Tâm phúc nghi ngờ Song ma lại mời rượu
Đồng môn tề tựu liên thủ diệt hung tăng
Tuy Liễu Ân uống thuốc giải nhưng chưa kịp vận khí điều nguyên, sau một hồi ác chiến, chất độc dần dần phát tác, biết không thể nào đánh lâu được, thế là y lộn người múa cây thiền trượng xông ra. Cung tiển thủ phóng tên, tên bay ra như mưa, chỉ trong chốc lát Liễu Ân đã chạy ra đến cổng, mắng lớn: “Niên Canh Nghiêu, con bà nhà ngươi, nếu lọt vào tay Phật gia, ta sẽ đánh gãy chân chó của ngươi!” rồi tung cước đá vỡ tung cánh cổng của nhà họ Niên, rồi vung hai trượng đánh nát hai con sư tử đá mới nghênh ngang bỏ đi.
Liễu Ân bỏ đi xong, Niên Canh Nghiêu bước xuống sân, chỉ thấy dưới đất toàn là tên gãy, trong lòng không khỏi kinh hãi, Song ma nói: “Để y chạy thoát, biết làm thế nào đây?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ta sẽ lập tức hoạch tội y, Hoàng thượng chắc chắn sẽ không tin lời y. ta lại bảo Xa Tịch Tà và Đổng Cự Xuyên bắt y, y làm sao thoát khỏi lòng bàn tay của ta”.
Liễu Ân chạy ra khỏi nhà họ Niên, càng nghĩ càng tức. Y chạy vào quả núi gần đấy, ngồi đả tọa một hồi đẩy chất độc ra, thầm nhủ: “Mình một tay khó vỗ nên kêu, có tìm tên tiểu tử trả thù cũng đánh không lại bọn chúng. Chi bằng về kinh bẩm cáo Hoàng thượng để người cách chức y, sau đó lại sẽ tìm y tính sổ”. Liễu Ân cứ tưởng rằng Ung Chính có thể lấy lại công bằng cho mình thế là một mình hầm hầm đi về phía Bắc.
Còn Phùng Lâm sau khi chạy thoát khỏi nhà họ Niên cũng lên phía Bắc, hôm sau đến Tân An, người trên đường qua lại đều để ý đến nàng, thầm nhủ: “Mình là con gái một thân một mình, khó tránh bị người ta để ý”. Nàng không biết rằng người ta để ý là vì nàng quá xinh đẹp. Phùng Lâm lại nghĩ: “Chắc bọn Liễu Ân sẽ không tha cho mình. Mình phải cải trang”. Lúc này đã vào trấn, chợt nghe phía sau có tiếng nhạc ngựa vang lên, Phùng Lâm quay đầu nhìn lại thì thấy một thư sinh thiếu niên mặt trắng không râu, ăn mặc trông rất sang trọng. Nàng thầm nhủ: “Bộ quần áo của người này trông thật đẹp, đêm nay mình phải cải trang thành y”. Nàng theo dõi thấy y vào một căn khách sạn cũng đi theo. Lão chưởng quầy đang bận rộn tiếp đãi, hỏi: “Xin hỏi đại gia cần một hay hai phòng?” thư sinh ấy nói: “Cái gì?” quay đầu nhìn lại thì thấy có một thiếu nữ tuyệt sắc đang đi phía sau, biết lão chưởng quầy hiểu lầm, cười rằng: “Ta đi chỉ có một mình, làm sao ở được hai phòng?” lão chưởng quầy cũng cười: “Tôi tưởng tiểu cô nương này đi cùng ngài”. Phùng Lâm hừ một tiếng, lão chưởng quầy nói: “Cô nương đừng trách, lâu nay rất ít phụ nữ đi một mình”. Thư sinh ấy thuê một phòng, Phùng Lâm cũng thuê một phòng, lão chưởng quầy nhíu mày, không dám cho nàng ở. Phùng Lâm nói: “Cái gì? Ngươi tưởng ta không có tiền?” rồi lấy ra hai thỏi vàng, lão chưởng quầy vội vàng cười: “Nào dám, nào dám, tiểu điếm hầu hạ sơ sài, chỉ sợ cô nương chê mà thôi”. Thế là vội vàng dắt nàng lên phòng.
Đến nửa đêm Phùng Lâm lẳng lặng ngồi dậy vọt lên mái ngói, nhảy đến phòng bên cạnh, kề tai lắng nghe, bên trong chẳng hề có tiếng tăm gì, nàng thầm cười: “Thư sinh này chắc không phải là người lăn lộn trên giang hồ, không cần phải cẩn thận”. Thế là bóp nát khung cửa sổ chui tọt vào, nàng mò mẫm đến bên giường, lấy bộ quần áo. Người trên giường chợt cười lạnh nhảy ra, đưa tay móc một cái, chụp trúng cổ tay của Phùng Lâm! Phùng Lâm trầm vai thu chỏ, rút tay ra, thư sinh ấy kêu ồ một tiếng, xỉa tay về phía trước đâm vào huyệt Thiên Trụ phía sau ót của nàng.
Đêm hôm tối tăm mà thư sinh vẫn nhận huyệt chẳng sai tí nào, chắc chắn y là một cao thủ, nếu là nửa năm trước, Phùng Lâm đã trúng đòn. Thư sinh ra tay nhanh như điện chớp, khi điểm tới, y chợt thấy mềm nhũn, ngón tay lệch qua một bên, Phùng Lâm trở tay vỗ lại một chưởng, Phùng Lâm bị chưởng lực của y đẩy qua một bên suýt nữa đã té sầm xuống, người ấy rất bất ngờ, cũng bị chưởng lực của Phùng Lâm đánh thối lui, y vội vàng lướt người đến cửa, đánh đá lửa lên, cười nói: “Ta đã thừa biết ngươi sẽ tới. Ngồi xuống, ngồi xuống, chúng ta từ từ nói chuyện, đừng kinh động đến người trong khách sạn”. Phùng Lâm thấy hành tung đã bại lộ nàng ngượng ngùng chỉ đành ngồi xuống.
Thư sinh ấy châm cây đèn dầu, cười nói: “Với võ công và diện mạo của ngươi, cớ gì phải làm kẻ trộm?” Phùng Lâm nói: “Làm sao ngươi biết ta đến ăn trộm?” thư sinh nói: “Từ sau khi gặp nhau, ngươi cứ đi sát theo ta, nếu không nhận ra điều đó, ta làm sao có thể đi lại trên giang hồ? Nhưng ngươi đã nhìn lầm rồi, ta tuy ăn mặc sang trọng nhưng chẳng có thứ gì đáng cho ngươi đánh cắp. Nếu ngươi thiếu tiền dùng, ta tặng ngươi một thỏi vàng, nhiều nữa thì ta không có”. Phùng Lâm cười nói: “Ai cần vàng của ngươi?” rồi nàng tháo chiếc nút trên áo ngoài, để lộ một sâu chân trâu, đó là chân phẩm trong hoàng phủ, mỗi viên trân châu đều bằng nhau, vừa tròn vừa lớn. Chỉ một viên chân trâu cũng đáng hai trăm lượng vàng. Thư sinh ấy thất kinh, dù y hiểu biết rộng rãi nhưng cũng không đoán được lai lịch của Phùng Lâm.
