watch sexy videos at nza-vids!
doc truyen
Trang ChủTruyện
http://aff.mclick.mobi/ctxd/bigbang3g

Bá Chủ Tam Quốc

http://aff.mclick.mobi/swift-wifi/bigbang3g

Swift Wifi

http://aff.mclick.mobi/uc-in/bigbang3g

UC Browser

Nửa đêm dạ quỷ viếng chùa

Bệnh Hiệp thấy Tâm Đăng nhận lời, lòng mừng khấp khởi, nắm chặt lấy vai Tâm Đăng mà nói :
- Mi đã hứa... mi hứa thật sự... chẳng dối ta?
Tâm Đăng nước mắt lưng tròng, nức nở :
- Tôi không nói dối, tôi là người nhà Phật, tôi không biết nói dối.
Bệnh Hiệp nghe nói ha hả cả cười, nhưng tiếng cười có vẻ mệt nhọc lắm.
Ông ta nhổm dậy bảo :
- Ngày mai ta nghỉ một hôm, bắt đầu từ ngày kia mi lại phải vào hang tối cho ta dạy võ.
Nói rồi lão lách mình đi ra khỏi điện. Tâm Đăng nhìn theo bóng dáng gầy gò khấp khểnh của ông ta, mà nổi lên một nỗi lòng chua xót.
Chú thở dài lẩm bẩm :
- Bắt đầu từ ngày kia, ta lại trở về biển khổ của đời!
Sáng ngày hôm sau có một vị Lạt Ma ở Sắc La tự tên là Thanh Lộc mang bức thư của Đạt Lai đến Bố Đạt La Cung, do Mạc Cổ đọc cho chúng tăng được rõ.
Đại ý trong thư nói rằng, Đạt Lai không rảnh đến Bố Đạt La Cung nên tạm thời giao quyền cho Mạc Cổ trụ trì. Mười hôm sau, Đạt Lai sẽ chọn một vị cao tăng đến thế chức.
Bố Đạt La Cung bắt đầu yên tĩnh trở lại.
Phần Tâm Đăng thì vẫn tu hành một cách khổ hạnh, hễ có thì giờ thì dâng hương niệm Phật, dường như chú muốn lợi dụng thời gian một năm cuối cùng này, nỗ lực tu hành để hiểu thêm Phật pháp.
Qua đêm hôm sau, đó là một đêm tối trời, sao thưa trăng lặn. Tâm Đăng buồn bã, âu sầu lần mò vào hang tối để tìm Bệnh Hiệp.
Lần này, Bệnh Hiệp đối với Tâm Đăng không còn gắt gỏng như xưa nữa, ông ta hết lòng hết dạ truyền Đại Thừa thần công cho chú.
Thời gian đi thật nhanh, thấm thoát mà đã mười hôm lại qua.
Bố Đạt La Cung đổi một vị trụ trì mới, đó là Điệp Bố đại sư.
Đời sống của Tâm Đăng từ đây thật là trầm lắng, ban ngày chú tụng kinh gõ mõ, ban đêm lần mò vào hang thẳm học Đại Thừa thần công.
Mặc dầu chú chưa bước chân đến chỗ giang hồ nhưng nhờ Cô Trúc hết lòng dạy bảo bản lĩnh của chú nay đã thuộc hàng cao thủ.
Bây giờ lại học thêm Đại Thừa thần công, chàng thấy đó là một võ học thật cao thâm và hữu ích, trong lòng lấy làm mừng rỡ, biết rằng nếu mình học được trọn vẹn, nghệ thuật sẽ tăng tiến gấp mười lần.
Đêm đó, theo lệ thường, Tâm Đăng lần mò vào động, sau khi gặp Bệnh Hiệp ông ta bảo với Tâm Đăng :
- Đại Thừa thần công mi đã học đủ, bây giờ phải trải qua Thất Kiếp thì thần công tự nhiên có thể ứng dụng, bây giờ mi hãy theo ta.
Dứt lời, Tâm Đăng nghe thấy ông ta di chuyển thân hình, chú vội vã nghe theo tiếng động mà bước theo.
Đi quanh qua lộn lại một hồi, Tâm Đăng thấy dưới chân mình ẩm ướt lắm, thì ra đó là một vùng ứ nước, mực nước ngập đến mắt cá chân, hơi lạnh thấu xương.
Chợt nghe Bệnh Hiệp nghiêm giọng nói :
- Bây giờ mi phải ngồi ròng rã dưới nước này bảy ngày bảy đêm, và hơn nữa... nước lạnh lắm nhưng mi nhờ có Đại Thừa thần công nên có thể chống lại hơi lạnh, chừng nào mi nghe thấy thân thể ấm áp là mi đã qua được một lần tai nạn, và phải trải qua bảy lần như thế mới gọi là thành công. Trong bảy ngày ta sẽ mang đồ ăn đến cho mi.
Tâm Đăng nghe nói, giật mình gượng hỏi :
- Thế chừng nào mới bắt đầu?
Bệnh Hiệp trả lời :
- Bắt đầu ngay từ giờ phút này.
Tâm Đăng cắn răng nói thầm :
- Thôi bất chấp, đức Phật ngày xưa phải trải qua trăm lần tai nạn mới thành chính quả, nay ta chịu nạn bảy lần thì thấm vào đâu.
Chợt nghe Bệnh Hiệp nói :
- Bây giờ mi hãy ngồi ngay ngắn và bắt đầu...
Tâm Đăng vội ngồi xếp bằng xuống nước, bỗng nghe hơi lạnh xông tới đan điền, toàn thân run lên bần bật.
Chàng vội vận dụng Đại Thừa thần công ngự hàn, chống chọi thật lâu với hơi lạnh mới thấy lần lần giảm bớt, toàn thân đại huyệt lần lần cảm thấy thư thả...
Cố gắng chịu đựng như thế đến ngày thứ năm thì hơi lạnh ngày càng giảm bớt, từ đan điền bắt đầu tỏa ra một làn hơi ấm áp.
Lại qua một ngày nữa, Tâm Đăng cảm thấy khoẻ khoắn lắm.
Đến ngày cuối cùng, Tâm Đăng cứ ngồi dưới nước mà nhập định tham thiền, Bệnh Hiệp mang đồ ăn đến mà chú vẫn không hay.
Ông ta thấy vậy, vội sờ tay vào ngực của Tâm Đăng, thấy có một làn hơi ấm áp, mừng rỡ vô cùng.
Tiếp theo đó, Tâm Đăng lại trải qua sự chịu đựng về gió, về hơi nóng, về sự đau đớn, về sự đói rét, mỗi lần đều phải trải qua bảy ngày. Tâm Đăng cảm thấy trong cái hang tối âm u này thật chứa đựng nhiều điều bí mật, lần lần... hai mạch Nhâm, Đốc của chú được đả thông, và vô tình chú đã luyện được đến giai đoạn Kim Thân Bất Hoại Thể.
Vượt qua sáu lần khó khăn, tức Lục Kiếp, Bệnh Hiệp mới cười nói rằng :
- Tâm Đăng! Mi thật là một bậc kỳ tài, ta không qua nổi Tam Kiếp mà mi vượt qua Lục Kiếp, thật là đáng khen cho đó, bây giờ còn một kiếp cuối cùng là Tâm Kiếp, đoạn đường này là đoạn đường khó khăn nhất, chông gai nhất, nhưng may nhờ mi xuất thân là người cửa Phật, chắc có lẽ dễ thành công. Bây giờ mi hãy về chùa ngơi nghỉ, ba ngày sau sẽ trở lại.
Tâm Đăng mừng rỡ, lạy tạ Bệnh Hiệp mà lui ra, bất giác chuyến đi này, Tâm Đăng đã lưu lại trong hang tối bảy lần sáu là bốn mươi hai ngày.
Tâm Đăng vừa đến chùa, đồng đạo hỏi thăm rối rít, nhưng nhờ chú ứng đối lưu loát nên cũng tạm qua.
Ba ngày say Tâm Đăng lại trở về hang tối.
Nhưng mới bước vào cửa hang chú vụt cảm thấy lạ, vì rằng mọi lần trong hang tối tăm u ám, nhưng lần này không biết có ánh sáng từ đâu rọi vào, đường sá trông thật rõ ràng, làm cho Tâm Đăng lấy làm lạ tự hỏi :
- Bây giờ vào lúc về đêm, cớ sao trong hang lại sáng sủa thế này?
