửu điếm vô cùng thán phục. Ông kính cẩn mời những kẻ thắng trận vào khu hậu viện trị thương.
Băng bó và thay y phục xong, Thiên Kim cùng hai nữ tỳ nghiêng mình tạ ơn ân nhân.
Tử Khuê hiền hòa bảo :
- Tại hạ tương trợ tiểu thư cũng là vì tình bằng hữu với Vu Diệp chân nhân, xin tiểu thư chớ bận tâm.
Thiên Kim đỏ mặt thẹn thùng hiểu rằng đối phương đã nghe hết tâm sự thầm kín của mình lúc còn ở trên lầu tửu điếm. Đồng thời, nàng rất hân hoan khi có tin tức về người trong mộng.
Thiên Kim e lệ nói :
- Nay Bàng đại hiệp đã hiểu rõ tâm tình của tiện nữ, xin hãy nhủ lòng thương mà chỉ giáo hạ lạc của Vu Diệp. Tiện nữ cơ hồ tuyệt vọng khi đạo quán Thiên Sư ở Hứa Xương phúc đáp rằng chẳng biết chàng là ai.
Tử Khuê nghiêm nghị trả lời :
- Vu Diệp có nhiều kẻ thù lợi hại, sợ liên lụy đến gia quyến nên phải giữ kín lai lịch. Thực ra, y không phải là độ đệ Thiên Sư giáo nên chẳng đến đạo quán làm gì. Vu Diệp tên thật là Quách Tử Khuê, nhà ở ngoại thành Hứa Xương, gần cầu Bá Lăng. Tiểu thư muốn tìm gặp cứ đến Quách gia trang tất sẽ gặp. Nhưng tại hạ mong rằng tiểu thư sẽ hành sự thật kín đáo và thận trọng.
Chiếu mười một tháng năm, Tử Khuê và Thiên Kim về đến Hứa Xương.
Tiểu Trinh và Tiểu Huệ đã quay lại Huyện Trình vì đi đông không có lợi.
Khi đến bờ sông Thạch Lương, Tử Khuê cáo biệt. Chàng điềm đạm dặn dò :
- Vu Diệp còn có song thân nên chẳng thể tự quyết định được hôn nhân.
Tiểu thư hãy vào thành nghỉ ngơi, suy nghĩ cho chín chắn, tìm ra cách tốt nhất để vào Quách gia trang. Cái tính nóng như lửa và mỹ hiệu Trình Giảo Kim trước đây e rằng sẽ khiến cha mẹ Vu Diệp ái ngại. tại hạ có mặt trong hoàn cảnh này sẽ bất tiện và cũng chẳng giúp được gì. Hơn nữa, tại hạ có việc gấp phải ngược bắc ngay. Xin cáo biệt. À quên! Tại hạ đã thề giữ kín lai lịch của Vu Diệp, vì vậy tiểu thư tuyệt đối không được cho nhà họ Quách biết tại hạ là người tiết lộ.
Thiên Kim nói lời cảm tạ rồi rầu rĩ giục ngựa qua cầu Bá Lăng, đi thẳng vào trong thành, Tử Khuê quanh quẩn trong khu rừng liễu vắng vẻ cạnh bờ sông, chờ tối hẳn mới về nhà. Chàng bỏ ngựa lại trong rừng, kín đáo vượt tường phía sau Quách gia trang, tìm đến phòng của mẫu thân trước.
Qua khung cửa phía sau, Tử Khuê thấy cha mẹ mình đang ngồi uống trà, chuyện trò rất vui vẻ liền nói :
- Nhị vị nhân gia, hài nhi đã về đây!
Quách Thiên Tường và Kỹ Thanh Lam giật mình hoan hỉ rú lên :
- Khuê nhi!
Kỹ nương mau mắn rảo bước đến, mở cánh cửa thông với vườn hoa rồi ôm chầm lấy con trai. Quách lão cười khà khà bảo :
- Thằng bé này quả là linh hiển, chúng ta vừa nhắc đến thì đã có mặt ngay.
Tử Khuê dìu mẫu thân trở lại ghế rồi lột nón, phục xuống khấu đầu :
- Hài nhi bái kiến phụ mẫu.
Quách lão cằn nhằn :
- Sao mặt Khuê nhi gớm ghiếc thế? Nếu ngươi không lên tiếng trước chắc bọn ta chẳng nhận ra.
Kỹ nương bảo Tử Khuê ngồi vào ghế, ngắm nghía chàng bằng ánh mắt yêu thương rồi âu yếm hỏi :
- Sao Khuê nhi lại phải hóa trang thành Thiết Thủ Thần Tiêu. Phải chăng cái thân phận Hàn Thiếu Lăng chẳng còn an toàn nữa?
Tử Khuê gật đầu, kể lại mọi tao ngộ từ lúc rời nhà, kể cả việc Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim sẽ đến đây nay mai. Kỹ nương cao hứng nhất là việc tử khuê cứu được Đại Cửu phụ và anh em bà sẽ sớm được tài ngộ.
Thấy ý con trai đã chịu lấu vợ thì Quách lão rất vui. Ông cười bảo :
- Ngươi chịu kết hôn là tốt rồi. Còn con bé họ Trình kia dù có dữ dằn cỡ Trương Phi cũng phải hiền như bụt khi làm dâu của mẫu thân ngươi. Lão phu còn phải sợ bà ấy thì Trình Giảo Kim thấm thía gì.
Kỹ nương hổ thẹn nguýt ông chồng già và điềm đạm bảo Tử Khuê :
- Hôn nhân là chuyện quan trọng cả đời. Để ta xem thử tính nết Thiên Kim thế nào rồi mới quyết định được.
Sáng hôm sau, Tử Khuê trở lại là một vị thiếu gia văn nhã, mặt mũi trắng trẻo, trơn láng, không một cọng râu, lông mày cũng thành mảnh như trước. Gia nhân tỳ nữ hoan hỉ đến chào và nô nức chuẩn bị cho tiệc tẩy trần, mừng thiếu chủ mới du ngoạn Bắc Kinh trở về.
Người vui nhất có lẽ là Quách Tử Chiêm, bào đệ của Tử Khuê. Cậu bé bám chặt lấy Tam ca chẳng rời luôn miệng hỏi han về chuyện bắc hành. Tử Khuê phúc đáp đầy đủ, miêu tả rất sống động cảnh vật phồn hoa và những danh thắng chốn Đế Đô. Những kiến văn ấy chàng thu lượm được từ sách vở.
Nguyên ngày hôm ấy, chẳng thấy Trình Thiên Kim xuất hiện, Tử Khuê rất nóng ruột, đứng ngồi chẳng yên. Kỹ nương cười bảo :
- Khuê nhi chớ trông ngóng cho uổng công. Con bé ấy làm sao dám vô cớ nhập trang trong khi ngươi đã cấm không được khai ra Bàng Nguyên Hối? Ta đã cho tỳ nữ Thu Linh giám sát cổng trang, phát hiện một nữ lang xinh đẹp đã ba lần đi ngang qua. Nhưng Khuên nhi cứ yên tâm, mẫu thân đã có diệu kế để thử thách nàng dâu.
Sáng ra, Kỹ nương sai ả tỳ nữ thân tín Thu Linh kẻ đã hầu bà suốt hơn hai chục năm qua, dán lên cổng Quách gia trang một tờ thông báo tuyển nữ gia nhân.
Lập tức có nhiều người đến xin việc nhưng Kỹ nương đều khéo léo từ chối cho đến xế chiều Thu Linh hớn hở chạy vào thông báo với Kỹ nương :
- Bẩm phu nhân! Cá cắn câu rồi. Cô ả hôm qua đã thay y phục bằng vải xấu đến xin làm gia nhân. Mời phu nhân ra đại sảnh xem mặt nàng dâu.
Quách lão cũng có mặt tại khuê phòng gật gù bảo :
- Không ngờ rằng Trình Giảo Kim này lại chí tình với Khuê nhi như thế.
Nàng ta là con nhà danh gia vọng tộc, lại mang hàm tước hầu, vậy mà dám hạ mình làm tôi tớ Quách gia, tình ý ấy quả là đáng khâm phục. Lão phu sẽ cùng bà ra xem mặt bậc kỳ nữ tử.
Kỹ nương cũng rất xúc động, vui vẻ cùng trượng phu tiến ra khách sảnh.
Phu thê an tọa xong, Kỹ nương mới ra lệnh cho Thu Linh ra cửa sảnh mời cô gái đang đứng khép nép dưới hàng hiên.
Thiên Kim ngượng ngùng theo Thu Linh vào bái kiến vợ chồng Quách trang chủ, những người mà nàng thiết tha được gọi là cha mẹ chồng.
Đến nơi, nhìn thấy gương mặt nghiêm nghị của Kỹ nương, Thiên Kim bất giác nghe lạnh xương sống, người run như cầy sấy. Nàng nghiêng mình thi lễ, ấp úng thưa :
- Bẩm Trang chủ cùng phu nhân, tiện nữ họ Hồ tên Thiên Kim, quê quán Phủ Nam Dương, năm nay hai mươi bốn tuổi. Tiện nữ vì hoàn cảnh khó khăn mà phải rời quê, đến Hứa Xương nương tựa một vị biểu thúc, nhưng chẳng may người ấy đã dời nhà đi địa phương khác. Thời may, tiện nữ đi ngang qua quý trang thấy thông báo tuyển gia nhân nên mạo muội vào đây, khẩn cầu nhị vị thường tình mà thu nạp.
Thiên Kim đã học thuộc lòng thiên cố sự này nhưng giờ đây ngấp nga ngấp ngứ mãi mới nói ra được. Nàng không quen nói dối nên mặt đỏ như gấc vì xấu hổ, mắt huyền đẫm lệ trông rất đáng thương.