Thư sinh chợt nghĩ ngợi, rồi đột nhiên đưa tay sờ chui kiếm, gằn giọng nói: “Ngươi không phải là nữ anh hùng hắc đạo, chắc là nữ cao thủ của nha môn? Thất kính, thất kính!” Phùng Lâm bật cười nói: “Cái gì mà hắc đạo với bạch đạo, ta chẳng biết gì cả!” thư sinh nói: “Vây ngươi đến đây làm gì?” Phùng Lâm nói: “Bộ đồ của ngươi đáng bao nhiêu tiền? Bán cho ta!” Thư sinh ngạc nhiên, không đoán được dụng ý của nàng, không biết nàng đùa hay thật. Phùng Lâm nói: “Ta dùng sâu chân trâu này mua bộ đồ của ngươi, chắc ngươi không thiệt thòi chứ?” thư sinh nói: “Ngươi đang nói càn gì thế?” Phùng Lâm nói: “Ai rảnh đùa với ngươi!” thư sinh thấy nàng nói có vẻ nghiêm chỉnh, liền bảo: “Tặng ngươi một bộ đồ cũng đâu có đáng gì. Xin hỏi tôn sư là ai? Có thể cho biết danh tánh hay không?” Phùng Lâm lại bật cười, nói: “Chúng ta bèo nước gặp nhau, cần gì phải hỏi cho kỹ càng. Hơn nữa ta có nhiều sư phụ, làm sao có thể nói từng người cho ngươi biết”. Thư sinh nói: “Ngươi cần quần áo đàn ông để làm gì?” Phùng Lâm nói: “Ngươi không cho thì ta đi vậy”. Thư sinh này không đoán được lai lịch của Phùng Lâm thì chẳng cam lòng, y mỉm cười đứng dậy nói: “Nếu ngươi có bản lĩnh thì hãy cứ đi ra”. Phùng Lâm nghĩ: “Đánh nhau ta không sợ, nhưng sợ kinh động đến người khác thì không hay lắm” liền bải: “Nói cho ngươi nghe cũng chẳng sao, nhưng ngươi đừng rêu rao ra đấy nhé”. Thư sinh nói: “Đương nhiên”. Phùng Lâm nói: “Cha ta là một cường đạo, người buộc ta lấy một người ta không thích, nên ta bỏ chạy, nhưng người có rất nhiều tai mắt, ta sợ người ta bắt gặp nên phải cải dạng”.
Phùng Lâm đương nhiên nói dối, nhưng nàng nói như thế lại hợp với chuyện của Ngư Nương. Thư sinh ấy ngẩn ra nhìn nàng, chợt hỏi: “Năm nay ngươi được bao nhiêu tuổi?” Phùng Lâm nói: “Ngươi thật vô phép, hỏi tuổi tác người ta làm gì?” Thư sinh ấy cười ha hả: “Được, không hỏi thì không hỏi vậy. Ngươi cũng không cần cho ta biết lai lịch. Chúng ta hiểu lòng nhau là được”.
Phùng Lâm nói: “Vậy ngươi có chịu bán cho ta bộ quần áo không?” Thư sinh nói: “Ta tặng ngươi”. Phùng Lâm cả mừng đáp tạ. Thư sinh lại bảo: “Võ nghệ ta tuy kém cỏi, nhưng trên giang hồ vẫn có một vài bằng hữu. Ngày mai hãy đi cùng ta. Đảm bảo chẳng ai dám động thủ với ngươi”. Phùng Lâm thầm nhủ: “Thư sinh này thật lớn lối, mình phải xem thử y là nhân vật thế nào”.
Thư sinh này chẳng phải ai khác, đó chính là Lý Nguyên, đệ tử thứ sáu của Độc tý thần ni, cũng tức là sư đệ của Bạch Thái Quan. Y là một cộng tử thế gia ở Hồ Nam, mười năm qua không bước chân ra khỏi Lưỡng Hồ. Gần đây Cam Phụng Trì gởi thư bảo y trong ngày Thanh Minh phải lên Mang Sơn tế mộ phần sư phụ bởi vậy Lý Nguyên mới một mình lên miền Bắc.
Tuy nhiều năm qua Lý Nguyên không bước chân ra khỏi Lưỡng Hồ, nhưng vẫn còn trao đổi tin tức với các đồng môn. Y đã nghe loáng thoáng chuyện Bạch Thái Quan, bởi vậy những lời của Phùng Lâm lúc nãy khiến y nghi ngờ nàng là Ngư Nương. Nhưng nhìn lại nàng chỉ là một cô bé mười ấy tuổi đầu, mà chuyện của Bạch Thái Quan đã đồn trên giang hồ năm sáu năm trước. Theo lẽ Ngư Nương không đến nỗi trẻ tuổi như thế. Nhưng chợt nghĩ: “Phụ nữ biết thuật trụ nhang, nghe nói bát muội Lữ Tứ Nương trông chỉ giống như một thiếu nữ hai mươi tuổi. Nếu Ngư Nương được dị nhân truyền thụ, giữ được diện mạo thanh xuân cũng không lấy gì là lạ. Dù nàng không phải là Ngư Nương, mình cứ đi cùng nàng một đoạn, sau này lên Mang Sơn, hỏi ra sẽ rõ”.
Hôm sau Phùng Lâm thay trang phục nam tử, mua một thớt ngựa khỏe, quả nhiên đi cùng Lý Nguyên. Trên suốt quãng đường hai người cứ dùng lời dọ nhau, Phùng Lâm rất khéo léo, Lý Nguyên chẳng thể nào thử được. Đi được một đoạn, hai người xuống ngựa nghỉ ngơi, ngồi trò chuyện dưới bóng râm. Lý Nguyên nói: “Trên giang hồ nữ tử giỏi võ công có thể đếm trên đầu ngón tay, ngoại trừ Lữ Tứ Nương thì là Ngư Nương”. Phùng Lâm mỉm cười, trong lòng rất thắc mắc. Lý Nguyên lại nói: “Võ công của ngươi cũng thuộc hạng khá, ta thấy ngươi dù không bằng Lữ Tứ Nương nhưng cũng ngang tài ngang sức với Ngư Nương”. Phùng Lâm lại mỉm cười nói: “Ngươi đã gặp hai người bọn họ?” Lý Nguyên ngẩn người, nói: “Chưa từng gặp”. Phùng Lâm cười: “Nếu ngươi không gặp hai người bọn họ, sao biết võ công của họ đến mức nào mà so sánh bừa thế?” Lý Nguyên vốn chỉ muốn dọ hỏi nàng, không ngờ bị nàng hỏi đến cứng họng, gượng cười rằng: “Tuy chưa từng gặp nhưng cũng nghe đồn đãi, bởi vậy mới biết đại khái. Ngươi đã từng gặp bọn họ chưa?” Phùng Lâm cười nói: “Ta đã gặp. Võ công của Lữ Tứ Nương đúng là hiếm có. Ngư Nương tuy biết võ nghệ nhưng cũng chẳng ra sao”. Phùng Lâm đã nói sự thực. Năm ngoái nàng đã động thủ với Lữ Tứ Nương, Ngư Nương và Liễu Ân ở Tam Đàm Ấn Nguyệt ở Hàng Châu. Lý Nguyên nghe nàng khen Lữ Tứ Nương mà chê Ngư Nương, càng ngờ rằng nàng chính là Ngư Nương, đang định dò hỏi tiếp. Phùng Lâm chợt kêu: “Đi mau, đi mau!” Lý Nguyên ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy một nhà sư tay cầm thiền trượng xăm xăm bước tới, đó chính là Liễu Ân. Lý Nguyên thất kinh, Liễu Ân kêu lớn: “Lục đệ hãy thong thả, đã gần mười năm chúng ta không gặp nhau!” Phùng Lâm thấy Lý Nguyên không đi, nghĩ thầm: “Nếu ta mà đi, lập tức sẽ bị Liễu Ân nhận ra. Y võ công cực kỳ cao cường, cướp ngựa đuổi theo, mình chắc chắn không thoát nổi”. Bởi vậy mới giả vờ trấn tĩnh, hờ hững dựa vào gốc cây, trong lòng nghĩ cách thoát thân.