Đi sâu vào bên trong thấy Bệnh Hiệp đang bó gối tựa vào tường, bên mình ông ta có một bộ xương khô, Tâm Đăng vội thi lễ hỏi :
- Thưa sư phụ, cớ sao đêm nay trong này sáng rực?
Câu hỏi chưa dứt thì Bệnh Hiệp mừng rỡ hỏi rằng :
- Trong động sáng thật ư?
Tâm Đăng vội trả lời :
- Phải, sáng như ban ngày.
Bệnh Hiệp ha hả cười :
- Tốt lắm, mi vượt qua được giai đoạn Tâm Kiếp thì có thể biến thành Kim Cang Bất Hoại Thân.
Tâm Đăng không hiểu, hỏi Bệnh Hiệp, ông ta trả lời rằng :
- Trong động này vẫn tối như xưa, nhưng mi sở dĩ nhìn thấy sáng như ban ngày vì mi đã luyện thành Đại Thừa thần công, cặp mắt của mi bây giờ quí giá vô song, nhãn lực của những người luyện võ tầm thường không thể nào so sánh được.
Tâm Đăng nghe nói mừng rỡ khôn cùng, lại nghe Bệnh Hiệp cười rằng :
- Bây giờ mi hãy ngồi xuống nghe ta thổi sáo.
Tâm Đăng biết đây là cửa ải cuối cùng nên không dám chểnh mảng, vội vàng vâng lời ngồi xuống.
Bệnh Hiệp thò tay vào ống tay áo rút ra một ống sáo bé tí teo nói rằng :
- Bất luận những người tu hành hay những người luyện võ trong lòng đều có Tâm Ma, nếu có thể trừ được Tâm Ma thì có thể vượt hơn người thường, tên tục của mi là Chính Dung, pháp danh là Tâm Đăng, vậy thì mi phải giữ cho lòng mình trong suốt như hai chữ Tâm Đăng vậy.
Tâm Đăng gật đầu, tỏ vẻ đồng ý, gã ngồi xếp bằng tròn, nhắm nghiền cặp mắt tập trung tinh thần ý chí.
Chợt nghe bên tai vang lên một tiếng sáo trong veo như tiếng hạc lưng trời, tiếng sao nhẹ như một đường tơ, khi đứt khi nối, lững lờ theo tiếng gió đưa vào.
Tâm Đăng cảm thấy tiếng sáo thật là não nùng ai oán, như khóc như than, như oán như hờn, có lúc như vượn hú đầu non, có lúc lại như chim kêu cuối bãi, làm cho cõi lòng của Tâm Đăng bất giác não nề chua xót, tâm chú rung động...
Chính vào lúc thần hồn điên đảo, bỗng nhiên tiếng sáo thình lình thay đổi.
Giọng sáo từ chỗ tha thiết, não nùng đổi sang rầm rộ như thiên quân vạn mã, như dông tố bão bùng, như chiêu hồn bá tánh, thật là thảm thiết nhất trần gian.
Trong lòng của Tâm Đăng theo tiếng sáo mà bi ai thống khổ, chợt tiếng sáo đổi sang giọng khác.
Lần này nhẹ nhàng như én lượn qua rèm, như cánh chuồn đớp bọt, như muôn hoa đua nở, muôn hồng nghìn tía, có lúc lại thanh tao lảnh lót như ngọc rơi vào đĩa, thế rồi tiếng sáo ngưng bặt.
Tiếng sáo đã ngưng nhưng cõi lòng của Tâm Đăng vẫn còn thổn thức rào rạt, dường như muốn bay bổng đến một phương trời xa lạ, nơi ấy có một người thân đang tựa cửa ngóng chờ.
Trong chớp mắt, tâm hồn của chàng bừng bừng trỗi dậy, nào là bảo kiếm của người tráng sĩ, sắc đẹp của bậc giai nhân, giáp trụ đều thể hiện lên một cách say mê cuồng loạn.
Thình lình... trong ảo tưởng của chú vang lên một tiếng kêu thê thảm, trước mắt chú đen sầm lại, bên tai chú văng vẳng lên hai tiếng kêu não nùng :
- Con ơi! Con ơi!
Vậy thì ta là con ai? Mẹ ta là ai? Giờ này ở đâu? Còn sống hay chết? Cha ta là ai? Ai làm cho gia đình ta tan nát?!...
Những câu hỏi mơ hồ mà đáng sợ đó như những đợt sóng hải triều dâng lên trong tâm khảm, làm cho tâm hồn chú điên đảo bồi hồi!...
Ngần ấy câu hỏi hỗn tạp và đáng sợ bỗng nhiên bị một tiếng thanh thoát yểu điệu đuổi mất, tiếng đó thật là trong trẻo nhẹ nhàng, mà hương thơm thoang thoảng...
Quá nhiều ý tưởng phức tạp dồn vào tâm tư, làm cho chú kinh hoàng, sợ sệt, xen lẫn với vài nét vui mừng....
Những ngần ấy tâm tư chính là Tâm Ma của Tâm Đăng vậy.
Bệnh Hiệp ngồi bên cạnh, đăm đăm nhìn Tâm Đăng không chớp mắt, ông ta nhìn thấy sắc mặt của Tâm Đăng khi xanh khi đỏ, mồ hôi vã ra đầy trán, chiếc áo cà sa của chú ướt đầm đìa.
Trong lòng ông ta đăm chiêu lo lắng, khấn thầm :
- Xin Trời Phật phù hộ cho Tâm Đăng qua khỏi bảy ngày bảy đêm để vượt qua cửa ải cuối cùng....
Đến ngày thứ tư, sắc mặt của Tâm Đăng dần dễ chịu ông ta mới vững dạ.
Thì ra đây là một giai đoạn khó khăn nhất trong Thất Kiếp, đây là một việc làm mạo hiểm mà ông ta đem sinh mạng của Tâm Đăng ra thử thách, bây giờ ông ta yên trí lắm vì ông ta đã thắng.
Đến ngày thứ sáu, sắc mặt của Tâm Đăng trở lại bình thường, hơi thở điều hoà, sắc diện phương phi.
Vào nửa đêm ngày thứ bay, Tâm Đăng bỗng thình lình tỉnh lại, như một người đau mới mạnh, tứ chi rũ liệt, chân khí dường như tản mác, tiêu tan.
Tâm Đăng nhướng mắt nhìn thấy Bệnh Hiệp đang ngồi tựa lưng vào tường, nhắm nghiền cặp mắt.
Chú nói :
- Bệnh sư phụ, con đã trải qua Tâm Kiếp.
Giọng nói của chú yếu ớt, mà Bệnh Hiệp cũng tiều tuỵ lắm, vì rằng trót tháng nay ông đã mệt nhọc rất nhiều, bây giờ đang ngồi yên dưỡng thần.
Nghe Tâm Đăng nói chuyện, ông ta biết chú đã tỉnh lại, vội vàng nhướng mắt lên, trên khuôn mặt của ông ta tràn đầy vui sướng, ông ta nói :
- Bây giờ thì mi không nên trách ta như khi xưa nữa, mi nghĩ thử xem mi học môn võ công này đâu có trở ngại cho việc tu hành của mi.
Tâm Đăng nghĩ đến lúc trước khi chú đang tụng kinh trong Bố Đạt La Cung, Bệnh Hiệp xuất hiện một cách bất thần quấy rầy bị chú từ chối một cách tàn nhẫn, rốt cuộc thầy trở lại năn nỉ trò để truyền võ nghệ, việc này thật là phá cái lệ từ nghìn xưa để lại...
Nghĩ đến đó, chú bất giác hổ thẹn vô cùng.
Bệnh Hiệp lại nhắc :
- Bây giờ mi hãy ngồi yên dưỡng thần thêm một ngày một đêm nữa thì có thể tự do ra về Bố Đạt La Cung.
Tâm Đăng gật đầu, Bệnh Hiệp lại nói :
- Mi trở về chùa rồi đừng trở lại đây nữa, vì ta phải đi một nơi khác, một tháng sau chúng ta lại gặp nhau.
Nói rồi chuệnh choạng đứng dậy, Tâm Đăng biết ông ta sắp rời khỏi mình, hốt hoảng gọi :
- Sư phụ đi đâu?