Hôm nay, vị nữ Hầu tước kiêu sa mặc bộ y phục bằng vải xấu rộng thùng thình, chắc là mua lại của ai đó. Tóc nàng thắt bím đơn sơ, chân mang giày cỏ, giống hệt kẻ nghèo hèn. Nhưng không vì thế mà nhan sắc Thiên Kim mờ nhạt đi, nàng vẫn xinh đẹp lạ lùng, một vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc của loài hoa dại.
Kỹ nương rất hài lòng trước dung nhan và tấm chân tình của Thiên Kim.
Bà hiểu rằng nàng có một trái tim vĩ đại, son sắt, sẽ mang lại hạnh phúc cho Tử Khuê. Kỹ nương tủm tỉm cười bảo :
- Công việc trong Quách gia trang rất bề bộn và nặng nhọc, lão thân chỉ sợ cô nương không kham nổi đấy thôi. Cô nương có nước da trắng trẻo, mịn màng, bàn tay thon thả, chẳng một vết chai sần, chắc trước giờ chưa hề vất vả. Bổn trang chỉ thiếu một chân phụ bếp, liệu cô nương có làm được không? Chắc lão thân phải tìm người khác quá.
Thiên Kim hốt hoảng van nài :
- Bẩm phu nhân! Tiện nữ tuy bề ngoài yếu đuối mảnh mai nhưng sức lực chẳng kém nam nhân. Dẫu công việc nặng nề đến mấy tiện nữ cũng hoàn thành được.
Nàng vừa nói vừa sa lệ khiến Quách trang chủ mủi lòng, lên tiếng chấp thuận ngay :
- Thôi được! Kim nhi đừng khóc nữa. Lão phu sẽ nhận ngươi vào làm.
Thiên Kim mừng như chết đi sống lại, quý ngay xuống dập đầu cảm tạ.
Nàng đi theo tỳ nữ Thu Linh xuống chỗ ở của gia nhân, không để ý đến thư phòng của vợ chồng Quách trang chủ.
Thiên Kim vừa đi ra ngoài thì Tử Khuê bước vào, ngượng nghịu hỏi :
- Nhị vị nhân gia nhận xét thế nào về Thiên Kim?
Quách lão vỗ đùi đắc ý :
- Tốt lắm! Tốt lắm! Được một nàng dâu như thế thì lão phu còn mong gì hơn nữa.
Kỹ nương mỉm cười phát biểu :
- Ta cũng rất hài lòng nhưng cứ chờ thêm vài hôm nữa để xem Kim nhi có thể vì tình yêu mà hy sinh đến mức nào?
Trong những ngày sau đó, Thiên Kim phải làm quần quật từ sáng đến tối, chẳng hề được ngơi tay. Ngoài việc phục vụ cho ba bữa cơm, nàng còn bị sai phái một cách vô tội vạ. Không những thế, thiên kim còn bị Thu Linh mắng mỏ, giễu cợt không thương tiếc. Thực ra cũng có nguyên nhân là sự vụng về của vị tiểu thư chưa bao giờ làm việc nhà. Thiên Kim thường đánh vỡ chén đĩa khi rửa chúng, nhặt rau không sạch, thái thịt không xong, miếng nào cũng thô kệch và nham nhở như chó gặm.
Có lúc, Thiên Kim tưởng chừng như mình không sao chịu đựng nỗi cơ cực này thêm một ngày nào nữa. Nhưng chính những phút giây ngắn ngủi được nhìn thất Tử Khuê, dù chỉ xa xa đã nâng đỡ tinh thần nàng. Thiên Kim lặng lẽ chấp nhận công việc tôi đòi đầy tủi nhục, chờ cơ hội tiếp cận Tử Khuê. Tình yêu đã giúp nàng nhẫn nhịn đến mức chẳng hề nổi giận khi bị Thu Linh tát vào mặt.
Nàng chỉ ứa lệ, thầm gọi tên chàng.
Thu Linh tuổi đã gần bốn mươi, theo hầu Kỹ nương từ lúc bà còn nổi danh Băng Tâm Ma Nữ. Khi bà rời bỏ chốn giang hồ thì Thu Linh cũng cùng đi.
Hiện nay, Thu Linh đã trở thành quản lý gia nhân, tỳ nữ của Quách gia trang.
Nàng cũng là người duy nhất biết rõ ẩn tình và thứa lệnh chủ mà thử thách Thiên Kim.
Trưa ngày hai mươi mốt, ngày thứ tám làm đầy tờ của Thiên Kim, sau khi tát nàng dâu tương lai của họ Quách xong, Thu Linh hớn hở đến phòng vợ chồng Trang chủ báo cáo :
- Bẩm Trang chủ và phu nhân. Nô tỳ đã thử tát Trình tiểu thư để xem phản ứng. Nàng ta không hề có sắc giận, chỉ khóc mà thôi.
Quách Thiên Tường bất nhẫn trách vợ :
- Bà quả là người thận trọng quá mức, đầy đọa dâu quý của lão phu. Lỡ Kim nhi chịu đựng chẳng nổi mà bỏ đi thì có phải uổng không?
Kỹ nương cũng có vẻ hối hận, phân bua với trượng phu :
- Thiếp vì quá lo lắng cho hạnh phúc mai sau của Khuê nhi nên hành sự hơi quá tay. Nhưng giờ thì đã đủ, chúng ta có thể nhận dâu được rồi.
Bà quay sang dặn dò người tỳ nữ trung niên. Thu Linh vui vẻ đi ngày xuống bếp, tìm Thiên Kim và nói :
- Này Hồ hiền muội. Phu nhân cho rằng ngươi không thích hợp với việc bếp núc nên giao cho nhiệm vụ này. Từ nay ngươi sẽ hầu hạ Tam công tử.
Thiên kim tưởng mình nằm chiêm bao, vui sướng đến ngẩn người. Nàng ngơ ngẩn bước theo Thu Linh, lòng bối rối nô nức lo âu, không hiểu Vu Diệp sẽ đối xử với mình thế nào?
Đến phòng tử khuê ở dãy Đông Sương, Thu Linh đẩy cửa, kéo Thiên Kim vào rồi ngoe nguẩy bỏ đi. Tử Khuê đã đứng sẵn mỉm cười âu yếm. Thiên Kim nhìn chàng trân trối, nước mắt tuôn như suối, không nói được tiếng nào. Nàng chẳng dám chắc chắn rằng chàng có nhận ra mình hay không khi song phương chỉ tương hội một khoảnh khắc ngắn ngủi, và hiện giờ nàng đã khác hẳn vì đội lốt nghèo hèn.
Nhưng tử khuê đã bước đến, siết chặt nàng vào lòng và hỏi :
- Thiên Kim! Nàng có hạ cố nhận lời cầu hôn của ta không? Nàng đã vượt qua được sự thử thách của song thân ta rồi đấy.
Thiên Kim bừng tỉnh ngộ, bật khóc rấm rức và đám thùm thụp vào ngực Tử Khuê.
Thạch nữ đáo Vu Sơn
Quỷ Hồ Ly đắc đạo
Tuy nhiên, vợ chồng Quách trang chủ chỉ có thể bí mật nhận dâu và Thiên Kim vẫn giữ vai tỳ nữ. Thứ nhất là vì thanh danh của Hầu phủ, thứ hai vì mối hiểm họa Xoa Lạp cốc.
Một chiều gần cuối tháng năm, Quách gia trang nhận được hai lá thư gần như cùng một lúc. Lá thứ nhất là của Kỹ Tòng Thư thông báo hôn lễ giữa ái nữ Kỹ Lưu Tiên và nam tử của Lưu Tài Thần. Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán đã ngỏ lời cầu hôn và đám cưới sẽ cử hành vào đầu hạ tuần tháng sáu. Đấy là lý do vì sao Tòng Thư không đi Hứa Xương như đã hẹn. Kỹ lão đã mời vợ chồng Quách Thiên Tường và Tử Khuê đến chơi sẵn có dịp tham dự hôn lễ luôn một thể.
Được tin này, Kỹ nương rất hân hoan vì có dịp tạ lỗi với huynh trưởng. Bà sẽ đứng ra tổ chức lễ vu qui cho cháu gái một cách linh đình và chu đáo nhất.
Tòng Thư là nam nhân lại góa vợ nên chẳng thể nào làm tốt việc ấy được. Kỹ nương thì đã từng gả hai chị cùng cha khác mẹ của Tử Khuê nên rất có kinh nghiệm.
Lá thư thứ hai là của Bang chủ Cái bang gởi cho Tử Khuê. Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường là một trong hai người của Hội đồng Võ lâm biết lai lịch thực của Vu Diệp chân nhân. Người kia là Trương Thiên Sư.
Nội dung thư chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: “Kỳ Hoàng đã ngộ nạn. Vu Diệp mau đến Lạc Dương”. Kỳ Hoàng chính là đạo hiệu của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ hoành, sư thúc của hai mẹ con Tử Khuê. Thư gởi đi Hứa Xương bằng chim câu, do đệ tử Cái bang sở tại mang đến Quách gia trang, xem ra tình trạng của Cổ chân nhân rất nguy ngập.
Người võ sĩ rất xem trọng nghĩa sư môn nên Kỷ nương vô cùng lo lắng, đốc thúc Tử Khuê lên đường ngay sáng mai. Bà tư lự nói :
- Thạch bang chủ đã viết như thế là có ý bảo ngươi dùng thân phận Vu Diệp chân nhân mà đến Lạc Dương. Nghĩa là ngoài Bang chủ Cái bang và Trương Thiên Sư ra, không ai biết ngươi là Quách Tử Khuê!
Trong lúc ái tử sửa soạn hành lý, Kỹ nương sai tỳ nữ Thu Linh đi vào thành mua ba bốn bộ đạo bào. Tử Khuê đã mập lên rất nhiều chẳng thể mặc vừa y phục đạo sĩ cũ.
Trình Thiên Kim rất muốn đi theo Tử Khuê nhưng không dám ngỏ lời.
Nàng sắp phải tháp tùng vợ chồng Quách trang chủ đi Bảo Bình sau đó về Hầu phủ. Họ sẽ mang lễ vật đến gặp Trình lão thái, chính thức hỏi cưới nàng cho Tử Khuê.