Mười năm qua Lý Nguyên không gặp Liễu Ân nhưng cũng biết những việc làm của Liễu Ân gần đây, trong lòng thầm kêu khổ. Liễu Ân nói: “Sư đệ có khỏe không? Bằng hữu này là ai thế?” cũng như những đồng môn khác, võ công của Lý Nguyên quá nửa là do Liễu Ân truyền thụ, tuy biết y đã phản thầy nhưng cũng phải chào hỏi đàng hoàng tử tế, đáp rằng: “Vẫn bình an. Bằng hữu này chỉ là người khách qua đường”. Liễu Ân kêu ồ một tiếng, nheo mắt nhìn Phùng Lâm. Lý Nguyên nói: “Nghe nói gần đây sư huynh được nhiều điều đắc ý”. Liễu Ân nói: “Ồ, sư đệ không vui cho ta sao?” Lý Nguyên không dám đáp, Liễu Ân vẫn nhìn Phùng Lâm, Lý Nguyên thầm trách Phùng Lâm không hiểu lễ tiết giang hồ, bước tới nói với nàng: “Đây là Liễu Ân sư huynh của ta, ngươi hãy đến chào hỏi”. Phùng Lâm vung tay, chợt phóng ra ba mũi trủy thủ, một mũi bắn về phía con ngựa của Lý Nguyên, hai mũi bắn về phía Lý Nguyên, Lý Nguyên không kịp đề phòng nên chỉ tránh được một mũi, bị mũi kia bắn trúng vai trái bổ nhào xuống đất. Phùng Lâm phóng lên thớt ngựa, lấy trủy thủ đâm vào mông ngựa, thớt ngựa hí dài rồi tung vó chạy về phía trước!
Té ra Phùng Lâm nghe Liễu Ân và Lý Nguyên xưng huynh gọi đệ, trong lòng thầm tính: “Nếu không chạy cho mau, lát nữa huynh đệ bọn chúng hiểu ra, mình sẽ hỏng bét”. Nàng tuy tuổi còn nhỏ nhưng lắm mưu kế, biết Liễu Ân võ công cực cao, chắc chắn không thể phóng phi đao trúng y được bởi vậy mới phóng sang Lý Nguyên, thầm nhủ: “Sư đệ của y bị thương, y chắc chắn chẳng rảnh đuổi theo mình”. Phùng Lâm nghĩ không sai, nhưng đã vô cớ đả thương Lý Nguyên.
Liễu Ân thấy Phùng Lâm phóng lên ngựa bỏ chạy, đuổi theo không kịp nên quả nhiên cứu Lý Nguyên trước. Thực ra Lý Nguyên cũng chẳng thương yêu gì người sư đệ này mà muốn trị xong cho Lý Nguyên, buộc Lý Nguyên theo mình vào kinh. Liễu Ân xé lớp áo ngoài của Lý Nguyên, khoét thịt nặn chất độc ra, y vừa chạm vào người Lý Nguyên, lòng chợt nảy ra một ý, thế là mò mẫm trong người Lý Nguyên, lấy ra được một viên sáp, Liễu Ân bóp nát viên sáp, bên trong có một mẩu giấy, té ra đó là thư của Tăng Tịnh gởi cho Nhạc Chung Kỳ. Tăng Tịnh là bằng hữu của phụ thân Nhạc Chung Kỳ. Bức thư này khuyên Nhạc Chung Kỳ sau khi lấy được binh quyền thì nên dấy binh kháng Thanh. Liễu Ân tuy không biết nhiều chữ, nhưng vẫn hiểu được đại khái, thầm nhủ: “Nhạc Chung Kỳ là phó thủ của Niên Canh Nghiêu, có bức mật hàm này làm bằng chứng, mình có thể lật nhào cả Niên Canh Nghiêu”. Y nghĩ có thể trả thù, bất giác cả mừng. Lúc này Liễu Ân đã đổi ý, chỉ muốn áp giải Lý Nguyên về kinh lãnh thưởng, còn việc y có theo mình hay không cũng chẳng quan trọng
Hồi sau, Lý Nguyên dần tỉnh lại, thấy trong tay Liễu Ân cầm một mảnh giấy vẻ mặt nhơn nhơn. Lý Nguyên toát mồ hôi lạnh, biết sự việc đã bại lộ, thế là liều mạng vùng lên chạy, Liễu Ân cười lạnh đẩy một cái khiến Lý Nguyên té sấp xuống đất.
Liễu Ân quát: “Ngươi làm gì thế?” Lý Nguyên kêu lên: “Sư huynh, huynh có phải là người Hán không?” Liễu Ân nói: “Người Hán thì thế nào?” Lý Nguyên nói: “Nếu là người Hán thì hãy trả bức thư cho đệ”. Liễu Ân hừ một tiếng, nói: “Ngươi hãy ngoan ngoãn theo ta đi Bắc Kinh”. Lý Nguyên lại nói: “Huynh đã quên lời dặn của sư phụ rồi sao?” Liễu Ân cười rộ nói: “Sư phụ đã chết, nay ta chính là sư phụ của các ngươi”. Lý Nguyên nổi cáu nói: “Hay thật, Liễu Ân! Ngươi hãy giết ta đi!” “Ngươi muốn chết đâu có dễ, có điều ngươi cũng biết thủ đoạn của ta, ngươi muốn ta dùng thủ pháp Phân cân thác cốt lột da bẻ xương ngươi hay muốn ta dùng thủ pháp điểm huyệt khiến ngươi khó chịu đến ba ngày rồi chết?” hai thủ pháp này đều là hình phạt cực kỳ lợi hại, thủ pháp Phân cân thác cốt còn đau đớn hơn cả bị tùng xẻo, nhưng nếu bị y dùng thủ pháp độc ác điểm huyệt, cầu sống không được cầu chết không xong, còn đau khổ hơn cả bị tùng xẻo. Lý Nguyên xuất thân từ nhà giàu, bất giác lạnh mình. Liễu Ân thấy y tái mặt, cười rằng: “Ngươi đã nghĩ kỹ chưa?” Lý Nguyên từng đọc thi thư, nhớ đến câu “Người sống từ xưa ai chẳng chết, để lại lòng son chiếu sử xanh”, thế là đảm khí tăng lên, mắng rằng: “Không cần lắm lời, nếu ta sợ chết thì không phải là Giang Nam thất hiệp nữa!”