Bệnh Hiệp mỉm cười, xoa đầu Tâm Đăng mà nói :
- Khi xưa mi đuổi ta, bây giờ ta muốn đi thì mi kêu lại.
Tâm Đăng nức nở nói :
- Sư phụ hãy nán lại để đệ tử có dịp săn sóc thuốc men.
Bệnh Hiệp nghiêm trang trả lời :
- Mi có lòng tốt đó, ta lấy làm cảm kích nhưng ta phải đi vì chúng ta sẽ lại gặp nhau.
Dứt lời, ông ta mỉm cười và lui gót, chỉ còn lại Tâm Đăng nhắm mắt dưỡng thần dưới hang sâu.
* * * * *
Tâm Đăng trở về chùa đã ba hôm rồi, ban ngày tụng kinh, ban đêm luyện võ.
Chú biết đã có duyên với nghề võ thì dầu sao trong tương lai không thể tránh khỏi tai ương, nên bây giờ chú tụng kinh niệm Phật và tu hành dữ lắm, e rằng sau này không có thì giờ để gần Phật nữa.
Chú quyết định rằng, đời sống của chú thay đổi thế nào đi nữa, ví dụ như hoàn tục chẳng hạn thì cũng có ngày chú trở về đây nương bóng Phật đài, và chú sẽ ở lại vĩnh viễn dưới chân bồ tát.
Đêm ấy, Tâm Đăng từ trong đại điện đi ra, bên ngoài gió lạnh thổi từng cơn, chú ngửa mặt nhìn vầng trăng vành vạnh, nghĩ thầm :
- Vào tháng này năm tới ta sẽ rời khỏi nơi đây.
Nghĩ đến đó, trong thâm tâm chú bàng hoàng khôn tả xiết, dường như chú lưu luyến ngôi chùa này lắm.
Đang nghĩ ngợi triền miên, thình lình thấy sau lưng mình gió dậy vì vèo, Tâm Đăng vội vàng nhón gót theo thế Thừa Phong Truy Lãng, thân hình của chú bắn vút về phía trước hơn một trượng.
Chưa kịp quay đầu nhìn lại, sau lưng chú vang lên một chuỗi cười rùng rợn, và gió lại nổi lên vi vút.
Tâm Đăng rợn tóc gáy nghĩ thầm :
- Chính tên này là hung thủ giết hòa thượng đây!
Không kịp quay đầu lại, chú sử luôn một thế Thừa Phong Truy Lãnh bắn vút về phía trước thêm một lần nữa.
Chân chưa chấm đất thì trên đầu chú gió lại nổi vì vèo, thì ra người này tấn công hụt một đòn, bây giờ biết trước nên chẳng để cho Tâm Đăng kịp thời đối phó, vượt trước mà tung ra một đòn thần tốc.
Tâm Đăng nhác trông thấy một chiếc bóng mờ từ trên phủ xuống, giương hai tay ra chụp lấy đầu chàng.
Chú giật mình, dựng hai bàn tay đẩy mạnh về phía trước, để cho thân hình bắn vù ra phía sau bảy thước, mới tránh khỏi song chưởng độc ác đó.
Chú gằn giọng hỏi :
- Thí chủ cớ sao lại vấn vít với tôi...
Người ấy nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt của Tâm Đăng, chú nhìn kỹ thấy đó là một lão già tuổi ngoại thất tuần, mặt vuông mày rậm, thân thể khôi ngô vạm vỡ.
Lão già ấy ha hả cười :
- Tiểu hòa thượng..., hèn chi những nhân vật trong làng võ Trung Nguyên thảy đều lũ lượt đến nơi đây, chỉ vì tiểu hòa thượng.
Tâm Đăng nghe câu nói nửa úp nửa mở này, trong lòng lấy làm nghi hoặc, vội chắp tay làm lễ hỏi :
- Lão thí chủ! Tiểu tăng nghe không thấu lời nói của thí chủ, tiểu tăng là người xuất gia xin thí chủ tha cho.
Lão già nghe nói lại ha hả cả cười :
- Xem mi thật giống người xuất gia, nhưng mi đừng sợ, ta không có ác ý, chỉ có một điều...
Tâm Đăng thấy sắc mặt của người này không phải là người lương thiện, không muốn nói dài dòng, vội trả lời :
- Thí chủ có việc gì xin hãy nói gấp, tiểu tăng còn có nhiều việc chưa làm.
Người ấy lại buông ra một chuỗi cười quái dị, ngắm nhìn Tâm Đăng không chớp mắt, nói một cách đắc chí :
- Hay cho tiểu hòa thượng, cốt cách của mi thật là phi phàm, ta hỏi mi, mi có biết ta là ai chăng?
Tâm Đăng lắc đầu :
- Tôi không biết.
Người ấy cười lanh lảnh :
- Ta họ Vạn tên Tiềm, biệt hiệu Dạ Quỷ!
Tâm Đăng nghe nói giật mình nghĩ thầm :
- Cứ cái biệt hiệu đó thì hắn không phải là người tốt, ta phải tìm kế tránh trước là hay.
Vạn Tiềm nói :
- Mi xuất gia từ thủa bé, nên không biết những việc trong chốn giang hồ. Khi ta còn ở Ngọc Thọ, nghe người ta đồn đại rằng trong Bố Đạt La Cung có một pho kỳ thư, và có một kỳ tăng, hai vật này nếu được một có thể giải được một việc đại sự trên chỗ giang hồ, vì vậy mà ta chẳng nề đường xa vạn dặm tìm đến nơi nay... vì việc này có liên quan đến ta...
Nghe Vạn Tiềm nói tới đây, Tâm Đăng nghĩ thầm :
- Hèn chi Bệnh Hiệp, Lư Âu đều đến chỗ này, thì ra chỗ này có một điều bí mật.
Vạn Tiềm tiếp tục nói :
- Ta đến đây đã bảy ngày, ta đã soát qua cả bảy nghìn mấy Lạt Ma, mà không thấy người nào xuất chúng. Còn pho kỳ thư đó, ta đoán đã không còn ở trong chùa này nữa, bởi vì Bố Đạt La Cung xảy ra nhiều vụ lưu huyết, ta biết trong này có nhiều điều bí ẩn.
Tâm Đăng lại nghĩ :
- Thằng già này khá thông minh.
Vạn Tiềm tiếp tục nói :
- Ta biết ở nơi đây đã có vài ba người đến trước, ta xem võ công của mi quá cao, đủ biết mi đã trải qua trên mười năm luyện tập.
Tâm Đăng nghe nói giật mình thầm nghĩ :
- Lão già này thật có nhãn lực, nhìn thoáng qua cũng biết ta học võ bao nhiêu năm, không biết lai lịch của lão ra làm sao.
Thần sắc của Vạn Tiềm rất thư thả, dường như đang trò chuyện với một người thân vậy, ông ngọt ngào hỏi Tâm Đăng :
- Thầy mi là ai? Ta nghĩ rằng thầy mi đến xứ này trên mười năm mà truyền võ cho mi, thì dụng ý của ông ta không phải vì việc ấy. Nếu bảo rằng vì việc ấy mà lặn lội đến đây truyền võ cho mi suốt mười năm trời thì dụng ý của người này chắc là cao thâm lắm. Bây giờ ta không nói dài dòng lôi thôi nữa, ta hỏi mi một việc?
Tâm Đăng cau mày, lấy làm khó chịu hỏi :
- Vạn thí chủ hỏi điều chi?
Vạn Tiềm do dự một chút, thoáng nở một nụ cười hỏi :
- Võ nghệ của mi cao siêu lắm nhưng vẫn chưa phải là một tay vô địch trong thiên hạ, vậy mi có bằng lòng học thêm vài món nghề riêng nữa không?
Tâm Đăng lại giật mình đánh thót, bụng bảo dạ :
- Lại có người muốn truyền võ cho ta, thật là kỳ quặc!
Tâm Đăng lúc bấy giờ đã chán chường võ nghệ, nghe Vạn Tiềm nói thế lắc đầu quầy quậy, trả lời :
- Tôi là người trong cửa Phật, Vạn thí chủ đừng tìm cách vấn vít làm cho tôi phải khổ vì đời.
Vạn Tiềm nghe nói trợn mắt thét vang :
- Câm mồm lại! Thằng Dạ Quỷ này muốn làm việc gì thì làm cho kỳ được, thuận ta thì còn, nghịch ta thì chết.