Thiên Kim mới được gần gũi người thương chẳng mấy ngày, nay phải xa lìa nên lòng buồn vô hạn. Tối đến, nàng lặng lẽ bỏ những vật dụng cần thiết vào tay nải của Tử Khuê và thỉnh thoảng lén gạt nước mắt.
Tử Khuê liền ôm nàng, hôn lên mắt :
- Chúng ta chỉ xa nhau vài ngày thôi, nàng chớ nên bi lụy. Ta sẽ xuôi Nam ngay khi có thể và muộn lắm thì cũng tương phùng trong ngày xuất giá của Lưu Tiên biểu tỷ.
Thiên Kim gật đầu, tỏ vẻ đồng ý nhưng vẫn ôm chặt tình lang như chẳng muốn xa. Da thịt mềm mại ấm nóng và mùi hương ôn nhu từ tóc nàng đã khiến Tử Khuê động tình. Chàng đã biết giấc mộng Vu Sơn ngày ấy là thực, càng yêu thương Thiên Kim tha thiết và không quá giữ gìn lễ giáo khi kề cận. Nhưng hai người chỉ dám vuốt ve nhau chứ không giao hợp vì sợ Thiên Kim cấn thai trước ngày cưới. Nàng là một Nữ Hầu tước, chẳng thể để người đời dị nghị được.
Hôm nay, hai thân xác thanh xuân dán chặt vào nhau nên Thiên Kim cảm nhận được ngay sự ham muốn của Tử Khuê. Nàng thẹn thùng thì thầm :
- Thiếp cũng khao khát được hầu hạ gối chăn cho tướng công. Chỉ tiếc rằng chàng là đạo sĩ mà không thạo thuật Phòng Tung của đạo gia nên hậu quả sẽ khó lường.
Tử Khuê tỉnh ngộ, nhớ lại những đoạn văn trong Đạo Tạng. Chàng hôn nàng và ngượng ngùng nói :
- Ta đúng là ngốc tử. Cảm tạ nàng đã nhắc nhở. Thực ra, muốn tránh thai thì nào có khó gì?
Đạo Tạng là tổng hợp kinh thư của Đạo giáo, bắt đầu xuất hiện từ giữa thời Đông Hán, trước hết là Thái Bình kinh và các đạo thư liên quan đến dưỡng sinh. Từ thời Đường đến thời nhà Minh, Đạo Tạng được hoàn thành và thông hành toàn quốc gồm có: Tam Động Quỳnh Cương, Đại Tống Thiên Cung Bảo Tạng, Vạn Thị Đạo Tạng, Đại Kim Huyền Đô Bảo Tạng, Chính Thống Đạo Tạng, Vạn Lịch Tục Đạo Tạng.
Nội dung sách vở được đưa vào Đạo Tạng rất phồn tạp, có một lượng lớn Đạo kinh và các điển tích liên quan tới sử tích thần tiên, nghi thức tri tiên, cũng có cả giáo nghĩa của các giáo phái khác nhau trong các đời. Ngoài ra còn có sách vở của Bách Gia Chư Tử, từ Tiền Tần đến đời Minh, và những sách liên quan tới các nội dung y dược, dưỡng sinh, luyện đan.
Trong phép dưỡng sinh của Đạo Tạng có cả thuật Phòng Tung, dựa vào thuyết Âm Dương Hòa Hợp. Thuật Phòng Tung là nghệ thuật đạt đến hoan lạc tột cùng trong ân ái, hoặc thu được lợi ích từ việc giao phối để thân thể tráng kiện, sống lâu.
Một trong những thủ thuật ấy của nam nhân là giữ cho mình không thoát dương. Tuy người đàn ông sẽ thiệt thòi về mặt khoái lạc nhưng nguyên khí được bảo toàn. Đạo Tạng còn dạy cả một phương thức tránh thai rất đơn giản là thoát dương bên ngoài.
Đã có cẩm nang, đội uyên ương dìu nhau vào cõi mộng, thỏa lòng nhung nhớ bấy lâu.
Mờ sáng ngày hai mươi bảy tháng năm, Tử Khuê bí mật rời Hứa Xương, mang theo hương da thịt nồng nàn của Thiên Kim.
Xế chiều ngày hôm sau, chàng chỉ còn cách Dĩ thành vài dặm. Chợt trời đổ mưa như trút nước, giông gió thét gào, biến những giọt mưa thành những mũi kim đâm rát mặt người và che mờ nhãn tuyến. Dù đã có áo tơi nhưng Tử Khuê cũng đành bó tay, thúc ngựa ghé vào căn Thập Lý đình bên vệ đường mà ẩn náu.
Dù là trường đình hay đoản đình thì chung quanh cũng chẳng bao giờ có vách nên bụi mưa tạt vào đến tận nơi. Nhưng dẫu sao thì còn khá hơn là phơi mình dưới gió mưa. Vả lại, sấm sét nổ liên hồi, giận dữ xé toang bầu trời xám xịt.
Sau khi đến Vũ Lương sơn, Tử Khuê đã ba lần bị sét đánh và thấy được công dụng nhiệm màu của “Tỵ Lôi thần châu”. Mặc dù thế, chàng cũng chẳng thích làm mục tiêu cho Lôi Thần một chút nào cả. Viên ngọc quý đã được giấu trong đùi chàng bởi một cết mổ nhỏ để nó không bị thất lạc.
Tử Khuê ngơ ngẩn ngắm cảnh mưa gió tơi bời, tiếc rằng không có Thiên Kim bên cạnh để hàn huyên và sưởi ấm cho nhau. Những trận ái ân cuồng nhiệt, đắm say đêm hôm trước đã khắc sâu hình bóng nàng vào tâm thức Tử Khuê. Giờ đây, tất cả những nữ nhân khác mà chàng từng biết đều mờ nhạt bên cạnh Thiên Kim. Nữ Hầu tước chẳng những xinh đẹp mà còn là một tình nhân vĩ đại nhất thế gian.
Đang miên man tưởng nhớ đến người yêu, Tử Khuê chợt phát hiện trên đường quan đạo có một bóng kỵ sĩ rạp mình phi nước đại về hướng Thập Lý đình, nơi chàng đang đứng. Và kỳ lạ thay, những tia sét liên tiếp giáng xuống xa xa vó ngựa cứ như Lôi Thần đang truy sát người ấy vậy.
Tử Khuê vô cùng kinh ngạc và thoáng nghĩ :
- Chẳng lẽ kỵ sĩ kia là kẻ hung tàn, ác độc tới mức chấn động lòng trời? Hay hắn cũng mang một số phận giống ta?
Lúc này, nạn nhân của lão Thiên Lôi mỏ nhọn chỉ còn cách căn Thập Lý đình sáu bảy trượng. Và một tia sét đã giáng xuống khá gần con tuấn mã, làm cho nó đau đớn hí vang rồi gục ngã, quăng cả người cưỡi ngựa xuống đất.
Ánh sáng rực rỡ của nhát búa lôi đình đã giúp Tử Khuê nhìn rõ gương mặt đầy cả kinh hoàng của “Đông Nhạc Tiên Hồ” Dịch Tái Vân. Tóc tai dựng ngược, toàn thân đau đớn khủng khiếp, nhất là hai chân, nhưng Tái Vân vẫn gượng đứng lên, loạng choạng chạy về phía căn dịch đình.
Tử Khuê chẳng kịp suy nghĩ thiệt hơn, lao vút ra như mũi tên rời dây cung, dang tay đón lấy nàng và nhấc bổng lên khỏi mặt đất sũng nước rồi nhảy lùi.
Sau đó, tia sét cuồng nộ kế tiếp đã đánh thẳng xuống, cách hai người mấy bước. Đông Nhạc Tiên Hồ tưởng phen này chết chắc, sợ quá nên ngất xỉu bởi tiếng sét đinh tai nhức óc.
Khi tỉnh lại, Tái Vân mơ màng nhận ra mình đang lõa thể, nằm ngửa trên một lớp vải lụa khô ráo. Và có đôi bàn tay ấm của ai đó xoa bóp khắp thân người nàng. Kỳ diệu thay, đội bàn tay nọ chạm đến đâu thì vị trí ấy không còn đau đớn nữa. Nàng đã nhớ ra kẻ cứu mình là một nam nhân nhưng không quan tâm đến. Nàng chỉ muốn mau mau thoát khỏi cảm giác đau nhức mà thôi.
Thấy ân nhân không dám động chạm đến hai vùng cấm, Tái Vân liền kéo tay người ấy đặt lên đôi nhũ phong mơn mởn của mình, rồi đến phần bụng dưới. Khi đã hoàn toàn thư thái, Tái Vân ngồi lên, thản nhiên nói :
- Ơn cứu mạng tiện nữ chẳng dám quên. Nếu các hạ thích thú, tiện nữ xin hầu hạ ba ngày để đền đáp.
Lúc này ngoài trời mưa đã bớt dữ dội nhưng không gian vẫn tối mờ. Nhờ ánh sáng của một tia sét ở xa xa, Tái Vân nhìn hơi rõ dung mạo của ân nhân. Té ra đấy là một chàng đạo sĩ trẻ, mặt mũi khá tuấn tú.
Chàng ta chẳng hề tỏ ra ham hố hay phân vân mà lại nghiêm trang bảo :
- Nữ thí chủ vốn kém phần âm đức, lại dám đem Lôi Thần ra đùa giỡn nên mới bị báo ứng ngay trong kiếp này. Nếu nữ thí chủ không tỉnh ngộ sửa mình, tu nhân tích đức thì khó toàn thây. Bấy nhiêu lời nhắn nhủ, mong nữ thí chủ chớ quên. Đấy chính là cách đền ơn bần đạo.
Nói xong, vị đạo sĩ trẻ mở tay nải, trao cho Tái Vân một bộ đạo bào để mặc tạm. Y phục nàng đã ướt và dính đầy bùn đất.