Liễu Ân cười gằn, kéo Liễu Ân đến sát mình, giơ bàn tay to lớn bóp vào cổ của Lý Nguyên. Lý Nguyên nhắm mắt đợi chết, chỉ nghe Liễu Ân cười nói: “Đáng tiếc từ rày về sau, Giang Nam thất hiệp chỉ còn lại sáu người. Ngươi cứ mãi nhắc đến di huấn của sư phụ, vậy ta cho ngươi đi gặp sư phụ! Từ đây cách Mang Sơn rất gần, ngươi có muốn ta chôn ngươi cùng sư phụ không?” Lý Nguyên nảy ra một ý, nghĩ bụng ngày mai có thể đến Mang Sơn, tuy không sợ chết nhưng nếu có một tia hy vọng cũng không thể bỏ qua. Liễu Ân đã chạm vào xương cổ của y, Lý Nguyên kêu lớn: “Sư huynh, đệ nghe theo huynh”. Liễu Ân cười ha hả, buông tay thầm nhủ: “Anh chàng công tử này quả nhiên sợ đến vãi đái!” Lý Nguyên nói: “Đệ sẽ theo huynh về Bắc Kinh, nhưng mong huynh đừng liên lụy đến Tăng lão tiên sinh”. Liễu Ân hừ một tiếng nói: “Sau này hẵng tính. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn nghe lời, ta có thể nương tay”. Liễu Ân lại hỏi Phùng Lâm làm sao đi cùng với y, Lý Nguyên trả lời thật tình. Liễu Ân biết mười năm nay y không bước chân ra khỏi giang hồ. Đoán rằng y chẳng phải nói dối. Bởi vậy không hỏi nhiều, tiếp tục lên đường.
Trưa ngày hôm sau đi ngang qua chân núi Mang Sơn, Liễu Ân nghe tiếng nước Hoàng Hà chảy ầm ầm, nhìn lại Mang Sơn cao ngất, nhớ đến chuyện xưa, bất giác đưa mắt nhìn xung quanh, Lý Nguyên chợt nói: “Sư huynh, hôm nay là ngày mấy?” Liễu Ân nói: “Ai mà nhớ”. Lý Nguyên nói: “Hôm nay chính là tiết Thanh Minh!” Liễu Ân tính lại quả nhiên không sai, nói: “Tiết Thanh Minh thì thế nào?” Lý Nguyên nói: “Sau khi sư phụ chết, tiểu đệ đã nhiều lần muốn lên tảo mộ nhưng vì công việc bận rộn, chưa thể nào đi được. Trong lòng hối hận vô cùng. Hôm nay tiết Thanh Minh đi ngang qua núi. Tiểu đệ xin sư huynh khai ân, cho đệ lên núi lạy trước mộ sư phụ”. Liễu Ân đỏ mặt, mình cũng chưa bao giờ đến tảo mộ sư phụ. Liễu Ân chẳng hề để ý đến cái chết của Độc tý thần ni, nhưng Độc tý thần ni dẫu sao cũng là sư phụ của y, nay đã đi ngang qua núi, lại là tiết Thanh Minh, bởi vậy cũng có ý tảo mộ, thế mới đáp: “Thôi được, chúng ta lên núi”. Rồi nắm tay Lý Nguyên dắt lên Mang Sơn.
Phong cảnh mùa xuân ở Mang Sơn thật đẹp, hoa rừng đua nhau khoe sắc. Đi một hồi đã lên đến ngọn núi chính, dòng thác trên núi buông xuống, tia nước bắn tung tóe. Liễu Ân tuy ham mê cảnh phồn hoa, nhưng lúc này cũng không khỏi thấy thoải mái. Ngẩng đầu nhìn lên, y vẫn còn nhớ mõm đá nhô ra ở phía trước mặt chính là nơi sư phụ dạy mình khinh công, chỉ vì từ nhỏ căn cơ của mình không tốt, bởi vậy không luyện khinh công đến mức đăng phong tạo cực. Y lại nhớ tảng đá lớn bên cạnh dòng suối là nơi mình thử trượng, dấu trượng trên đá chắc vẫn còn. Liễu Ân vừa đi vừa nghĩ ngợi, một hồi sau đã cùng Lý Nguyên lên đến đỉnh núi.
Trên đỉnh núi, hai con chim điêu của Độc tý thần ni bay lượn kêu vang trời tựa như tiếp khách. Liễu Ân kêu: “Tiểu bạch tiểu hắc”. Hai con điêu bay lướt qua đầu Liễu Ân, Liễu Ân kêu lên: “Ồ, tiểu bạch tiểu hắc chẳng thèm để ý đến ta nữa!” chợt nhớ rằng năm nay mình đã gần sáu mươi, rời khỏi Mang Sơn cũng hơn hai mươi năm, “tiểu bạch tiểu hắc” cũng trở thành “lão bạch lão hắc” cả rồi.
Hai con chim điêu xuất hiện, Lý Nguyên phấn chấn tinh thần, tiếp tục bước tới, từ xa có thể nhìn thấy khu vườn mộ. Liễu Ân chợt nói: “Ồ, bên đó có người”. Nói chưa dứt, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì đột nhiên xuất hiện, Liễu Ân thất kinh, quay người chụp Lý Nguyên, Lý Nguyên đã chạy ra xa, Lữ Tứ Nương huýt một tiếng sáo, hai con điêu từ trên không bổ xuống, Liễu Ân cả giận, quét cây thiền trượng lên ngang đầu, quát: “Hai con súc sinh các ngươi cũng dám bức hiếp ta!” hai con chim điêu chỉ lướt xuống rồi lại bay lên, chỉ trong chớp mắt, Lữ Tứ Nương đã vung kiếm phóng tới trước, dắt Lý Nguyên chạy lên.
Liễu Ân nổi cáu, Lữ Tứ Nương mỉm cười, trên núi có một đám người đi xuống, không những có sáu sư đệ mà cả Quan Đông tứ hiệp và Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh cũng đến. Châu Tầm lạnh lùng nói: “Liễu Ân, ngươi cũng tới sao?”
Lúc này Lý Nguyên mới biết người cứu mình là Lữ Tứ Nương, y rất kinh ngạc. Cam Phụng Trì đã thấy y bị thương ở vai, Lý Nguyên kể rõ mọi việc, Châu Tầm nói: “Hiếm có dịp ngươi đến đây, mời lên trước mộ sư phụ nói chuyện”.