Câu nói của lão ta chưa dứt thì Tâm Đăng đã chắp tay lẩm bẩm :
- A di đà Phật! Nhà ngươi dùng cái chết để uy hiếp người xuất gia thật là một việc buồn cười. Xin hỏi thí chủ, sống là đâu, chết là đâu? Cái sống cái chết chẳng qua nằm chung trong một thể...
Vạn Tiềm thấy Tâm Đăng không có vẻ sợ hãi mà còn đem giáo lý nhà Phật ra thuyết với mình, cả giận thét vang :
- Tiểu hòa thượng! Mi có bằng lòng học võ không thì bảo?
Tâm Đăng ngang nhiên trả lời sang sảng :
- Thưa thí chủ, tôi là con nhà Phật, tôi không học những nghề giết chóc lẫn nhau.
Vạn Tiềm buông ra một chuỗi cười kinh rợn :
- Miệng lưỡi thật là chua ngoa, nằng nặc quyết cho mình là con nhà Phật, để ta xem trong lòng ruột mi có bao nhiêu Phật?
Câu nói vừa dứt, hắn vươn bàn tay hữu tống ra một chưởng, một luồng sức mạnh tức tốc ập vào ngực của Tâm Đăng làm cho chú phải bắn lùi hơn một trượng.
Vừa đứng vững chú tức tốc xoay mình chạy ra khỏi chùa nhanh như biến.
Thì ra Tâm Đăng biết mình không thể không ra tay chiến đấu với người này, sợ ở trong chùa làm kinh động đến đồng đạo, nên giả vờ chạy tuốt ra ngoài tìm chỗ vắng vẻ mà so với tên này một trận.
Vạn Tiềm chẳng rõ tâm tư của Tâm Đăng, ngỡ rằng chú sợ hãi mà chạy trốn, nên thong thả đuổi theo sau lưng một cách đắc chí, lão nghĩ thầm :
- Hãy để cho nó ra khỏi chùa rồi trị cho nó một mẻ, chừng đó nó mới không dám nghịch ý ta, hà hà... Nếu việc mà thành công thì...
Nghĩ đến đây lão mừng lắm, cười vang không ngớt tiếng. Ở phía trước Tâm Đăng vẫn lầm lũi chạy như bay, trong lòng chú không sợ nhưng nổi lên một nỗi buồn man mác, nhiều nghi vấn hiện ra trong trí mà không thể nào giải quyết ổn thoả.
Không bao lâu, Tâm Đăng chạy đến chỗ đỉnh đồi mà ngày thường chú học võ với Cô Trúc. Thình lình chú dừng chân, quay phắt đầu lại nói :
- Thí chủ đừng đuổi nữa, tiểu tăng sẽ so tài với thí chủ tại chỗ này.
Vạn Tiềm ngã ngửa, thì ra Tâm Đăng không phải sợ mà chạy, cốt ý dụ mình ra đây để thử sức.
Nhưng ông ta không những không giận mà còn vui vẻ cả cười :
- Hay cho tiểu hòa thượng! Ta sẽ so với mi vài hiệp.
Vừa nói thân hình của lão nhảy xổ tới như một con chim đại bàng, trổ ra hai ngón móc một đường thần tốc vào huyệt Thiên Đột của đối phương.
Tâm Đăng nào dám ơ hờ, sử một thế Di Bộ Tẩu Cung, để cho thân hình lệch sang năm bước, tránh thoát hai ngón tay độc hiểm...
Liền đó chú đưa bàn tay hữu ra theo thế Xảo Đả Sơn Mai, ấn một chưởng kinh hồn vào đầu của Vạn Tiềm...
Vạn Tiềm đánh hụt chưa kịp giật mình thì đòn của Tâm Đăng đã tới, sức mạnh rào rào, thoáng nghe cũng biết công lực của chú tiểu này không sút kém mình bao nhiêu, bất giác trong lòng kinh hãi nghĩ thầm :
- Tiểu hòa thượng thật là lợi hại, không biết thầy nó là ai...
Vừa nghĩ đến đây thì bàn tay của Tâm Đăng uy hiếp một cách dữ dội, Vạn Tiềm vội rùn vai né tránh trong cái thế Hàn Giang Thí Điếu, năm ngón tay của lão như năm chiếc vòng sắt móc mạnh vào ngực của Tâm Đăng.
Chính vào lúc Vạn Tiềm biến thế thì Tâm Đăng thu tay trở về, thì ra đòn Xảo Đả Sơn Mai chỉ là đòn giả, khả hư khả thực...
Chờ khi ngón tay của Vạn Tiềm kê sát nách mình rồi, Tâm Đăng bất thình lình biến ra thế Tỳ Bà Hoạch Tuyến, dùng bàn tay của mình trảm vút vào mạch máu của đối phương.
Vạn Tiềm rú lên một tiếng kinh hoàng, rút phắt bàn tay trở về, tung hữu chưởng theo thế Tang Hải Tầm Chu, dùng hai ngón tay móc vào mắt của Tâm Đăng.
Tâm Đăng thấy đòn của người này quá ư ác độc, công lực lại cao, trong lòng cả sợ, nên đem hết bình sinh sở học ra đối phó.
Hai chiếc bóng xoắn tít vào nhau dưới bóng cây trên đồi như hai con chim bằng tranh đấu cùng nhau, thật là đáng sợ.
Hai người đó có biết đâu vào giờ này trên một cành cây cổ thụ có một người đang ngồi mỉm cười mà ngắm hai người đang đánh nhau.
Trong chớp mắt đã hai mươi hiệp trôi qua mà không phân cao hạ, Vạn Tiềm nổi cơn thịnh nộ la hét om sòm mà Tâm Đăng vẫn đối phó có thêm phần thanh nhã.
Cuộc chiến càng kéo dài, Vạn Tiềm thở hồng hộc, mồ hôi ra như tắm, mà dưới bóng trăng trên cành cây, người bí mật nụ cười khẽ nở trên môi của hắn.
Chiếc áo cà sa của Tâm Đăng tung bay trong gió thật là đẹp mắt.
Chính vào lúc cuộc chiến ác liệt, bỗng nhiên một chuỗi cười kinh rợn vang lên làm cho Vạn Tiềm và Tâm Đăng giật mình thối lui ba bước.
Dưới bóng trăng lạnh âm u, bỗng xuất hiện một bà già buông chuỗi cười lạnh lẽo.
Nhác trông thấy bà già, Vạn Tiềm sững sờ nhìn Tâm Đăng.
- Té ra mi là đồ đệ của mụ ta.
Câu nói chưa dứt, bà già đó chính là Lư Âu, trợn trừng quát lớn :
- Vạn Tiềm! Mi muốn chết hay sao mà động thủ với nó?
Vạn Tiềm nghe nói, run rẩy trả lời :
- Lư cô! Tôi không biết nó là học trò của cô...
Nói tới đây, Lư Âu cắt ngang :
- Mi yên trí, thằng nhỏ này không phải học trò của ta, thày của nó không phải tay vừa, nếu ông ta hay được, ông ta sẽ xé mi ra làm trăm mảnh...
Vạn Tiềm nghe nói, hú hồn thầm trong dạ, lẩm bẩm :
- Tên này không phải là học trò của cô, bằng không đêm nay ta chết như chơi...
- Ta không muốn nói dài dòng, mi hãy rời khỏi Tây Tạng trở về Tân Cương. Nơi ấy sa mạc mênh mông chẳng ai tìm theo mi làm gì, kể luôn kẻ thù của mi cũng không buồn đi tìm mi nữa, thôi... mi đi đi!
Vạn Tiềm thở phào một hơi nhẹ nhõm, như người vừa được ân xá, cảm ơn rối rít :
- Cảm ơn Lư cô hết lòng chỉ bảo, lần này tôi về Tân Cương, nếu...
Lư Âu tỏ vẻ khó chịu cắt ngang câu nói :
- Thôi thôi, cút đi cho rảnh, đừng lảm nhảm dài dòng.
Tâm Đăng nhịn không được, bật phì cười, Lư Âu nạt :
- Mi đừng cười, mi cũng chẳng phải là người tốt.
Tâm Đăng bị mắng sượng sùng, Lư Âu thấy Vạn Tiềm còn đứng đó lại mắng :
- Cút đi!