Tái Vân thẫn thờ mặc vào, lòng rất sợ hãi, nhớ đến việc mình bắt Hàn Thiếu Lăng từ hôn dù đã nhờ Lôi Thần chứng giám.
Trong nỗi tuyệt vọng ngút ngàn, Đông Nhạc Tiên Hồ chợt thức ngộ ra rằng chỉ có cách đi theo vị đạo sĩ thần thông quảng đại này thì mới mong sống thọ. Tuy trẻ tuổi nhưng đạo hạnh của chàng cao thâm đến mức cứu được người bị sét đánh.
Tái Vân liền quỳ xuống, hành lễ khóc nói :
- Đệ tử Dịch Tái Vân, trước giờ chỉ làm ác, hại người, tội lỗi chất chồng, nay đã tỉnh cơn mê, xin theo bậc Chân nhân tu hành sám hối, mong đạo trưởng cứu vớt kẻ bạc mệnh này.
Tử Khuê mỉm cười đáp :
- Nàng là tuyệt sắc giai nhân, làm đạo sĩ chẳng phải uổng kiếp hồng nhan hay sao?
Tái Vân buồn rầu thú thực :
- Bẩm đạo trưởng! Đệ tử luyện “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp” nên chẳng còn ham muốn nhục dục, đi tu cũng là phải đạo.
Tử Khuê hài lòng nói bỡn :
- Vậy tại sao lúc nãy nàng lại đòi hiến thân cho bần đạo?
Tái Vân thẹn thùng đáp :
- Đệ tử biết người là bậc chân tu, không màng sắc dục nên mới nói thế. Vả lại, đệ tử hơi ấm ức khi thấy người chẳng hề động lòng trước vẻ quyến rũ của đệ tử.
Tử Khuê thấy nàng cực kỳ chân thực với mình nên cũng thương xót.
Chàng trầm ngâm bảo :
- Đạo danh của ta là Vu Diệp chân nhân. Bần đạo cũng muốn giúp nàng trở về nẻo chánh nhưng đồng hành thì e rằng không tiện. Người ngoài làm sao biết nàng là thạch nữ.
Dịch Tái Vân dập đầu van nài :
- Đệ tử xin từ bỏ danh hiệu Đông Nhạc Tiên Hồ, suốt đời mặt áo đạo sĩ, tôn người làm sư phụ. Danh phận rõ ràng như thế thì người đời sẽ không đàm tiếu được.
Tử Khuê bối rối tự nhủ :
- Ta đâu có đóng mãi vai Vu Diệp và cũng chẳng thể tiết lộ thân thế thì làm sao dám cưu mang ả hồ ly đã hướng thiện này?
Chàng phân vân một lúc rồi nói :
- Bần đạo trẻ tuổi hơn mà, nếu nàng làm học trò thì quả là miễn cưỡng, khó coi. Hay là bần đạo thay mặt tiên sư, nhận nàng làm đệ tử Huyền Hư phái.
Nàng gọi ta là sư huynh thì hợp lý hơn. Ta sẽ dạy nàng kinh nghĩa.
Dịch Tái Vân nghe xuôi tai, mừng rỡ hỏi lại :
- Dám hỏi tiên sư đạo hiệu là chi?
Tử Khuê liền nói ra danh hiệu Vu Mộc chân nhân và giải thích sơ qua nguồn gốc của Huyền Hư phái núi Nga Mi. Chàng cũng đặt cho Tái Vân đạo hiệu Vu Thiện.
Tạnh mưa, hai người cưỡi chung một con ngựa, chậm rãi đi đến Dĩ thành.
Trước tiên, Tử Khuê ghé tiệm bán y phục mua sắm vài bộ đạo bào mới cho Tái Vân, cùng những vật dụng cần thiết của mỹ nhân. Tay nải của nàng đã rơi mất trên đường chạy trốn sấm sét.
Đêm ấy, họ trọ trong lữ điếm, sáng ra mua thêm ngựa khởi hành đi Lạc Dương. Hai ngày sau, hai kẻ đồng môn đến Đăng Phong, mướn phòng ở Tung Sơn đệ nhất khách sạn. Rặng Trung Nhạc lừng danh ở phía Bắc thành Đăng Phong, chỉ cách chừng vài dặm.
Nửa đêm, tiết trời u ám và nhiều sấm sét. Tái Vân sợ khiếp bỏ lại phòng riêng, sang phòng Tử Khuê nép vào người chàng mà run rẩy. Chợt có tia sét đánh tới gần, nàng hoảng hốt ôm chặt lấy chàng.
Tử Khuê dở khóc dở mếu, nằm cứng đơ chịu trận. Tuy mang bản chất thạch nữ song Tái Vân lại là vưu vật hiếm có trên đời. Mặt nàng đẹp tựa tố nữ trong tranh, da dẻ trắng trẻo, thơm tho như bông bưởi. Thân thể nàng là kiệt tác của một nghệ sĩ điêu khắc bậc thầy, cân đối phi thường. Hôm trước, lúc hút điện sét trong người nàng ra, Tử Khuê đã có dịp chiêm ngưỡng, lòng thầm khen đấy là tác phẩm không hề có khuyết điểm. Ngực Tái vân đầy đặn nhưng không quá lớn, vòng eo thanh mảnh tương xứng với đôi mông tròn trịa, gọn gàng và cặp chân dài săn chắc.
Pho tượng quyến rũ ấy không biết rung động nhưng cũng khiến bọn nam nhân cháy bỏng bởi khát khao. Đêm ấy, Tài Vân tả tơi khốn khổ vì tai họa nên Tử Khuê chỉ lo cứu chữa mà không nổi tà tâm. Đêm nay, uy lực của nàng đã phục hồi nguyên vẹn, ngát hương dưới lớp áp ngủ bằng the mỏng. Trước những cơn mưa Hạ, tiết trời khá oi bức nên Tử Khuê đã ở trần, cảm nhận được tận cùng sự tiếp xúc thịt da người ngọc.
Chàng biết mình đã động tình, liền cố hình dung đến khuôn mặt u buồn của Thiên Kim để sự hổ thẹn dập tắt lửa dục. Tử Khuê đã cầm cự được cho đến lúc tạnh mưa, nhẹ nhõm trút bỏ gánh nặng.
- Sư muội có thể về phòng mình được rồi đấy.
Tái Vân phụng phịu dụi đầu vào chàng mà thỏ thẻ :
- Lỡ trời lại mưa nữa thì sao? Tiểu muội chỉ yên tâm khi ở bên cạnh sư huynh.
Tử Khuê thở dài bảo :
- Ta là người chứ nào phải thần tiên mà có thể dằn lòng mãi khi nằm cạnh sư muội.
Tái Vân cười khúc khích :
- Té ra sư huynh cũng bị tiểu muội cám dỗ, nãy giờ cắn răng kiềm chế lửa lòng. Nhưng để xem định lực của sư huynh thâm hậu đến dường nào, nếu sư huynh không động tình, tiểu muội sẽ về phòng mình.
Dứt lời, nàng vuốt ve khắp người chàng chẳng sót chỗ nào cả. Song Tử Khuê lại có linh cảm rằng Tái Vân đã sinh nghi, đang cố tìm viên “Tỵ Lôi thần châu” trên cơ thể mình. Nàng là nghĩa nữ của Âu Dương Mẫn tất phải biết thần châu là vật duy nhất đối phó được với sấm sét. Sự cảnh giác đã khiến lòng chàng nguội lạnh, lửa dục tắt lịm. Tử Khuê còn thầm lo lắng mình sẽ vì Tái Vân mà bại lộ thân thể, di hại đến gia đình.
Bỗng Tái Vân dừng tay, cúi xuống hôn lên má chàng và thì thầm :
- Tiểu muội biết sư huynh là công tử nhà họ Quách và cũng là Hàn Thiếu Lăng. Nhưng sư huynh cứ yên tâm, tiểu muội thà bị sét đánh chứ không tiết lộ việc này cho ai biết.
Tử Khuê hoảng sợ tới mức toát mồ hôi hột, lát sau mới trấn tĩnh được và ấp úng hỏi :
- Vì sao nàng biết được bí mật của ta?
Tái Vân cười đắc ý :
- Tiểu muội có một khả năng là luôn ghi nhớ những đặc điểm của người mình đã gặp, từ ánh mắt, nụ cười, giọng nói, dáng đi. Vì vậy, chỉ cần kề cận một hai hôm là tiểu muội đã nhận ra chàng là gã râu rậm Hàn Thiếu Lăng. Còn cái thân phận thực thì chẳng khó đoán, vì ngoài “Tỵ Lôi thần châu” ra không gì có thể cứu được một nạn nhân của Lôi Thần. Từ lâu, tiểu muội đã nghi ngờ Quách gia trang bán ngọc giả cho Âu Dương minh chủ.
Và nàng đổi giọng u uất :
- Quách công tử! Hai lần được chàng cứu mạng, lòng thiếp vô cùng cảm kích. Thiếp hận mình là một thạch mỹ, không xứng nâng khăn sửa túi cho chàng. Nhưng thân xác hèn mọn này, thiếp xin dâng cho chàng mua vui. Dẫu sao thì lấn trước thiếp đã thề chỉ thuộc về chàng rồi.
Dứt lời, Tái Vân gục xuống ngực chàng mà thổn thức. Tử Khuê động lòng trắc ẩn vuốt ve lưng nàng và định nói lời an ủi nhưng chẳng biết nói sao.
Trưa mùng bốn tháng sáu, Tử Khuê cùng Tái Vân đến Lạc Dương. Đưa nàng vào Tổng đàn Cái bang thì bất tiện, Tử Khuê để Tái Vân ở lại trong Cửu Triều đại khách sạn. Lạc Dương được tôn xưng là “Cửu triều danh đô” (Kinh dô danh tiếng của chín triều đại), nên lữ điếm này mới chọn tên như thế, hàm ý tự hào về lịch sử lâu đời.