Liễu Ân nghĩ cách thoát thân, cầm cây thiền trượng hiên ngang đi về phía trước, chỉ trong chốc lát đã đến vườn mộ, chỉ thấy bia mộ viết rằng “Tiền Minh công chúa võ lâm hiệp ni chi mộ” góc trái có ghi tên của các môn nhân: Châu Tầm, Lộ Dân Đảm, Tào Nhân Phụ, Bạch Thái Quan, Lý Nguyên, Cam Phụng Trì, Lữ Tứ Nương nhưng không có tên của Liễu Ân. Liễu Ân giằng cây thiền trượng xuống đất, nói: “Lập bia mộ này là chủ ý của ai? Ai viết chữ?”
Cam Phụng Trì nói: “Chính ta đã hỏi ý kiến các đồng môn rồi lập lên. Còn chữ trên bia mộ là do tam ca viết, thế nào?” Liễu Ân nói: “Vậy tại sao ngươi không hỏi ý ta? Trên bia mộ sao không có tên của ta?” Cam Phụng Trì im lặng không đáp. Châu Tầm nói: “Hôm nay chúng ta đã tề tựu ở đây, giờ hành lễ theo thứ tự”.
Bảy người xếp thành một hàng, Châu Tầm đứng đầu đang định hành lễ. Liễu Ân nhảy vọt tới trước, vỗ vù một chưởng đẩy Châu Tầm ra chiếm ở phía trước. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Lữ Tứ Nương phóng vọt lên chặn trước mộ, giơ ngang trường kiếm, lạnh lùng nói: “Đồng môn bọn ta tảo mộ, người ngoài không được tham dự. Ngươi muốn quỳ bái, phải đợi bọn ta tế xong đã”.
Liễu Ân kêu lên: “Phản rồi, phản rồi! Khi ta nhập môn ngươi vẫn còn chưa ra đời, thế mà giờ đây ngươi quản cả ta!” Châu Tầm phóng lên một tảng đá lớn nói: “Các đệ tử của Độc tý thần ni xin tế cáo trước linh tiền xuống sư phụ, đuổi phản đồ Liễu Ân ra khỏi sư môn. Nhân lúc các vị tiền bối võ lâm ở đây, hôm nay công cáo thiên hạ!” Liễu Ân phóng lên tảng đá, Lữ Tứ Nương cũng bước tới đứng bên cạnh Châu Tầm. Châu Tầm tiếp tục nói: “Phản đồ Liễu Ân phản sư phản đạo, hôm nay bọn đệ tử nghe theo di huấn của sư phụ, thanh lý môn hộ. Mong các vị tiền bối võ lâm làm chứng”. Châu Tầm nói xong, Cam Phụng Trì quát: “Liễu Ân, ngươi còn muốn bọn ta ra tay?” Liễu Ân cười lạnh, đột nhiên xoay người vọt một cái, cây thiền trượng múa thành một vòng tròn, Lộ Dân Đảm và Bạch Thái Quan vội tránh ra, Liễu Ân xông ra chạy lên ngọn núi phía bên trái. Đó là chỗ bọn Quan Đông tứ hiệp xem lễ, con gái của Tào Nhân Phụ là Tào Cẩm Nhi cùng Ngư Nương đang ngồi trên tảng đá trò chuyện, Liễu Ân đột nhiên xông tới, Ngư Nương kinh hoảng kêu một tiếng, rút đao phóng ra, Tào Cẩm Nhi chạy ra phía trước, bị Liễu Ân chụp trúng, y kêu lớn: “Ai dám lên đây!”
Cam Phụng Trì mắt như đổ lửa, cao giọng kêu: “Liễu Ân, ngươi thật vô sỉ! Sắp chết mà vẫn còn bức hiếp tiểu bối!” Liễu Ân cười ha hả, giơ Tào Cẩm Nhi lên không xoay một vòng, cười lạnh nói: “Tào Nhân Phụ, ngươi đã lớn tuổi, chắc là không trẻ con như bọn chúng, ngươi hãy nói một câu công bằng!”
Tào Nhân Phụ xếp hàng thứ tư trong các đồng môn, lớn hơn Liễu Ân đến hai tuổi. Tào Cẩm Nhi là con gái độc nhất của ông ta, bởi vậy ông ta cưng như trứng mỏng. Lúc này Tào Nhân Phụ thấy con gái trong tay Liễu Ân, lòng đau đớn vô cùng, rung giọng nói: “Liễu Ân, ngươi có còn là người không?” Liễu Ân cười hì hì, Tào Nhân Phụ nói: “Các đồng môn đã quyết định thì chẳng sai, dù ngươi có giết Cẩm Nhi, ta cũng nói ngươi là phản đồ!” lúc này Liễu Ân chợt thét một tiếng, vung tay ném Tào Cẩm Nhi xuống vực! Trủy thủ của Cam Phụng Trì và Mai Hoa châm của Bạch Thái Quan đều bắn về phía Liễu Ân nhưng nào trúng được y!
Mọi người đều kêu hoảng, Tào Nhân Phụ suýt nữa ngất xỉu. Lữ Tứ Nương đột nhiên vọt xuống sơn cốc, Liễu Ân mặt tái xanh, nói: “Hay thật, bọn tiểu bối các ngươi dám ám toán ta”. Cam Phụng Trì rút đao xông lên, xem ra sắp đánh nhau với Liễu Ân. Bạch Thái Quan kêu: “Ồ, bát muội đã lên, còn có một người nữa”. Chỉ trong chớp mắt, Lữ Tứ Nương đã bế Tào Cẩm Nhi phóng lên, Tào Nhân Phụ chạy tới đỡ Tào Cẩm Nhi, Lữ Tứ Nương nói: “Không sao!” Tào Nhân Phụ bế con gái vào lòng, chỉ thấy chân tay nàng bị thương, áo quần nhuốm máu nhưng vẫn còn sống, bất giác mừng đến phát khóc.
Té ra Tào Cẩm Nhi vốn tính tình cứng rắn, tuy võ công của nàng không bằng Liễu Ân, nhưng trong lúc nguy cấp vẫn nhớ đến một tuyệt chiêu cứu mạng mà Dịch Lan Châu đã dạy, nàng móc chân lên trên, đá trúng vào mạch môn của Liễu Ân, Liễu Ân buộc phải ném ra ngoài, may mà Lữ Tứ Nương khinh công cao cường, nhảy xuống chụp được chân của nàng nên mới cứu được.
Lúc này Cam Phụng Trì mới quát: “Liễu Ân, tên hèn hạ nhà ngươi còn dám đứng ở đây?” Liễu Ân tự cho mình là anh hùng, mắng rằng: “Ta hèn hạ? Ngươi có dám tử chiến với ta không?” Cam Phụng Trì nói: “Tự làm tự chịu, ngươi đã làm điều ác mà không chịu nhận. Chẳng phải là kẻ hèn nhát sao?” Liễu Ân cả giận, nói: “Được, chúng ta đến trước mộ sư phụ, ta phải xem thử các ngươi làm gì được ta?” Liễu Ân tuy nói cứng nhưng trong lòng đã hoảng, y đang định tìm lời thoát hiểm.