Vạn Tiềm giật mình, xoay lưng bỏ đi trong mồm càu nhàu một câu Tây Tạng :
- Mẹ kiếp!
Tiếng chửi chưa dứt thì bỗng thình lình ông ta rú lên một tiếng hãi hùng...

Một bí mật tày trời

Tiếp theo tiếng rú đó, là một bóng người từ trên sà xuống, rơi vào giữa khoảng Tâm Đăng và Vạn Tiềm.
Tâm Đăng nhìn kỹ thấy đó chính là Lư Âu, bà ta sắc mặt xanh rờn, đôi mắt trợn trừng, mà đôi má của Vạn Tiềm vừa thủng một lỗ, máu tươi chảy ra từng giọt... từng giọt...
Thần sắc của Vạn Tiềm cực kỳ kinh hãi, Lư Âu cười sắc lạnh :
- Vạn lão nhị! Mi thật là to gan mới dám văng tục trước mặt ta. Mi phải gánh lấy tai họa mà mi chuốc lấy, mi đã trúng ám khí của ta, không lo thang thuốc, trong bảy ngày ắt không toàn tính mạng.
Vạn Tiềm nghe nói, hồn vía lên mây, vội vàng phủ phục trước mặt Lư Âu mà nài nỉ :
- Lư cô, tội tôi thật đáng chết, nhưng ngoài thuốc giải của Lư cô, tôi không biết đi đâu tìm thuốc...
Lư Âu vẫn lạnh lùng sắc mặt :
- Mi dại dột tự dẫn thân vào chỗ chết! Mi có nghe Lư cô này đả thương người rồi lại cứu hay chăng?
Vạn Tiềm nghe nói cực kỳ thất vọng, hắn muốn đi mà không dám, vì rằng sinh mạng của hắn vô tình đã nằm trong bàn tay Lư Âu.
Tâm Đăng trong lòng bất nhẫn, xá Lư Âu mà rằng :
- Lão tiền bối, xin mở lòng nhân đức cứu hắn một phen.
Tâm Đăng vừa dứt lời bỗng thấy Lư Âu trợn mắt nhìn mình, rồi lại nhìn Vạn Tiềm mà im lặng không trả lời.
Vạn Tiềm thấy mình chắc chết trước mắt, không ngờ Tâm Đăng lại lo cho yên nguy của mình đến thế, lấy làm cảm kích, nhìn Tâm Đăng bằng cái nhìn biết ơn làm cho Tâm Đăng càng thêm động lòng, nhất quyết tìm đủ mọi cách để cứu người này.
Tâm Đăng có biết đâu nhờ một chút lòng nhân này mà ngày sau chú đã cứu mạng chú.
Tâm Đăng lại vòng tay nằn nì với Lư Âu :
- Sư bá, xin sư bá tha cho hắn.
Lư Âu vẫn im lìm không trả lời... Lâu lắm mới lẩm bẩm :
- Gặp người xuất gia thật là rắc rối.
Nói rồi vừa tỏ vẻ khó chịu, vừa thò tay vào túi móc ra một lọ thuốc, trút một viên vào lòng bàn tay, cười mà nói với Vạn Tiềm :
- Mang về hòa với rượu mà uống rồi tọa công bảy ngày, chờ khi chất độc tan hết phải tức tốc cút khỏi vùng Tây Tạng, từ đây về sau ta mà gặp mi trên phần đất này, thì ta chẳng dung tha.
Vạn Tiềm nghe nói, như người chết đuối vớ được chiếc phao, ông chộp lấy viên thuốc rồi nói với Tâm Đăng một câu đầy cảm kích :
- Tiểu sư phụ! Thằng Vạn Tiềm này...
Vừa nói đến đây thì Lư Âu đã nạt :
- Mi còn chưa chịu cút đi uống thuốc? Ba tiếng đồng hồ sau thì thuốc của ta vô công hiệu đó.
Vạn Tiềm vội vã vái chào Tâm Đăng rồi đi thẳng xuống mái đồi thoai thoải...
Tâm Đăng thấy một con người hoành hành ngang dọc trong giang hồ như vậy, mà đứng trước mặt Lư Âu tiu nghỉu như con mèo bị cắt tai, trong lòng thầm nghĩ :
- Lão bà Lư Âu này quả thật danh bất hư truyền, là một tay quái gở trong thiên hạ.
Chờ cho Vạn Tiềm đi xa rồi, Lư Âu mới quay sang nói với Tâm Đăng :
- Tiểu hòa thượng! Ta bảo cho mi biết, lần sau có gặp trường hợp như vậy, cấm mi nhiều lời, bằng không thì ta nổi giận mi sẽ khốn đốn lắm đó.
Tâm Đăng trong lòng bất mãn nhưng ngoài miệng nói rằng :
- Vâng! Việc riêng của sư bá con không dám biết tới nữa.
Lư Âu vừa ý lắm, ngắm Tâm Đăng mà gật gù :
- Ta rời khỏi nơi này chỉ một tháng, mà ban nãy ta thấy thủ pháp của mi khác xa tháng trước, có phải thằng Cô Trúc đã trở về đây dạy thêm cho mi?
Tâm Đăng cả sợ nói thầm :
- Việc ta lén học Đại Thừa thần công không nên cho bà ta biết.
Nghĩ đoạn mỉm cười trả lời :
- Thầy tôi đi rồi không trở lại nữa, tôi ở nhà chỉ học ôn mà thôi.
Lư Âu nghe nói nửa tin nửa ngờ, ngắm Tâm Đăng từ đầu chí chân, lẩm bẩm một mình :
- Cô Trúc dạy cho nó những môn võ công thần diệu đến mức này sao?
Tâm Đăng chưa kịp trả lời, bà ta lại hỏi :
- Từ đây đến ngày mi hoàn tục còn cách bao lâu nữa?
Tâm Đăng vội vã trả lời :
- Ngày rằm Trung Thu năm tới, còn hơn một năm nữa.
Lư Âu gật gù ra chiều suy nghĩ, Tâm Đăng thấy Trì Phật Anh không theo chân bà ta nên hỏi :
- Thưa sư bá, Trì thí chủ sao chẳng thấy đến?
Lư Âu hậm hực :
- Hừ! Con quỷ nhỏ thật là chua ngoa đáo để, ba lần trốn khỏi tay ta, bây giờ ta giam vào một chỗ.
Tâm Đăng nghe nói giật mình :
- Trời! Sư bá giam cô ấy ở đâu?
Lư Âu cười bằng một tiếng cười quái dị :
- Sao? Mi sợ ư? Ta đang ép nó học một môn võ.
Tâm Đăng không nói gì nữa, chú đang trầm ngâm suy nghĩ không biết tại sao ban nãy nghe nói Trì Phật Anh bị giam, trong lòng chú bứt rứt khó chịu, chú bảo thầm :
- Mặc dù ta sắp hoàn tục nhưng ta đã cố quyết tâm sẽ trở lại vĩnh viễn nương bóng dưới Phật đài. Tại sao ta lại suy nghĩ vẩn vơ về một người con gái? Hừ... nguy hiểm thật!
Lư Âu thấy Tâm Đăng trầm ngâm suy nghĩ, bà không biết chú đang nghĩ gì lấy làm lạ hỏi :
- Hòa thượng, mi đang nghĩ gì đó?
Tâm Đăng vẫn còn đang đắm chìm trong ảo tưởng mông lung của mình, nên chưa trả lời, Lư Âu lắc đầu nói :
- Ta xem mi sắp động lòng phàm rồi đó.
Câu này làm cho Tâm Đăng giật mình ngước mắt lên nói :
- Thưa sư bá, con không bao giờ động lòng trần cả.
Lư Âu thấy trong ánh mắt của chú tiểu này có một thứ cang cường nghị lực, làm cho người ta không thể không tin chú.
Lư Âu mỉm cười nói :
- Vậy thì tốt lắm! Ta không bao giờ tán thành cho người xuất gia... kể luôn người hoàn tục thành hôn. Mi hãy xem ta, già đến từng tuổi này mà chẳng lấy chồng.
Tâm Đăng lấy làm lạ lắm vội hỏi :
- Thưa sư bá, tại sao sư bá không tán thành cho người khác thành hôn?