Chính Tái Vân chọn khách sạn này, vì nó có đến bốn tầng, sấm sét chẳng thể nào xuyên thủng hết được. Và nàng còn thận trọng đòi tầng dưới cùng.
Thẹn vì thân không chút bạc vàng, sống bám vào Tử Khuê nên nàng phải tiết kiệm. Biết giá phòng đắt cắt cổ, Tái Vân thản nhiên bảo lão chưởng quỹ :
- Bọn ta là phu thê, chỉ cần một phòng mà thôi. Đạo giáo Trung hoa có rất nhiều môn phái, quy củ mỗi phái khác nhau, và đa số không cấm đồng môn kết hôn. Ví dụ như Thiên Sư giáo hoặc Hoa Sơn chẳng hạn. Vì thế, lão chưởng quỹ không lấy làm lạ, cứ thế thi hành.
Vào đến trong phòng Tái Vân mỉm cười bảo Tử Khuê :
- Thiếp phải xưng mình là vợ chàng may ra Lôi Thần nguôi giận, bỏ qua lỗi cũ.
Tuy đang cười song ánh mắt nàng buồn vời vợi, khiến Tử Khuê bất nhẫn.
Quả thực là trên đường đi, Tái Vân đã chăm sóc cho chàng chu đáo chẳng khác gì hiền phụ. Giờ đây nàng lặng lẽ theo vào phòng tắm, kỳ lưng và gội đầu cho chàng.
Chẳng kịp dùng cơm, Tử Khuê đi ngay đến tổng đà Cái bang ở gần cửa Đông thành. Nghe khách xưng là Vu Diệp chân nhân, bọn hán tử ba túi cho người dẫn vào ngay.
Cơ ngơi của ăn mày tất chẳng nguy nga, tráng lệ, sơn son thếp vàng. Ở đây chỉ có màu xanh của cây cối là tươi mát, còn toàn bộ quần thể tam hợp viện này khá u ám bởi những mảng màu xám xịt, lờ lợ. Mái ngói rêu xanh, tường vôi loang lổ, cột kèo tróc sơn, trơ mộc, nền gạch mòn vẹt, lở lói. Ba năm liền nhiều địa phương lại bị thiên tai, đệ tử Cái bang chết đói như rạ, nên Thất Bổng Cái làm gì có tiền tu sửa tổng đà.
Đấy là thảm trạng của hai dãy Tây sương và Đông sương, nằm cạnh sân gạch rộng, lồi lõm. Còn dãy mặt Bắc, nơi thờ phụng linh vị Đại Tổ sư và hội họp, tiếp khách thì có khá hơn đôi chút.
Trong gian khách sảnh ở mé Đông Bắc, sáu vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ lâm đang ngồi uống trà, sắc mặt buồn rầu, trầm trọng. Tử Khuê vội chắp tay thi lễ :
- Đệ tử Vu Diệp bái kiến lục vị Chưởng môn.
Thất Bổng Cái nóng nảy xua tay :
- Được rồi, ngươi cứ việc ngồi!
Tử Khuê an tọa, chưa kịp hỏi han tình hình của sư thúc là Cửu Hoa Thánh Y thì Bang chủ Cái bang đã hỏi ngay :
- Này Vu Diệp! Chẳng hay ngươi có quen biết lãi già nào họ Lỗ tên Trực hay không?
Tử Khuê nhớ đến Lỗ phán quan, phân vân đáp :
- Bẩm có! Nhung lão ấy là Phán quan dưới Âm ty chứ đâu phải người sống.
Trương Thiên Sư vỗ đùi cái bép và than :
- Thôi đúng rồi! Hèn chi lúc gặp lão, bần đạo nghe âm khí nặng nề song không thể xác quyết vì cho rằng ma quỷ chẳng dám lên Long hổ sơn. Té ra Lỗ Trực là chức sắc của Diêm cung nên chẳng sợ Tam Thanh.
Thấy vẻ ngơ ngác của Tử Khuê, Trương giáo chủ giải thích ngọn ngành :
- Số là thế này. Hồi cuối tháng tư, lúc hiền điệt và ngũ vị Chưởng môn đây, đang ở Kỹ gia trang vì việc “Diêm Vương quỷ kỳ”, thì bần đạo vẫn còn ở Long Hổ sơn. Tối ngày hai mươi chín, bỗng đệ tử vào báo rằng có khách xin cầu khiến, đem đến tin tức của Cửu hoa Thánh Y. Bần đạo mừng rỡ ra ngay khách sảnh, thấy một lão nhân tuổi độ sáu mươi, râu quai nón rất oai phong. Lão ta tự giới thiệu mình là “Vô Địch Quyền” Vương Lỗ Trực, bằng hữu vong niên của Vu Diệp hiền điệt.
Sau đó, Lỗ thí chủ nghiêm trang bảo rằng Cổ chân nhân hiện đang bị giam cầm trong “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận”, trên đất Hồ Nam. Lão không tiết lộ địa điểm mà nói rằng chỉ một mình Vu Diệp hiền điệt là có thể phá được trận pháp ấy. Và hiền điệt phải có mặt ở bờ hồ Động Đình, ngay trước lầu Nhạc Dương, đúng đêm rằm tháng bảy, để lão ta dẫn đi phá trận.
Nói xong lão bỏ đi ngay. Bần đạo lìên bói một quẻ, để xem Thánh Y hung cát thế nào, thì phát hiện tượng quả cực kỳ hắc ám, nguy hiểm phi thường. Vì vậy bần đạo tin lời Lỗ thí chủ, lên đường đi Lạc Dương hy vọng Cái bang sẽ tìm ra Vu Diệp hiền điệt.
Biết Tử Khuê không hiểu vì sao Hội đồng Võ lâm lại đủ mặt, Thất Bổng Cái tiếp lời Trương giáo chủ :
- Lúc đến Nam Xương, Trương Thiên Sư đã nhờ đệ tử bổn bang dùng chim câu báo tin trước, nên lão phu kịp thông tin cho bốn phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Hoa Sơn, Toàn Chân. Cổ chân nhân là đại ân nhân của sáu phái nên các Chưởng môn đã mau chóng có mặt.
Tùng Xuân Tử, Chưởng môn nhân phái Toàn Chân, hiền hòa an ủi Tử Khuê :
- Hiền điệt cứ an tâm lên đường. Trước ngày rằm tháng bảy, lực lượng của sáu phái sẽ có mặt ở Nhạc Dương để hỗ trợ hiền điệt.
Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi hỏi Thất Bổng Cái :
- Bẩm Thạch tiền bối. Chẳng hay người có đoán ra nhân vật nào ở Hồ Nam liên quan đến “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận” hay chưa?
Thạch Kính Tường nhăn mặt lắc đầu :
- Chẳng có chút manh mối nào cả. Lão phu chỉ thị cho ba ngàn đệ tử bổn bang ở Hồ Nam truy tìm những địa điểm khả nghi song đến nay vẫn chưa có kết quả.
Tử Khuê thất vọng cáo từ, hứa với sáu Chưởng môn rằng sẽ có mặt đúng hẹn.
Chàng về đến phòng trong khách sạn thì Tái vân vẫn chờ cơm chứ không ăn trước. Nàng đợi quá lâu nên mệt mỏi ngủ gục ngay tại bàn ăn. Tử Khuê mỉm cười vỗ nhẹ vai nàng lay gọi.
Tái vân tỉnh giấc, đứng bật dậy, tuy còn ngái ngủ mà ánh mắt vẫn tràn ngập niềm hân hoan cực độ :
- Ôi, tướng công! Chàng đã về đấy ư.
Tử Khuê rùng mình, xúc động đến tận đáy lòng, bất giác ôm lấy Tái Vân và hôn lên má, lên môi.
Tái Vân có vẻ sung sướng, đứng im nhận lãnh sự ban thưởng, song sau đó bật cười khúc khích, tuột khỏi vòng tay chàng :
- Để thiếp bảo tiểu nhị bưng thức ăn xuống bếp hâm lại đã. Cơm canh nguội cả rồi.
Hai người trò chuyện, dùng bữa xong thì trời đổ mưa rào. Tử Khuê quyết định trọ lại Lạc Dương một đêm, sáng mai mới lên đường. Những cơn mưa Hạ khu vực sông Hoàng Hà rất dai dẳng, kéo dài suốt mấy canh giờ, và Tái Vân thì tối kỵ đi lại dưới mưa.
Tử Khuê bỗng nghe mệt mỏi che miệng ngáp dài và tìm một giấc ngủ trưa. Tái Vân thấy vậy sốt sắng lấy áo mỏng mang đến, dịu dàng giúp chàng thay y phục. Nàng vui vẻ bảo :
- Tướng công cứ nghỉ ngơi đi. Thiếp đã ngủ được một chút rồi.
Khi Tử Khuê lên giường thì nàng cũng lên theo song nằm cách xa vài gang. Mùi hương tóc và da thịt mỹ nhân khiến Tử Khuê nhớ đến ái thê Trình Thiên Kim, lòng chợt xốn xang, bối rối. Chàng sẽ giải thích với nàng thế nào đây về việc gắn bó với Tái Vân. Do định mệnh mà chàng và Đông Nhạc Tiên Hồ đã trở thành một đôi uyên ương sống chết không rời. Nếu có thể thì chàng đã tặng viên “Tỵ Lôi thần châu” cho Tái Vân rồi. Tử Khuê còn thầm lo ngại khi phát hiện mình ngày càng có cảm tình với ả hồ ly núi Thái Sơn. Chàng rất hổ thẹn và buột miệng thở dài.
Dịch Tái Vân thấy chàng thao thức mãi liền xích lại gần, thỏ thẻ bảo :
- Thiếp sẽ hát ru tướng công ngủ.
Sau đó, nàng hát nho nhỏ một khúc dân ca đất Sơn Đông. Âm điệu đều đều, buồn bã đã đưa Tử Khuê vào giấc ngủ dễ dàng hơn.