Liễu Ân bước đến trước mộ sư phụ, đứng ở chỗ cao nhất, cười lạnh nói: “Các ngươi mời nhiều bằng hữu võ lâm đến đây, ta có chết cũng chẳng sợ!” Cam Phụng Trì nói: “Nói càn, bọn ta thanh lý môn hộ, đâu cần mượn ta người ngoài!” Liễu Ân hơi yên lòng, lại nói: “Ngoại trừ Lữ Tứ Nương, sáu người các ngươi đều do ta đích thân dạy dỗ, các ngươi bảo thanh lý môn hộ, ta cũng thanh lý môn hộ, tốt xấu gì ta cũng là sư huynh của các người, coi như là một nửa sư phụ của các người, hôm nay các người phạm thượng, đồng tình giết thầy, trước tiên ta sẽ trừng phạt các ngươi, xem võ nghệ của các ngươi có đủ giết được ta hay không!” bọn Cam Phụng Trì vốn muốn cùng Lữ Tứ Nương vây công, nhưng thấy y huênh hoang, rõ ràng là nói sáu người họ không phải là đối thủ của y, Châu Tầm lên tiếng trước: “Hay lắm, bọn ta sẽ để cho ngươi chết được nhắm mắt, vậy ngươi muốn thế nào?” Lữ Tứ Nương nói: “Ta và ngươi không có tình đồng môn, hôm nay ngươi không thể nào thoát được!” Liễu Ân tức giận nói: “Nếu trận thứ nhất ta thua, các ngươi sẽ định tội, nếu ta thắng, sẽ lại tỉ thí với ả tiện tì kia!” trong số các đồng môn, y ngại nhất là Lữ Tứ Nương, nhưng nghĩ thầm: “Nếu đơn đả độc đấu chắc chắn có thể thắng nàng” nên mới dùng lời gạt nàng ra ngoài rồi vung gậy cao giọng kêu: “Được, các ngươi cùng xông lên!” rồi bổ một gậy về phía Châu Tầm!
Võ công của Châu Tầm không giỏi lắm, y rút cây kích gạt lên, chỉ thấy hai tay đều tê rần, Cam Phụng Trì phóng vọt tới, tay phải cầm đơn đao đánh một chiêu Bạt Vân Kiến Nhật, chém ngang qua, tay trái móc lại thi triển thủ pháp Cầm Nã móc mạch môn của Liễu Ân, rõ biết là không kìm chế y được, dụng ý chẳng qua là yểm hộ cho Châu Tầm. Liễu Ân lanh lẹ lạ thường, y quét đơn đao của Cam Phụng Trì ra, rồi đánh vù một chưởng, bề ngoài là đánh Cam Phụng Trì ở trước mặt nhưng thực sự là đánh Lộ Dân Đảm ở bên cánh trái, Châu Tầm lướt bước giơ kích đâm mũi kích vào sau ót của Liễu Ân, Liễu Ân rùng người xuống, cây trượng đẩy ra sau kêu keng một tiếng, gạt cây phương thiên họa kích của Châu Tầm bay ra, chưởng trái vỗ vào ngực của Lộ Dân Đảm, Bạch Thái Quan nhảy vọt lên, bổ cây Quỷ Đầu đao xuống, chàng ta liền múa tít Bàn long đao pháp, nhất thời một vòng ngân quang chói lòa trước mắt Liễu Ân, Liễu Ân buộc phải rút chưởng phòng thân, thi triển thủ pháp tay không đoạt binh khí lao vào Bạch Thái Quan, tay phải cầm thiền trượng quét một lượt mấy món binh khí ra ngoài. Lý Nguyên bị thương vẫn chưa bớt, y múa cây roi bảy đốt quét xuống hạ bàn của Liễu Ân, Liễu Ân xoáy cây thiền trượng, cây roi bảy đốt quấn lên cây trượng, Liễu Ân quát: “Đi!” rồi ngầm vận nội lực giật một cái, cây roi bảy đốt của Lý Nguyên bị chấn động đứt thành ba đoạn. Lý Nguyên cả kinh nhảy ra khỏi vòng, Châu Tầm nhặt cây kích tiếp tục xông lên, Tào Nhân Phụ nói: “Lục đệ, hãy nghỉ một lát”. Lý Nguyên nghiến răng: “Cùng tiến cùng lui, không giết lão tặc, thề không ngừng tay!” rồi tháo sợi đai ra, múa tít tựa như con Du long, vẫn triển khai chiêu số nhuyễn tiên. Sợi dây đai hoàn toàn không chịu lực, không sợ bị đánh đứt, tuy không dồn Liễu Ân vào chỗ chết nhưng cũng có tác dụng kìm chế. Tào Nhân Phụ sử dụng một cây thiết tì bà có thể khóa chụp các loại binh khí hoặc cổ tay, trong cây tì bà lại chứa ám khí, lúc này cũng liều mạng già xông tới, Liễu Ân không dám không đề phòng.
Đôi bên đánh nhau đến trời đất tối sầm, nhật nguyệt tắt ngấm. Liễu Ân dốc hết tuyệt kỹ, chỉ nghe trượng phong kêu lên vù vù, trong phạm vi mấy trượng đều là tiếng gió, những người có công lực hơi thấp đều bị trượng phong đánh lệch binh khí ra. Nhưng bọn Châu Tầm lấy sáu địch một hô ứng lẫn nhau, Liễu Ân cũng không dễ phá vỡ trận thế. Lại thêm Cam Phụng Trì chỉ kém Liễu Ân không bao nhiêu, chàng và Bạch Thái Quan hợp lực tấn công trung lộ, chặn cây thiền trượng của Liễu Ân. Tào Nhân Phụ và Lộ Dân Đảm tấn công ở mặt trái mỗi khi nguy cấp, Tào Nhân Phụ lại nhấn vào cây thiết tì bà phóng ra ám khí; Lý Nguyên và Châu Tầm tấn công cánh phải phối hợp kìm chế. Sáu người chia thành ba nhóm bao vây Liễu Ân.
Quần hùng trên núi đều kinh tâm động phách, tuy trong lòng nôn nóng nhưng không tiện rút đao tương trợ. Lữ Tứ Nương thì khí định thần nhàn, dựa vào gốc cây đứng xem, chốc chốc lại mỉm cười. Huyền Phong nói: “Xem ra Giang Nam lục hiệp không thắng được sư huynh của họ, trận thứ hai chỉ có một mình Lữ Tứ Nương càng khó thắng hơn, có lẽ tên hung tăng này sẽ thoát hiểm!”
Dương Trọng Anh nói: “Nếu y thắng liền hai trận, khi xuống núi chúng ta lại sẽ chặn đánh y tiếp. Chúng ta trừ hại cho võ lâm, chẳng liên quan gì đến việc họ thanh lý môn hộ”. Liễu Tiên Khai cười nói: “Lão tiền bối không cần lo lắng, lát nữa xin mời xem Lữ Tứ Nương ra tay”. Trong Quan Đông tứ hiệp, Liễu Tiên Khai đã từng lãnh giáo bản lĩnh của Lữ Tứ Nương nên rất có lòng tin đối với nàng.