Lư Âu cau có hạ thấp giọng :
- Mi không biết sự thành vợ thành chồng sẽ đem đến cho người ta nhiều điều tổn thương và phiền não. Đấng cao xanh đã cho ta một tấm hình hài hoàn toàn tự do, và một cõi lòng ngây thơ vui sướng, tại sao ta lại đem đời ta trao vào tay một người khác để mất hết cả tự do? Nói một cách khác, nghĩa là sau khi thành thân rồi, ta chỉ đổi lấy một sự vui sướng ngắn ngủi mà phải chịu đau khổ lâu dài, đau khổ mãi mãi cho đến khi ta chết...
Luận điệu này thật là kỳ quặc, cho đến một vị tiểu hòa thượng nghe đến cũng không mấy xuôi tai.
Mặc dù Tâm Đăng hiểu đời rất ít nhưng chú mường tượng nghĩ rằng sự kết hợp của nhân loại là một điều thiêng liêng và kỳ diệu.
Khi xưa, cứ mỗi lần nghe người ta nói đến kẻ độc thân, Tâm Đăng thường nghĩ :
- Những người ấy, họ không đọc kinh, không niệm Phật như mình, cớ sao lại chẳng thành thân, thật là lạ!
Bây giờ nghe Lư Âu lý luận như vậy, chú lại mơ hồ nghĩ :
- Thì ra, sự kết hợp giữa thanh niên nam nữ không phải là một việc sung sướng trên đời mà lại là một sự đau khổ nữa!
Lư Âu thấy Tâm Đăng trầm ngâm nghĩ ngợi bỗng cười xòa nói :
- Mi là người xuất gia, không hiểu nổi lời nói của ta đâu. Này... nghe ta hỏi, trong khoảng thời gian một năm trước khi hoàn tục mi định làm gì?
Tâm Đăng điềm đạm trả lời :
- Tôi vẫn tụng kinh, niệm Phật, và nhập định tham thiền, ngoài ra không thiết đến việc gì nữa.
Lư Âu hỏi bằng một giọng khác thường :
- Chẳng lẽ mi không luyện võ?
Tâm Đăng trả lời :
- Ít lắm, tôi rất ít luyện võ.
Câu nói này làm cho Lư Âu kinh dị hỏi :
- Hay là mi chẳng thích võ? Thế thì tại sao Cô Trúc nó lại truyền võ cho mi?
Tâm Đăng cảm thấy là lạ, vì Lư Âu mỗi khi gặp chú cứ thích hỏi luôn mồm, dường như bà ta muốn dọ hỏi điều chi.
Nghĩ vậy nên Tâm Đăng trả lời ỡm ờ :
- Chẳng phải tôi không thích võ, chỉ vì...
Tâm Đăng nói đến đây bỗng dừng lại, vì dường như trong trí chú thoáng lướt qua một hình bóng, hình bóng này đeo theo ám ảnh chú suốt mấy năm trường.
Lư Âu thấy Tâm Đăng thình lình ngưng bặt, hỏi :
- Chỉ vì sao? Cớ sao mi chẳng nói hết lời?
Tâm Đăng do dự một chút rồi mạnh dạn phô bày tâm tư của mình bằng một giọng nói run run :
- Tôi... tôi rất lấy làm ân hận vì trót đã lâm vào nghiệp võ.
Câu nói này làm cho Lư Âu giật mình kinh sợ, bà ta “À” lên một tiếng kinh dị :
- Mi hối hận? Tại sao? Mi chưa từng bị tổn thương vì mi chưa lê gót vào chốn giang hồ, cớ sao mi lại ngã lòng sớm thế?
Tâm Đăng lắc đầu quầy quậy mà không trả lời. Lư Âu thấy vậy dịu dàng hỏi :
- Đêm mai mi trở lại đây, ta sẽ kể cho mi nghe một câu chuyện cổ tích, bây giờ... mi hãy trở về!
Tâm Đăng thẫn thờ, xá chào Lư Âu rồi trở về Bố Đạt La Cung, trong trí chú cứ suy nghĩ mãi về câu nói của Lư Âu.
Lời nói của bà rất đúng, ta chưa đặt chân vào chỗ giang hồ, lại chưa từng bị dày vò đau khổ, tại sao ta phải hối hận vì ta đã học võ?
Có lẽ vì sự học võ đã làm xáo trộn nếp sống tu hành của ta, làm cho ta không thể nào sống yên ổn dưới chân đức Phật?
Vừa đi, Tâm Đăng vừa nghĩ tiếp.
Mặt trăng mùa thu treo lơ lửng trên nền trời trong vắt, bốn bề vắng lặng như tờ, thỉnh thoảng mới có một vài cơn gió nhẹ thoáng qua.
Ngôi Kim Nga điện trong Bố Đạt La Cung im lìm lặng lẽ, như một pho tượng Phật dùng ánh sáng trí tuệ của mình mà rọi khắp nơi nơi...
Chính vào lúc Tâm Đăng vượt qua bức tường thành của Bố Đạt La Cung thì có một chiếc bóng gầy gò thoáng hiện ra rồi mất hẳn.
Qua đêm sau trời vẫn trong veo không gợn mây mờ, mảnh trăng tròn vành vạnh chiếu ánh sáng bàng bạc khắp không gian.
Sau khi tụng một đoạn kinh, Tâm Đăng nhớ tới lời hẹn của Lư Âu bèn cất kinh vào phòng, xô cửa đi ra.
Mấy tháng nay, vì Tâm Đăng thường lục đục đi ra đi vào khoảng nửa đêm nên những đồng đạo ngủ chung phòng không lấy đó làm lạ.
Tâm Đăng đi dưới bóng trăng thanh, lần lần lên đến đỉnh đồi, trông thấy Lư Âu đã ngồi trên một phiến đá vội vàng bước tới thi lễ, bà ta trỏ một phiến đá gần bên cạnh bảo :
- Tâm Đăng, mi hãy ngồi xuống đây.
Dứt lời giương con mắt xanh rờn nhìn chằm chằm vào gương mặt của Tâm Đăng, Tâm Đăng giật mình vội hỏi :
- Thưa sư bá, con còn nhớ sư bá bảo rằng hôm nay sẽ kể một câu chuyện cổ tích cho con nghe.
Lư Âu nghe nói nở một nụ cười, nhưng nụ cười ấy thật là nhẹ nhàng, Tâm Đăng phải cố nhìn kỹ mới thấy.
Lư Âu cất giọng trầm trầm lạnh nhạt :
- Ta sẽ kể một câu chuyện cho mi nghe, có lẽ câu chuyện này nhạt nhẽo lắm, mi phải chú tâm lắng nghe, không đặng ngắt ngang câu chuyện.
Tâm Đăng nghe nói khó chịu lắm nhưng vẫn gắng gượng gật đầu trả lời :
- Vâng.
Lư Âu nghe nói khe khẽ thở dài, cất giọng khàn khàn nói :
- Trước khi mi nghe câu chuyện này, mi phải tin ta một việc, bằng không ta sẽ không kể cho mi nghe?
- Việc gì?
- Việc đó là: Trên đời này kẻ có võ công cao nhất không phải là người Tây Tạng, mà cũng không phải là người ở Tân Cương, phải là người ở Trung Nguyên. Mi có tin như thế hay không?
Tâm Đăng nghe đến một vấn đề quá ư đột ngột, chưa biết rả lời ra sao, chú chỉ nghe thấy trong giọng nói của Lư Âu chứa đựng một sự tin tưởng vô biên hòa lẫn trong một ít căm hờn xúc động.
Tâm Đăng chưa kịp trả lời thì Lư Âu lại hỏi tiếp :
- Mi hãy trả lời cho ta rõ, mi có tin là như vậy hay không đã?
Tâm Đăng bị hỏi dồn dập mấy câu, trong lòng do dự trả lời :
- Thưa sư bá, tôi không được rõ vì từ nào tới giờ tôi chưa hề rời khỏi Bố Đạt La Cung.
Câu nói chưa dứt thì đã nghe Lư Âu tức lắm thét lên một tiếng kinh rợn, bà ta gằn giọng :
- Vậy thì mi hãy suy đi nghĩ lại cho kỹ đã.
Nhưng Tâm Đăng đã vội vã trả lời :
- Thưa sư bá, tôi tin, tôi tin người Tây Tạng không thể nào học võ bằng người Trung Nguyên được.