Sẩm tối, Tử Khuê mới thức giấc, liếc sang bên cạnh thì thấy Tái Vân đang miên man nhìn lên trần nhà và lệ tuôn dài. Có lẽ nảng thương tâm vì số phận hẩm hiu của mình, một kiếp hồng nhan nửa mùa và suốt đời phải trốn chạy những cơn mưa.
Tử Khuê chợt cảm thương nàng vô hạn, xoay qua kéo nàng vào lòng tỏ ý bảo bọc. Tái Vân bật khóc thành tiếng, ôm lấy chàng thật chật. Bỗng nàng thủ thỉ :
- Thiếp sợ nhưng không hề oán giận lão Lôi Thần. Nhờ lão ta mà thiếp được kề cận tướng công và hạnh phúc biết bao. Có lẽ trong thiếp đã nảy sinh một thứ tình cảm mà thế gian gọi là tình yêu? Và thiếp đã khóc vì sợ mình sẽ bị Trình tiểu thư xua đuổi, bắt phải xa tướng công.
Tử Khuê bàng hoàng nhớ đến mối tình tuyệt vọng của Thái Sơn Tiên Nương và Cửu Hoa Thánh y. Đúng là những nữ nhân lãnh cảm vẫn có thể yêu.
Thân xác họ nguội lạnh nhưng trái tim chẳng bao giờ thôi xúc cảm.
Tử Khuê đã kể hết gia thế và tao ngộ trong cuộc đời mình cho Tái Vân nghe, nên nàng biết tính nết của Kỹ nương cũng như Thiên Kim. Nghĩa là không còn chỗ cho Tái Vân trong Quách gia trang và Tử Khuê thì chẳng thể phụ bạc tấm lòng trinh liệt của Thiên Kim.
Tái Vân hiểu được điều ấy qua thái độ câm lặng của Tử Khuê. Nàng ngồi dậy, nhìn vào mắt chàng và nói với giọng thiết tha :
- Thiếp quyết chẳng để tướng công phải khó sử nên sẽ rời xa chàng trước khi đến Kỹ gia trang. Trong những ngày còn lại, mong tướng công đối xử với thiếp như người vợ thực thụ để hóa giải tai họa lôi giáng. Sau này xa cách, thiếp sẽ vẫn chung thủy đúng như lời thề xưa, chắc là Lôi Thần sẽ nguôi giận.
Nói xong, Tái vân run rẩy cởi áo ngủ và yếm đào, để lộ phần thân trên kỳ diệu của mình. Và nàng cầm tay Tử Khuê đặt vào đôi nhũ phong mơn mởn tựa đào tơ.
Tử Khuê hiểu rằng đây là cách duy nhất để cứu Tái Vân và giải quyết mối quan hệ éo le của hai người. Hơn nữa, chàng thực sự bị quyến rũ bởi nét đẹp thiên kiều bá mị của Tái Vân.
Tử Khuê say đắm vuốt ve thân thể ngà ngọc của Tái Vân. Nàng hân hoan đón nhận nhưng da thịt chẳng hề có dấu hiệu của sự động tình và ánh mắt thấp thoáng vẻ sợ sệt.
Tử Khuê xót thương vô củng và hiểu rằng mình không thể ái ân với Tái Vân được. Chàng nghe lửa dục nguội dần và định bỏ cuộc. Nào ngờ, bên tai Tử Khuê bổng văng vẳng tiếng ai, nhỏ tựa tiếng muỗi vo ve :
- Hãy điểm vào bốn huyệt Thủy Đạo, Phủ Xá, Quan Nguyên, Âm Giao trên bụng và ba huyệt Yên Du, Huyền Khu, Cân Súc trên xương sống.
Giọng nói đầy ma lực khiến Tử Khuê răm rắp làm theo, chẳng chút nghĩ ngợi. Chàng là đại cao thủ trong nghề phất huyệt môn nên chẳng cần nhìn cũng có thể điểm rất chính xác. Sau bốn huyệt trên bụng dưới, Tử Khuê lòn tay bấm tiếp ba huyệt dưới lưng người ngọc.
Kỳ diệu thay, gương mặt trắng trẻo của Tái Vân bổng đỏ hồng và ánh mắt rực rỡ nỗi khát khao. Nàng háo hức mời gọi ái ân và rồi đắm mình trong hoan lạc.
Đến tận cuối canh hai đôi uyên ương mới rời nhau. Tái Vân gối đầu lên vai Tử Khuê, thẹn thùng nói :
- Sao tướng công biết phương thức hóa giải khuyết điểm của “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp”. Giờ thiếp đã là một người đàn bà trọn vẹn rồi.
Tử Khuê nhớ lại, hiểu rằng hồn ma Lỗ phán quan đã chỉ điểm cho mình lúc nãy chứ chẳng còn ai khác. Chàng vô củng hổ thẹn khi nghĩ đến việc lão chết tiệt ấy đã rình xem cảnh phong lưu giữa mình và Tái Vân. Nhưng Tử Khuê cho rằng lão là ma nên không giận.
Tất nhiên, chàng chẳng thể nói thực với Tái Vân, đành gượng cười :
- Phương pháp ấy ta học trong sách thuốc từ lâu, nay dùng thử không ngờ lại công hiệu.
Tái Vân định nói gì đấy nhưng lại thôi.
Sáng ra, hai người xuôi Nam, từ Lạc Dương xuống Nam Dương còn có đường khác, không phải qua Hứa Xương.
Niềm hạnh phúc được trở thành người đàn bà thực thụ đã biến đổi tâm trạng Tái Vân. Sau lớp sa đen buông quanh vành nón rộng, nụ cười kiều mị thoáng điểm và ánh mắt nàng dành cho Tử Khuê luôn chất ngất yêu thương và mê đắm.
Nàng càng vui hơn khi thức ngộ Tử Khuê cũng yêu mến mình. Tái Vân sung sướng vì điều ấy và thề sẽ lấy cho được chàng, dẫu phải chịu muôn ngàn cay đắng cũng chẳng từ nan.
Nhưng giờ đây, nàng chưa vội thổ lộ ý định nọ.
Xế chiều mùng bảy tháng sáu, cặp đạo sĩ giả hiệu đến cánh rừng hòe ngoại thành Nhữ Châu. Thành nằm cạnh sông Nhữ Hà nên mới có tên như thế.
Mùa hạ là mùa của loài hòe nên cành lá sum suê, um tùm, che mát cả một đoạn quan đạo dài đến tận mấy dặm. Và lúc này đang là tháng sáu, hoa hòe nở rộ vàng rực bên đường, hương thơm ngào ngạt. Không những thế, hoa rụng đầy đường tựa như tấm thảm gấm vàng đón chào người lữ khách.
Hoa hòe được dùng làm thuốc nhuộm và còn là nguồn tạo ra mật ong tốt nên loài vật nhỏ bé siêng năng ấy bay lượn khắp nơi, ve ve góp tiếng cùng lũ ve sầu đang rỉ rả khóc than.
Đàn ong gợi cho Tử Khuê nhớ đến Thiên Kim, người con gái nuôi ong ở đất Trình. Lòng chàng thắt lại vì hổ thẹn. Tử Khuê do hoàn cảnh mà ngày càng say đắm Tái Vân nhưng vẫn yêu Thiên Kim hơn cả. Dẫu cho tập quán đa thê được thế gian công nhận song đấy vẫn là hành vi bất nghĩa mà người quân tử không làm.
Dòng suy tư phiền muộn của Tử Khuê bị cắt ngang bởi chuyện lạ trước mắt. Bên vệ đường mé hữu có một toán kỵ sĩ đang nghỉ chân. Họ gồm bốn người, áp giải một cỗ tù xa. Trong xe tù là một nam nhân áo đen, vóc dáng trung bình. Gọi là lạ vì bốn kỹ sĩ kia chẳng phải là công sai mà là cao thủ của Xoa Lạp cốc, còn cỗ xa tù thì lại cắm cờ Tổng đàn Võ lâm. Tử Khuê biết lai lịch họ là nhờ nhận ra hai gã trung niên đã từng chặn đánh chủ tớ Trình Thiên Kim ở cổng Tịch Hà Đệ nhất tửu quán.
Tử Khuê và Tái Vân chẳng có gì phải sợ vì đang mặc y phục đạo sĩ và đội nón tre có viềm the đen phủ kín mít. Bộ đạo bào hơi rộng nên đã che giấu thân hình thon thả của Tái Vân, khiến người ngoài thoạt nhìn khó biết là nam hay nữ.
Nhưng khi đi ngang qua cỗ xe tù, thấy gương mặt tiền tụy, lem luốc của tù nhân, chẳng hiều sao Đông Nhạc Tiên Hồ lại thoáng rùng mình.
Hai người chậm rãi phi nước kiệu trước ánh mắt soi mói, đề phòng của bốn kẻ giải tù đang ngồi trên bãi cỏ. Lúc đã khuất tầm mắt của họ bởi một khúc đường quanh co, Tái Vân bỗng đưa tay ra hiệu cho Tử Khuê rẽ vào lối mòn. Rồi nàng hạ mã, quỳ xuống mặt cỏ, dập đầu lạy chàng và khóc nói :
- Tướng công! Người tù nhân kia chính là đại ca của thiềp. Hai mươi năm trước, nhà thiếp ở vùng quan tái phía bắc tỉnh Hà Bắc, cha làm Tri huyện huyện Ngọc Điền. Tiên phụ tính tình thanh liêm, chính trực, từng gởi tấu chương về kinh sư để đàn hặc tội tham nhũng, xén bớt quân lương của Tri phủ Bắc Bình là Lý Cần Khoa. Lão cẩu quan ấy được Thái sư đỡ đầu nên đã bình an vô sự và còn biết ai đã tố cáo mình. Thế là lão ta liền mướn cao thủ đến tàn sát gia đình thiếp.