Đôi bên đã quần thảo một canh giờ, bọn sáu người Châu Tầm đều cảm thấy công lực của Liễu Ân cao hơn trước, Liễu Ân cũng cảm thấy sáu sư đệ không còn như ngày trước. Trong lúc kịch chiến Liễu Ân dần dần toát mồ hôi trán, hơi thở nặng nề, hai bên vẫn khó phân thắng bại. Liễu Ân thầm nhủ: “Không xong, mình vốn có sở trường dẻo dai, nhưng lúc này không nên đánh lâu với bọn chúng nữa”. Thế là trượng pháp thay đổi, liên tục đánh ra những đòn sát thủ. Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan dốc hết toàn lực mới chặn được, bốn người kia không dám tiến tới gần, Liễu Ân đánh vù một trượng, binh khí của hai người Cam, Bạch đều dạt ra, y quát lớn: “Ngừng tay! Trận này coi như huề nhau, ta muốn xem công phu của ả tiện tì kia có tiến bộ gì hay không?” y nói thế có nghĩa tự coi mình là sư huynh Chưởng môn, nói xong nhảy ra khỏi vòng chiến, giơ ngang cây gậy trước ngực trừng mắt nhìn Lữ Tứ Nương.
Trận đánh này khiến Liễu Ân tốn không ít khí lực, bọn Châu Tầm cũng đã mệt rã rời. Cam Phụng Trì nghĩ, nếu cứ giằng co tiếp, sẽ nắm chắc phần thắng trong tay nhưng cũng có một hai người bị nội thương, bởi vậy mới cầm đao lui xuống, tỏ vẻ đồng ý. Bọn Châu Tầm cũng lùi theo. Lữ Tứ Nương mỉm cười, phóng vọt vào giữa sân.
Liễu Ân định thần, quát: “Nếu trận này ta thắng, đôi bên không được trả thù nhau”. Câu này cho thấy y đã hơi nhụt chí. Lữ Tứ Nương nói: “Xin tuân lệnh!” rồi đâm soạt tới một kiếm. Liễu Ân lật cây trượng, đánh một chiêu Phiên Giang Đảo Hải cuộn tới, bọn ba người Châu Tầm, Tào Nhân Phụ và Lý Nguyên chưa bao giờ thấy bản lĩnh của nàng tiểu sư muội, nhìn Liễu Ân đánh ra chiêu hiểm độc đều không khỏi thất kinh! Cam Phụng Trì nói: “Không sao!” chợt nghe Lữ Tứ Nương hú dài một tiếng, chân trái đạp vào đầu trượng, mượn lực đạp ấy lộn người lên lướt qua đầu Liễu Ân, người chưa hạ xuống đã đánh tròn cây Sương Hoa kiếm trên không trung, sử dụng chiêu số Bằng Bác Cửu Tiêu, đâm vào cái đầu trọc của Liễu Ân! Quần hùng đều khen hay, Liễu Ân vung cây trượng lướt lên, đánh ra một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên, gạt kiếm của Lữ Tứ Nương ra, thầm thất kinh: “Công phu của ả tiện tì lại cao hơn trước nhiều”.
Lữ Tứ Nương thấy Liễu Ân sau trận đánh kịch liệt mà dư thế vẫn còn, nàng chẳng dám coi thường, thế là triển khai Huyền Nữ kiếm pháp, kiếm thế như cầu vồng tấn công tới. Liễu Ân múa cây thiền trượng, thấy chiêu phá chiêu, thấy thức phá thức, cũng có công có thủ.
Đánh được nửa canh giờ vẫn chưa phân thắng bại. Liễu Ân vừa thất kinh vừa hối hận: “Hừ, sớm biết như thế không nên tốn khí lực với sáu tên kia”. Lữ Tứ Nương thấy y có ý khiếp sợ, kiếm chiêu càng gắt hơn, đúng như sông dài biển rộng cuồn cuộn xốc tới. Liễu Ân nghiến răng quát lớn một tiếng, dốc hết nội gia chân lực múa tít cây trượng, một trượng như núi bao bọc kiếm quang của Lữ Tứ Nương!
Bọn Châu Tầm lại thất kinh, một hồi sau chỉ thấy một luồng ngân quang luồn qua lách lại trong rừng bóng trượng. Lúc này họ đã không nhìn thấy đâu là Liễu Ân đâu là Lữ Tứ Nương nữa.
Té ra Lữ Tứ Nương sớm liệu rằng cuối cùng rồi cũng sẽ quyết chiến với Liễu Ân, nên ngoại trừ kiếm pháp, trong thời gian năm năm ở Tiên Hà lĩnh, nàng đã âm thầm tu luyện nội công, nghiên cứu kỹ càng nội công yếu quyết của sư phụ và Dịch Lan Châu, bởi vậy tiến bộ rất nhiều về mặt nội công, so với Liễu Ân cũng chẳng kém bao nhiêu. Mà Liễu Ân vừa trải qua một trận kịch chiến, khí lực đã hao tổn mất một nửa, bởi vậy giờ đây Lữ Tứ Nương không những chiếm thượng phong về kiếm pháp mà cả về công lực cũng ngang tay với Liễu Ân! Trước đây sở dĩ Lữ Tứ Nương thua Liễu Ân là bởi công lực không thâm hậu bằng y, mà giờ đây công lực đôi bên lại ngang bằng nhau, Liễu Ân mới bạo dạn tấn công chẳng hề e ngại.
Với bản lĩnh của Liễu Ân, dẫu đã lọt xuống thế hạ phong nhưng vẫn có thể đánh thêm nửa ngày, thế mà giờ đây y lại nôn nóng lo sợ, cố gắng tốc chiến tốc quyết, dốc hết toàn lực liều mạng tấn công, Lữ Tứ Nương lấy khỏe đợi mệt, thừa cơ tấn công, lại đánh được nửa canh giờ, Liễu Ân đã lộ vẻ mệt nhọc, đang lúc kịch đấu quần hùng chợt nghe một trận cười dài, Liễu Ân cầm trượng tháo chạy, té ra y đã bị Lữ Tứ Nương đâm mù một mắt.
Lữ Tứ Nương khinh công trác tuyệt, nào để cho y chạy thoát, nàng phóng người lên, chặn trước mặt Liễu Ân, kiếm quang đánh ra loang loáng buộc Liễu Ân thối lui trở về!