Lư Âu thoáng lộ một nét mừng, lại hỏi :
- Tại sao mi biết? Mi chưa từng rời khỏi Bố Đạt La Cung và cũng chưa từng đến Trung Nguyên kia mà?
Tâm Đăng nghe câu hỏi khó, cau mày trả lời :
- Mặc dầu tôi chưa đến Trung Nguyên nhưng những người mà tôi gặp có một môn võ nghệ vững chắc thảy đều là người Trung Nguyên...
Câu nói này càng làm cho Lư Âu mừng rỡ, bà ta gật gù :
- Hay lắm! Nhưng còn một việc này nữa, mi có tin rằng người Tây Tạng gian trá, xảo quyệt hơn người Trung Nguyên?
Câu hỏi này làm cho Tâm Đăng bất mãn vì theo sự hiểu biết của chú, người Tây Tạng mặc dù có vẻ ngoài hung tợn nhưng tính tình hiền hậu.
Gần gũi với bọn họ không sợ bị lừa dối, phỉnh phờ, trái lại những hạng người quân tử ở vùng Trung Nguyên thường hay đến Tây Tạng quấy rầy.
Vì nghĩ như vậy, Tâm Đăng im lìm không trả lời, Lư Âu cười kinh dị nói :
- Về vấn đề này mi có thể khoan trả lời, nghe xong câu chuyện của ta mi tức khắc sẽ hiểu. Chính như sư phụ của mi, và ta, và rất nhiều bậc kỳ nhân trong làng võ, thảy đều mắc mưu người Tây Tạng.
Mãi đến giờ chúng ta vẫn còn bị họ trêu chọc một cách buồn cười. Một điều làm cho ta tức giận nhất là chúng ta không có cách để chọi lại.
Tâm Đăng nghe câu nói lạ lùng này càng lấy làm kinh dị vì chú biết có những việc kỳ dị vừa xảy ra...
Chú còn nhớ Cô Trúc, Bệnh Hiệp truyền võ nghệ cho chú đều bắt chú làm cho họ một việc, mà việc đó bản thân họ không thể nào làm được.
Thật là lạ!
Lư Âu cất giọng trầm trầm :
- Chắc mi chưa từng nghe người ta nói rằng mười tám năm về trước trên chỗ giang hồ đồn đại rằng tại vùng Tây Tạng có xuất hiện một quyển kỳ thư tên là Tàm Tang khẩu quyết.
Tâm Đăng nghe nói giật mình thầm nghĩ :
- Quyển sách này chính mắt ta trông thấy, chính vì quyển sách đó mà Y Khắc đại sư mất mạng, Tạng Tháp rụng hai ngón tay và mất tích một cách kỳ bí.
Lư Âu tiếp tục kể :
- Quyển sách này là vật quý báu nhất đời đối với người luyện võ, vì ai đọc nó rồi thì có thể trở nên một bậc võ công cái thế.
Vì vậy mà biết bao nhiêu bậc kỳ nhân lũ lượt kéo nhau về Tây Tạng, gồm toàn những tay cao thủ trong các môn phái, như Vạn Giao, anh của Vạn Tiềm, người này võ công cao diệu, có thể nói là đệ nhất cao thủ bên tà phái.
Còn Cô Trúc, hắn đến đây để ngăn ngừa không cho người khác lấy quyển sách đó, hắn muốn giữ cái danh dự thiên hạ đệ nhất của hắn.
Còn ta, còn Bệnh Hiệp và vợ hắn, Nam Hải Thất Ky... và còn nữa, những người ấy không nề đường xa vạn dặm đến đây chỉ vì muốn gấm ghé quyển Tàm Tang khẩu quyết.
Tâm Đăng càng nghe càng lấy làm kinh dị trong dạ, nghĩ thầm :
- Thì ra quyển sách ấy đã làm chấn động làng võ từ mười tám năm về trước, biết đâu vào thuở ấy Y Khắc đã để chân đến vùng Tây Tạng này...
Lư Âu lại cất giọng trầm trầm :
- Rất tiếc khi ấy mi chưa ra đời, bằng không cũng nhúng tay vào vụ này, những kỳ nhân trong làng võ thảy đều tụ tập gần kinh đô La Sa này, phần ta trú ngụ trong Sắc La tự, còn Cô Trúc ngụ tại Kim Nga điện trong Bố Đạt La Cung.
Tâm Đăng nghe đến đây, “à” lên một tiếng kinh dị, chú không bao giờ ngờ rằng Cô Trúc lại đến Bố Đạt La Cung trước chú.
Lư Âu thấy thái độ của Tâm Đăng như thế, bất giác mỉm cười :
- Mi ngỡ rằng bọn chúng ta đọc kinh kém hơn mi ư? Trong khoảng thời gian đó, tất cả những quyển kinh tàng trữ trong các chùa chiền Tây Tạng, thảy đều bị chúng ta đọc không sót một trang.
Tâm Đăng nghe nói càng thêm phần kinh dị, chú bất giác lấy làm cảm phục nghị lực của Y Khắc đại sư, suốt mười tám năm trời nghiền ngẫm đọc từng trang kinh để đi tìm Tàm Tang khẩu quyết.
Lư Âu lại kể tiếp :
- Chỉ có một chỗ chưa có người đến tìm, đó là Bố Đạt La Cung.
Tâm Đăng càng lấy làm lạ vội hỏi :
- Tại sao chẳng đến Bố Đạt La Cung lục soát?
Lư Âu lấy làm khó chịu trả lời :
- Lẽ tự nhiên ta phải cho mi biết lý do, lý do đó là Cô Trúc ngự tại Kim Nga điện trong Bố Đạt La Cung.
Tâm Đăng vẫn chưa hiểu, dợm hỏi thì Lư Âu khoát tay, nối lời :
- Mi sẽ hỏi tại sao... tại vì... bản lĩnh của thằng Cô Trúc cao cường nên chẳng ai dám bén mảng vào đó.
Tâm Đăng nghe nói, trong lòng sung sướng lắm, vì chú đã nghe một bậc kỳ nhân trong làng võ là Lư Âu nhìn nhận bản lĩnh của sư phụ mình là đệ nhất thiên hạ.
Lư Âu cố gắng dằn cơn xúc động trong lòng, lạnh lùng nói :
- Ta thì ta chẳng sợ thằng Cô Trúc nhưng ta không bằng lòng dùng... đồng thời ta ngụ tại Sắc La tự cũng không có kẻ nào dám bén mảng đến đó, kể luôn thằng Cô Trúc, dường như giữa chúng ta có một sự gia ước ngầm với nhau vậy.
Lư Âu vừa nói đến đây, Tâm Đăng bỗng nghe có tiếng xé gió vì vèo, vội vàng lách đầu né tránh, đồng thời Lư Âu cũng khoát bàn tay ra bắt gắn lấy một vật.
Thân hình của Lư Âu như một con chim đại bàng, trong chớp mắt đã liệng một vòng tròn hơn mười trượng, tốc độ thật nhanh đến mức đáng sợ, bà ta rảo khắp một vòng mà chẳng thấy điều chi khác lạ.
Tâm Đăng đuổi theo bà ta, Lư Âu trao vật đã bắt được cho Tâm Đăng xem, thì ra đó là một tấm giấy vo tròn.
Lư Âu vuốt phẳng tờ giấy ra, bà chớp nhanh cặp mắt vì đã biết tác giả là ai.
Tâm Đăng thấy mặt bà ta biến sắc, vội hỏi :
- Ai đó?
Lư Âu không đếm xỉa đến Tâm Đăng, quay sang bên tả cười rằng :
- Ha ha... Ta tuyệt đối không chiếm mất vị trí của mi, mi hãy yên lòng, cút đi thôi! Ta không muốn nhìn thấy mặt mi nữa!
Câu nói của Lư Âu vừa dứt, thì nơi cõi xa xăm vọng lại một chuỗi cười, tiếng cười nhỏ dần... nhỏ dần... chứng tỏ người đó càng đi càng xa.
Tâm Đăng hỏi :
- Thưa sư bá, người ấy là ai?
Lư Âu không trả lời, bà ta xé tan mảnh giấy trong tay ném vào giữa không trung, để cho cơn gió thu thổi tới mang nó đi bay lượn khắp bốn phương trời Bà ta thẫn thờ như người mất vía, dường như triền miên suy nghĩ về dĩ vãng.
Tâm Đăng tò mò, lại hỏi :
- Việc gì thế, sư bá?