Nam phụ lão ấu, tổng cộng hai mươi tám người đã bị giết, chỉ mình thiếp và đại ca Dịch Quan San thoát ra được. Biết rằng ở lại quê nhà sẽ khó sống sót dưới tay Lý Tri phủ nên gia huynh đã cõng thiếp lúc ấy mới năm tuổi trốn vào Trung Nguyên.
Sau khi gởi gắm thiếp cho tiên sư là Thái Sơn Nương Nương, gia huynh đi tìm bậc dị nhân mà học thêm võ nghệ. Tiên sư chính thực là đại di của anh em thiếp. Song vì võ công của bà không thích hợp với nam nhân nên đã giới thiệu gia huynh với một bằng hữu của mình.
Ba năm sau, gia huynh quay về cố quận, hành thích Lý Tri phủ rửa thù nhà. San ca đã tra khảo Lý Tri phủ để biết lai lịch toán sát thủ mà lão ta đã mướn. Kể từ lúc ấy, gia huynh dành cả cuộc đời cho việc truy tầm sào huyệt của Hoạch Đầu hội. Nay chẳng hiểu sao Âu Dương Mẫn lại cho người truy bắt gia huynh? Thiếp xin dập đầu khẩn cầu tướng công bạt kiếm cứu y. Thiếp nguyện làm thân trâu ngựa mà hầu hạ tướng công suốt kiếp này và muôn kiếp khác.
Tái Vân kể lể một hơi rồi gục vào ngực Tử Khuê mà khóc vùi. Chàng đã sớm xuống ngựa đỡ nàng lên chứ không để mỹ nhân quỳ lâu như thế.
Tử Khuê không ngờ cuộc đời Đông Nhạc Tiên Hồ lại đầy bất hạnh đến vậy. Chàng xúc động đưa tay lau nước mắt trên má nàng và nghiêm nghị nói :
- Vân muội cứ yên lòng. Tất nhiên là ta phải cứu Đại cửu tử của mình rồi.
Tái Vân choáng váng bởi niềm hạnh phúc bất ngờ, hiểu rằng Tử Khuê đã quyết lấy mình làm vợ. Nàng e ấp thỏ thẻ :
- Đa tạ tướng công đã xót thương thân phận bọt bèo này. Song thiếp chỉ e tình khang lệ của chàng sẽ vì thế mà sứt mẻ.
Tử Khuê cười buồn :
- Thiên Kim tính tình cương liệt, hào sảng chẳng kém bậc tu mi, hy vọng sẽ rộng lượng chấp nhận mối nhân duyên kỳ lạ của chúng ta. Nhưng theo gia quy nhà họ Quách, nàng phải cam phận nhị phòng, chịu nhiều thiệt thòi.
Tái Vân sung sướng đưa tay bịt miệng tình quân, vui vẻ nói :
- Tướng công bất tất xót xa cho thiếp. Được hầu hạ chàng và Trình tiểu thư là thiếp mãn nguyện lắm rồi. Hơn nữa, thiếp không sinh nở được, sao dám so bì với Thiên Kim?
Tái Vân rất thản nhiên khi nói lên điều đau lòng ấy. Nhưng thực ra, cũng chẳng có gì đáng buồn vì phong tục xã hội đương thời quy định rằng con của thiếp phải xem người vợ cả là đích mẫu và nàng chỉ như kẻ mang thai hộ mà thôi. Vả lại, việc sanh nở sẽ khiến nhan sắc nữ nhân tàn phai nhanh chóng, một điều mà Tái Vân tối kỵ. Không còn bận bịu con cái, nàng sẽ luôn được thảnh thơi cùng Tử Khuê hưởng lạc thú hoặc sánh vai hành hiệp. Là người cơ trí, Tái Vân biết mình phải làm gì, liền dặn dò Tử Khuê :
- Thiếp cho rằng tướng công nên giữ kín việc thiếp không còn là thạch nữ, như thế sẽ khiến Trình thư yên tâm hơn.
Tử Khuê mỉm cười giả lả rằng :
- Trò xảo quyết ấy ta không làm được. Nếu Thiên Kim hỏi thì ta chẳng thể giấu vì phu thê phải luôn thành thực.
Tái Vân đỏ mặt vì xấu hổ song trong lòng thầm kính phục Tử Khuê. Nàng liền đánh trống lảnh bằng cách bàn định kế hoạch giải cứu Dịch Quan San.
- Tướng công! Chúng ta sẽ giải cứu Dịch đại ca bằng cách nào?
Nàng nổi danh là hồ ly núi Thái Sơn, mưu kế có thừa, song vì kính yêu phu tướng mà chẳng dám khoe tài, tế nhị hỏi ý kiến Tử Khuê. Tuy dung nhan trẻ tựa gái đôi mươi, Tái Vân vẫn tự hiểu mình đã hai mươi sáu, không nên tỏ ra quá lão luyện khiến chàng trai non nớt kia mặc cảm. Nam nhân thích là cây sồi vững chắc cho nữ nhân nương tựa chứ không muốn kém cạnh đàn bà.
Tái Vân tưởng Tử Khuê sẽ vấn kế mình, nào ngờ chàng lại từ tốn đáp :
- Bốn kỵ sĩ chính là cao thủ Xoa Lạp cốc, bản lĩnh rất cao cường. Chúng ta chỉ có hai người, chẳng thể nào ngăn cản họ hạ sát Dịch đại ca khi thấy nguy. Vì vậy, ta nghĩ rằng phải chờ họ vào thành Nhữ Châu nghỉ trọ rồi hẵng ra tay. Tù xa phải để ở ngoài quán và phe đối phương luân phiên canh giữ. Khi họ chỉ còn một hoặc hai người thì việc cướp tù rất dễ dàng.
Tái Vân nghe đúng ý mình chẳng sai một nét, lòng vô cùng cao hứng, thán phục. Nàng kiễng chân lên hôn vào má chàng và tán dương :
- Tướng công quả là bậc tài trí, liệu việc như thần.
Tử Khuê cười mát :
- Ta làm sao dám sánh với nàng.
Gần cuối canh hai đêm ấy, trăng thượng huyền bàng bạc giữa không trung tỏa ánh sáng dịu dàng vuốt ve vạn vật, song không làm lộ tung tích hai khách dạ hành đang ẩn mình trên tàn cây du rậm rạp, cạnh bức tường cao của Hoàng Lương đại lữ điếm trong thành Nhữ Châu.
Tử Khuê và Tái Vân ngồi bên nhau trên một chảng ba, nhìn xuống cỗ tù xa không ngựa đặt trên một sân gạch rộng ở giữa dãy phòng ốc của lữ điếm. Xe tù thực chất là một xe độc mã không mui, trên có cũi gỗ chắc chắn. Cũi gỗ ấy chỉ cho vừa đến vai người ngồi bệt nên đầu của tù nhân sẽ ló ra ngoài.
Nhưng cạnh bên của cũi tù kết cấu bằng những thanh song gỗ lớn nhưng mặt trên là hai mảnh ván dày. Chỗ tiếp giáp là hai mảnh ván ấy có khoét lỗ để gông ngang cần cổ tù nhân. Lỗ này rộng hơn vòng cổ một chút nhưng đủ hẹp để đầu không qua được. Nghĩa là kẻ phạm tội phải giữ mãi tư thế khổ sở ấy suốt những dặm đường áp giải. Tất nhiên hai tay họ bị xích chặt, chẳng thể thò ra tháo chốt gông được.
Kích thước cũi tù tính theo tầm vóc trung bình của người Hán nên tù nhân nào quá cao hoặc quá thấp thì sẽ phải khốn khổ, khốn nạn.
Tử Khuê ngắm nghía cỗ tù xa và thảm trạng của tù nhân mà lòng bất nhẫn. Chàng chua chát nghĩ thầm :
- Tại sao một dân tộc có nền văn hóa rực rỡ như Trung Hoa lại có thể sáng chế ra cái loại hình cụ đáng ghê tởm đến thế nhỉ? Sao không để cho kẻ xấu số kia lọt hẳn vào trong cũi, ngã lưng đôi chút trên nệm rơm?
Tử Khuê bỗng rùng mình nhớ lại tướng nước Tần, “Võ An Quân” Bạch Khởi, trong một đêm đã cho giết sạch bốn mươi vạn hàng binh nước Triệu khi chiếm được ải Trường Bình. Sử chép rằng ngày ấy máu đổ nhiều đến nỗi nước sông suối, ao hồ của vùng Dương Cốc đều biến thành sắc đỏ.
Trước hành vi tàn nhẫn phi thường ấy thì cũi tù quái ác kia nào có đáng gì! Tử Khuê là người nhân hậu, tin vào trời đất, quỷ thần nên chán ghét điều ác.
Chàng chợt nghĩ đến bộ lạc người Di hiền lành ở vùng núi Vũ Lương sơn và cho rằng họ tốt hơn người Hán rất nhiều. Khổng Phu Tử luôn đề cao đức nhân vì thiên hạ vốn bất nhân, nhất là bọn vua quan.
Bất giác, Tử Khuê thở dài khiến Tái Vân thắc mắc, nàng nghé tai chàng nũng nịu thì thầm :
- Tướng công phiền muộn vì điều gì vậy, sao không chia sẽ với thiếp.
Tử Khuê chưa kịp đáp thì trống canh ba từ huyện đường vọng lại, sau đó là tiếng mõ tre của những gã tuần đêm, nhắc nhở bách tính cài chặt then cửa, dập lửa trong bếp, đề phòng đạo chích cùng hỏa hoạn.
Phía dưới sân kia, đối phương đã thay ca gác, một già, một trẻ. Theo kế hoạch, Tử Khuê cùng Tái Vân đợi thêm ít khắc, chờ hai kẻ đã đi vào phòng ngủ thật say và hai kẻ ở ngoài cũng gật gù mới ra tay thần phục. Nhưng cặp mới thay ca lại lớn tiếng gọi bình trà thật đậm khiến Tử Khuê quyết định thay đổi chiến thuật.