Lư Âu nạt :
- Đừng hỏi, mi là người xuất gia mà cứ tò mò, hỏi đón, hỏi dò.
Tâm Đăng bị mắng, hổ thẹn đỏ bừng sắc mặt, nghĩ thầm :
- Thật là lạ, hễ là người luyện võ thì tính tình thường quái đản.
Tâm Đăng lại nghĩ về mẩu chuyện dang dở của Lư Âu, chú đoán chừng câu chuyện này sẽ cho chú biết tại sao Cô Trúc lại truyền võ cho mình. Và Bệnh Hiệp tại sao khẩn khoản mình học võ? Sau khi hoàn tục mình sẽ làm gì? Và biết đâu chẳng do đó mà truy ra cha mẹ mình là ai? Và người nào đưa mình vào chùa nương bóng Phật?
Nghĩ đến đây, chú bỗng giật mình hối thúc :
- Thưa sư bá, còn câu chuyện ấy thế nào?
Không ngờ lần này Lư Âu lại khoát tay lắc đầu :
- Câu chuyện ấy, ta không kể nữa!
Tâm Đăng cực kỳ thất vọng, suýt tí nữa chú gào lên :
- Tại sao không kể?
Lư Âu lạnh lùng nói :
- Ngày sau tự khắc có người kể lại cho mi biết.
Tâm Đăng gần như van xin :
- Sư bá, xin hãy kể cho tôi nghe, tôi cần nghe lắm, sư bá hãy kể đi... A di đà Phật!
Lư Âu thấy chú nóng nảy như vậy, vụt cười xòa :
- Mi đừng hỏi, có hỏi ta cũng chẳng nói, ngày sau tự nhiên có người khác kể cho mi rõ. Thôi bây giờ mi hãy về đi!
Tâm Đăng lại đắm chìm vào thất vọng, biết Lư Âu khó tính, chú không dám nài nỉ nữa, chỉ hỏi :
- Thưa sư bá, đêm mai tôi...
Câu nói chưa dứt thì Lư Âu xua tay cắt ngang :
- Đêm mai người không cần đến! Ta cũng chẳng trở lại chỗ này...
Tâm Đăng ra chiều tiếc rẻ, mặc dù bà già này khó tính nhưng chàng nghe ra mình thích bà già ta lắm.
Khi gần bà ta, Tâm Đăng thấy khó chịu nhưng khi xa bà ta Tâm Đăng lại thấy tiếc rẻ.
Lư Âu đọc thấy tư tưởng đó qua nét mặt đăm chiêu của chú nên vò đầu chú mà nói :
- Đêm khuya lắm rồi, mi hãy về đi, sau này có dịp ta lại tìm mi.
Kể từ lúc gặp Lư Âu, Tâm Đăng đã có ý dò hỏi chỗ ở của Phật Anh, nhưng không biết tại sao chú nghe thấy mình khó mở lời lắm, chính tư tưởng này đang dày vò tâm tư của chú, không biết tại sao Tâm Đăng đối với người con gái bịt mặt này dường như có vẻ quan tâm lắm.
Tâm Đăng giã từ Lư Âu, lặng lẽ xuống đồi.
Lư Âu nhìn theo bóng Tâm Đăng nhỏ dần... nhỏ dần trên mái đồi thoai thoải, bà lắc đầu thở dài :
- Xem tình thế này thì Tâm Đăng chưa đủ năng lực để hoàn thành công việc đó.
Ta phải giúp đỡ nó cho đến kỳ cùng......
Tâm Đăng treo mình trên giường, bỗng nghe thấy trên giường có một vật cồm cộm. Mò lên xem thấy đó là một xâu chuỗi ngọc, những viên ngọc này lóng la lóng lánh, trơn tru một cách khác thường.
Dưới ánh nguyệt mơ hồ rọi qua song cửa, xâu chuỗi ngọc này tỏa ra hào quang sáng rực, trông thật là đẹp mắt.
Tâm Đăng trong lòng mừng rỡ, không biết là xâu chuỗi ngọc này từ đâu đến, nhưng chú biết trong Bố Đạt La Cung không ai có, kể luôn cả vùng Tây Tạng, chí như Đạt Lai Ban Thiền ngự dụng cũng không thể nào có một xâu chuỗi quí giá như vậy.
Chú nghĩ :
- ... Xâu chuỗi này có lẽ từ miền Trung Nguyên hoặc Tây Vực mang tới... nhưng tại sao nó lại nằm trên giường ta? Ai mang nó vào đây?
Suy nghĩ mãi vẫn không tìm ra lời đáp, chú cất kỹ xâu chuỗi rồi ngả lưng trên giường ngáy pho pho.
Suốt ba hôm liền Tâm Đăng không rời khỏi Bố Đạt La Cung, ban ngày thì đọc kinh, ban đêm thì luyện võ.
Đến đêm thứ tư khi chú vừa luyện xong nội công thì bỗng có vài tiếng ho nho nhỏ từ bên ngoài theo gió nhẹ đưa vào.
Tâm Đăng mừng rỡ, chú sực nhớ đây là ngày Bệnh Hiệp trở về. Liền nhảy tọt xuống giường xô cửa chạy ra ngoài.
Dười bóng trăng mờ ảm đạm, có một lão già đứng tựa vào tường ho lên sù sụ, đó chính là Bệnh Hiệp.
Trông ông ta càng già thêm, càng tiều tụy thêm, gần như người sắp sửa lìa đời.
Cặp mắt của ông lõm sau vào, hai xương gò má lồi hẳn ra, da mặt răn reo trông thật là dễ sợ nhưng cớ sao sắc mặt ông lại đỏ tươi?
Nhất là những lúc ông ho lên, thì gương mặt lại càng thêm đỏ.
Tâm Đăng ôm lấy Bệnh Hiệp, khóc mà nói rằng :
- Bệnh sư phụ! Sao thế?
Dứt lời, Tâm Đăng nức nở, Bệnh Hiệp thò bàn tay khẳng khiu của mình ra sờ lấy lưng của Tâm Đăng mà nói :
- Con đừng sợ, ta chẳng chết đâu!
Nhưng Tâm Đăng đã dìu ông vào phòng, ông ngồi trên giường thong thả lấy lại sức khỏe, trên môi lại nở một nụ cười tươi. Tâm Đăng thấy vậy mừng lắm.
Bệnh Hiệp hổn hển nói :
- Tâm Đăng... con, ta... ngỡ rằng... chẳng được thấy lại con nữa.
Tâm Đăng rơi nước mắt hỏi :
- Sao thế?
Bệnh Hiệp trả lời :
- Một tháng nay ta đã đi qua rất nhiều chỗ xa lạ... ta đã đi qua Trác Ủng hồ.
Tâm Đăng biết Trác Ủng hồ là một cái hồ to nằm về phía Đông nam xứ Tây Tạng.
Đó là một cái hồ có nhiều cảnh trí đẹp và sản xuất rất nhiều cá.
Những người chưa từng đặt chân đến vùng Tây Tạng chắc thường tưởng tượng đấy là một vùng hoang vu, nghèo nàn, hẻo lánh.
Nhưng thật ra, cái đẹp của Tây Tạng thật là bất khả hình dung, nó cũng có cảnh hoa đào trước gió, cành liễu xanh tươi, trăng thanh gió mát như vùng Giang Nam vậy.
Nhưng còn một điểm khác biệt nữa, là ở đó thật nhiều ao hồ, nằm rải rác như những chòm sao trên bầu trời bao la bát ngát.
Trác Ủng hồ là một cái hồ to vào hàng thứ ba của Tây Tạng, hình dáng của nó tương tự như một con thần mã tung hoành bốn vó giữa cao nguyên Tây Tạng, vì vậy nên còn có một cái tên gọi nữa là Tuấn Mã Hồ.
Tâm Đăng nghe Bệnh Hiệp kể lại như thế, trong lòng vui vẻ lắm và Bệnh Hiệp cũng nở một nụ cười trên vành môi héo hắt.


Quay lại  l Xem tiếp 


BigKool BigKool
Vườn Hoàng Cung - Nông Trại Online Vườn Hoàng Cung
Khu Vườn Thần Kỳ Khu Vườn Thần Kỳ
Vườn Thủy Cung Vườn Thủy Cung
goPet Online goPet Online

C-STAT