Chàng nói nhanh ý mình rồi nhảy xuống đất, chạy vào khu nhà bếp. Thấy gã tiểu nhị của lữ điếm đang lui cui pha trà và chỉ có một mình, Tử Khuê liền điểm huyệt gã rồi lột áo mặc bên ngoài bộ hắc y. Người võ lâm nào cũng có trong tay nải một bộ y phục sẫm màu, thường là màu đen, may bằng lụa tốt, bó sát thân mình để dễ bề hành động trong đêm tối.
Khi rời nhà, Tử Khuê không mang theo “Hắc Long Tiêu” nhưng lại chẳng quên đôi bao tay “Ngư giáp miệt” cực kỳ quý giá. Đêm nay, chàng đã sớm đeo vào, tăng cường ưu thế để có thể kết liễu đối thủ thật bất ngờ và chóng vánh.
Dưới ánh trăng mờ ảo này, người ngoài sẽ khó mà nhận ra việc chàng mang bao tay, nhất là khi chúng đã được quét lên một lớp sơn màu da người.
Tử Khuê chít dải khăn của gã tiểu nhị lên đầu, cố tình để một đầu khăn rũ xuống che bớt khuôn mặt.
Chàng đã để trường kiếm lại cho Tái Vân nên giờ đây hai tay rảnh rang, bưng khay đồng đựng ấm chén trà.
Khi Tử Khuê bước đến gần chỗ cỗ xe tù thì Tái Vân cũng lần tới mép mái ngói của dãy Tây sương, chờ phối hợp hành động.
Hai kẻ gác tù đang ngồi trên một mành chiếu, cách tù xa hơn trượng. Họ không dám ngồi gần vì xe tù rất hôi hám, sặc mùi nước tiểu. Tội nhân chỉ được phép xin dừng xe để đại tiện mỗi ngày một lần, còn tiểu tiện thì tại chỗ ngồi.
May thay, Dịch Quan San chưa ngủ, rầu rĩ ngửa cổ ngắm những vầng trăng mùa Hạ. Và khi liếc về hướng Tây, gã đã phát hiện một hắc y nhân trên rìa ngói. Người này giơ hai bàn tay trắng muốt như ra dấu với gã.
Dịch Quan San nhận ra đối phương cứ vẽ lên không trung một chữ “Vân” thì biết là bào muội mình. Gã vui mừng khôn xiết, gật đầu lia lịa tỏ vẻ đã hiểu ý.
Rối gã bắt đầu ho lên sù sụ, liên miên như đứa trẻ bị ho gà. Những âm thanh ấy đã che giấu tiếng động mà Tái Vân sẽ gây ra khi nhảy xuống đất, phía sau hai gã Xoa Lạp cốc. Cặp cai tù cùng ngồi quay về hướng Đông để có thể quan sát cỗ tù xa.
Cuối cùng, Tử Khuê cũng đã đến bên chiếc chiếu, còn Tái Vân thì cách chỉ gần một trượng.
Đêm hè oi bức nên hai vị cai tù đã lột bỏ tơi nón, tạm quên mình là người của Xoa Lạp cốc. Nhờ vậy Tử Khuê nhận rõ dung mạo nạn nhân của mình. Đấy là Hán tử tuổi bốn mươi mà chàng đã gặp và một lão nhân tuổi lục tuần, không râu, mũi to, mặt xương xẩu, đanh ác.
Hai người ấy ngồi xếp bằng, kiếm tuốt trần gác lên đùi, và vì là kẻ lão luyện giang hồ nên họ đã sớm đặt tay lên chuôi gươm để đề phòng bất trắc, dù gã tiểu nhị kia không hề có khí giới.
Tử Khuê thản nhiên ngồi cạnh manh chiếu, đặt khay trà xuống, và chàng mỉm cười, hắng giọng như chuẩn bị nói vài lời nịnh nọt vậy. Nhưng không phải thế, đấy chính là ám hiệu để Tái Vân xuất thủ. Nàng đang ngồi thu lu sau một chậu hoa, nghe hiệu lệnh của tình lang thì búng mạnh đôi chân lao vút đến. Khi một kẻ bị định đánh lén từ phía sau lưng, trong một khoảng cách quá gần như thế thì rất khó toàn mạng. Lưỡi kiếm của Tái Vân đã tiện phăng cổ Hán tử trung niên, khiến tiếng rú bi thương không sao phát ra được.
Trước đó một khoảnh khắc nhỏ bé, Tử Khuê đã vươn tả thủ thọc vào yết hầu người còn lại. Lão ta thuộc hàng Hộ pháp của Xoa Lạp cốc nên bản lãnh chẳng tầm thường, lại sớm vận khí phòng bị nên phản ứng rất mau lẹ. Thanh bảo kiếm trên đùi lão lập tức ngóc lên, chặt vào cổ tay Tử Khuê. Đồng thời, tay trái của lão xỉa thẳng vào ngực chàng theo thế cương đao.
Hai thế thức nọ đúng là công thủ vẹn toàn nhưng chỉ tiếc rằng vô hiệu đối với “Ngư giáp miệt”. Lưỡi gươm sắc bén của lão ta không chặt đứt được uyển mạch Tử Khuê, còn tả thủ thì chạm phải lòng bàn tay phải cứng như thép nguội mà chàng đã thủ hờ.
Bốn ngón tay của Tử Khuê xuyên thủng cổ họng nạn nhân, phá nát cả khí quản lẫn thực quản nên những tiếng rên ằng ặc, tắc nghẹn không làm chấn động cảnh đêm trăng tĩnh mịch.
Sau khi đắc thủ, hai người lập tức chạy đến tù xa. Trong lúc Tử Khuê loay hoay tháo chốt gông cổ, Tái Vân ôm đầu bào huynh mà khóc :
- Đại ca! Đã hơn năm không gặp, nào ngờ đại ca lại rơi vào cảnh ngộ này.
Dịch Quan San cằn nhằn :
- Hồi nhỏ ngươi khóc lóc chưa đủ sao? Mau đưa ta rời chốn này kẻo không kịp nữa.
Tử Khuê đã tháo được hai mảnh gông, vươn vai nhấc bổng tù nhân ra ngoài, bồng xốc họ Dịch rồi cùng Tái Vân lướt về phía vườn hoa nhỏ sát tường sau lữ điếm.
Chàng thuận đà chạy nên có trớn lao vút qua bức tường cao gần trượng khiến Dịch Quan San vô cùng thán phục. Gã nằm ngửa nên nhìn rõ nét mặt trẻ trung, văn nhã của Tử Khuê, liền nghĩ thầm :
- Tiểu tử này là học trò của bậc dị nhân nào mà võ công lại cao cường đến thế nhỉ? Tướng mạo y đầy vẻ thuần hậu, thiện lương, sao lại xui xẻo đến mức bị em gái ta chài mồi lợi dụng. Ta phải bảo Vân muội buông tha cho gã mới được.
Dịch Quan San thừa biết bào muội mình là thạch nữ nên sẽ chẳng thực lòng với bất cứ nam nhân nào.
Nửa khắc sau, ba người về đến một tòa trang viện hoang phế gần cửa Tây thành. Tử Khuê và Tái Vân đã chọn nơi này làm chỗ trọ để dễ bề hành động. Họ không thể đưa Dich Quan San đến khách điếm được.
Đã lâu không có người chăm sóc nên tòa phế trang tiêu điều. Cỏ dại và bụi rậm mọc đầy sân. Tuy nhiên, tường và cổng trang còn nguyên vẹn nên người ngoài chẳng thể thấy ánh đèn phát ra từ một phòng ở dãy nhà hướng Đông. Nó tương đối tốt vì Tái Vân đã quét dọn rất sạch sẽ.
Nhà hoang chẳng có vật dụng gì cả song may thay những chiếc lu sành sau bếp lại đầy ắp nước mưa. Dẫu là anh em một thì trai gái cũng không thể tắm cho nhau nên Tử Khuê phải lãnh luôn nhiệm vụ cọ rửa cái xác thân hôi hám của Dịch Quan San. Gã đã kiệt lực chẳng còn sức đâu mà kỳ cọ. Chàng rất ngạc nhiên khi họ Dịch cẩn thận gỡ tấm mặt nạ da người, để lộ một dung mạo tuấn tú, khá giống Tái Vân.
Gần nửa canh giờ sau, họ Dịch sạch sẽ và tươi tỉnh trong y phục mới. Tái Vân đã mua sẵn cho bào huynh bốn năm bộ và đồ lót.
Món cháo gà hầm tam thất nóng hổi và vài chung rượu ngon đã làm cho gương mặt tái sanh của Quan San có sắc hồng. Trước đó, gã đã được Tử Khuê cho uống ba viên linh đan do mẹ chàng bào chế theo toa trong y kinh của Cửu Hoa Thánh y.
Dịch Quan San là kẻ thâm trầm, kín đáo, cơ trí còn tinh minh còn hơn cả Tái Vân. Cho nên, đến tận lúc này gã mới mở miệng, nghiêm trang bảo Tử Khuê :
- Này Quách công tử! Tại hạ thọ ơn cứu mạng nên chẳng thể lừa dối ân nhân của mình. Tại hạ xin nói thực rằng gia muội là người mắc quái tật không thể làm vợ, làm mẹ được. Do vậy, tốt nhất là công tử nên cắt đứt mối tình duyên này tìm một nữ nhân toàn vẹn hơn mà giá nghĩa.
Gã tưởng chàng sẽ nhảy dựng lên, nào ngờ Tử Khuê chỉ mỉm cười, hòa nhã đáp :
- Cảm tạ đại ca đã có thành ý. Nhưng thực ra tiểu đệ đã sớm biết việc này và vẫn yêu thương Tái Vân.
Đông Nhạc Tiên Hồ nhìn gương mặt ngơ ngác của bào huynh mà phá lên cười ngặt nghẽo. Rồi nàng ghé tai thì thầm khiến Dịch Quan San giật mình mừng rỡ, cười khà khà :
- Hay lắm! Đại ca xin chúc mừng cho hai người.