Lúc này Liễu Ân tựa như một con hổ dữ bị thương, y múa cây thiền trượng kêu lên vù vù xông tới. Cam Phụng Trì kêu: “Bát muội cẩn thận!” Lữ Tứ Nương định thần ứng phó, thanh kiếm đánh tựa như bươm bướm xuyên hoa, bước chân lanh lẹ như linh miêu bắt chuột, người mềm mại như cành liễu đu đưa trước gió, Liễu Ân đánh cây thiền trượng sang phía Đông, nàng tránh phía Tây, Liễu Ân quét cây thiền trượng đến phía Nam nàng lách sang phía Bắc; nhưng không chỉ né tránh, trong khi né tránh nàng cũng liên tục tấn công. Lại một hồi kịch chiến, quần hùng chợt thấy hoa mắt, chỉ nghe Liễu Ân kêu thảm, con mắt còn lại cũng bị Lữ Tứ Nương đâm mù. Lữ Tứ Nương lách người tới, hớt ngang thanh kiếm, định cắt đầu Liễu Ân xuống, nàng chợt nghĩ lại dẫu sao y cũng là đại đệ tử của sư phụ, đã từng chỉ điểm võ công cho sáu sư huynh bởi vậy nên giữ cho xác y nguyên vẹn, nên kiếm đi được nửa đường đột nhiên thay đổi, mũi kiếm nàng điểm nhẹ vào huyệt đạo dưới be sườn của Liễu Ân một cái, Liễu Ân kêu lớn, phóng cây thiền trượng ra phía trước, trước khi chết mà kình đạo của y vẫn còn ghê gớm đến thế, Lữ Tứ Nương nghiêng mình lách qua, cây thiền trượng cắm sâu vào vách núi chỉ còn lộ ra một đoạn rất ngắn.
Liễu Ân có võ công tuyệt đỉnh, chỉ vì một ý nghĩ sai lầm mà đi vào nẻo tà, giờ đây phải chết thảm trước mộ sư phụ, quần hùng đều thở dài lấy đó làm gương. Cam Phụng Trì nghĩ trước đây y từng thay sư phụ truyền võ nghệ cho mình, bởi vậy cũng than: “Nếu huynh chịu nghe theo di huấn của sư phụ, đâu đến nỗi có kết quả như hôm nay”. Mọi người bàn bạc một hồi, quyết định chôn y bên cạnh mộ sư phụ, lập bia nói rõ mọi việc đã năn người đời sau. Mọi người đều quyết định do Lữ Tứ Nương chấp bút, Lữ Tứ Nương cùng Lộ Dân Đảm vào căn nhà đá trước kia Độc tý thần ni ở để tạc văn bia. Cam Phụng Trì ngồi một mình im lặng chẳng nói, chợt nghe bên ngoài tựa như có tiếng người, Lữ Tứ Nương cũng kinh ngạc, vội vàng đẩy cửa ra. Khi ra đến chỗ mộ địa chẳng thấy bóng người, nhưng đầu của Liễu Ân đã không còn nữa.
Chính là:
Đang mừng Mang Sơn diệt phản đồ, ngạc nhiên ban ngày mất thủ cấp.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
Ngày trắng mất đầu đồng môn thêm kẻ địch
Nước biếc soi hình ngọc nữ nhọc lòng lo
Lữ Tứ Nương kêu ủa một tiếng, nhíu mày nói: “Ai mà lớn gan dám lên Mang Sơn đánh cắp đầu?” Cam Phụng Trì cúi người xuống đất lắng nghe, nói: “Vẫn còn chưa đi xa, mau đuổi về phía Bắc!” bọn Bạch Thái Quan cùng Quan Đông tứ hiệp vội vàng đuổi theo. Cam Phụng Trì nói: “Phiền Lang Nguyệt thiền sư và Nguyên Bá đại ca ở đây trấn thủ, tam ca ngũ ca và Dương lão anh hùng đến lối ra ở phía Nam xem thử. Nhị ca và tứ ca canh giữ trong am, những người khác hãy đuổi theo cùng tôi”.
Cam Phụng Trì đuổi một hồi, chợt phát hiện có bốn người đang chạy xuống núi như bay. Lữ Tứ Nương lướt xuống như sao xẹt, đến lưng chừng núi thì nhìn rõ bọn chúng là Thiên Diệp Tản Nhân, Xa Tịch Tà, Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long.
Số là Niên Canh Nghiêu buộc Liễu Ân làm phản, trong lòng thấp thỏm không yên, về đến doanh trại thì Ung Chính (sau khi lên ngôi, Ung Chính đổi niên hiệu là Ung Chính. Từ đây sách sẽ gọi Ung Chính là Ung Chính) đích thân đến thăm, Niên Canh Nghiêu vội vàng vào trại khấu kiến. Ung Chính rất hài lòng về chuyện y đã giải quyết Dận Đề. Niên Canh Nghiêu hơi yên bụng, thừa cơ bẩm rằng: “Liễu Ân cậy công coi thường bề trên, không những không nghe tướng lệnh của hạ thần mà còn nói xấu Thánh thượng sau lưng, bảo rằng Thánh thượng có ngày hôm nay toàn là nhờ công lao của y. Hạ thần vừa nó được vài câu y đã tức giận bỏ đi. Chắc là y muốn về cung diện thánh cáo tội hạ thần”.
Ung Chính đảo mắt, cười ha hả: “Ta đang muốn gặp y!” Niên Canh Nghiêu giật mình, sắc mặt tái nhợt. Ung Chính vỗ vai Niên Canh Nghiêu, nói: “Niên tướng quân, khanh là trụ cột của trẫm, thống suất đại quân, ngày đêm cực nhọc. Cần gì phải nổi giận vì một tên thất phu”. Rồi lại cười nói: “Y muốn gặp ta? Chỉ e khi y đến gặp ta đã không thể nói được lời nữa!” rồi lập tức gọi bọn Thiên Diệp Tản Nhân, Xa Tịch Tà, Đổng Cự Xuyên, Cam Thiên Long tới ban chỉ rằng: “Hạn cho các ngươi trong vòng mười ngày phải lấy thủ cấp Liễu Ân về gặp ta!” Ung Chính đang còn phải nhờ vào Niên Canh Nghiêu nên thừa cơ hy sinh luôn Liễu Ân để vỗ về y. Bọn Thiên Diệp ra khỏi trướng, Niên Canh Nghiêu mới dập đầu xuống bẩm rằng: “Ơn lớn của chúa thượng, tiểu tướng dù gan óc đầy đất cũng không thể không báo”. Ung Chính mỉm cười kéo y dậy, nói: “Trẫm còn có việc lớn bàn với khanh”. Rồi cùng Niên Canh Nghiêu vào sau trướng bàn kín.
Bọn Thiên Diệp Tản Nhân đi tìm Liễu Ân, Liễu Ân tướng mạo hung dữ, lại là một hòa thượng nên tìm kiếm không khó. Bọn Thiên Diệp tuy biết Liễu Ân lợi hại nhưng nghĩ bụng với bốn người đủ sức giết chết y nên mới bạo dạn đuổi lên tới Mang Sơn. Không ngờ khi lên đến Mang Sơn Liễu Ân đã chết, bọn Thiên Diệp Tản Nhân thất kinh, vội vàng cắt đầu Liễu Ân chạy xuống núi.
Lữ Tứ Nương đuổi xuống lưng chừng núi, cười lạnh mắng rằng: “Bọn ngươi thật lớn gan, ai cho phép các ngươi làm loạn ở đây?” Xa Tịch Tà thấy chỉ có một mình Lữ Tứ Nương, thầm nhủ: “Kiếm pháp của ả tiện tì này lợi hại, mình phải thử xem sao”. Rồi chỉ cây trường kiếm về phía trước đánh ra một chiêu Đẩu Chuyển Tinh Hoành, quét ngang qua, Lữ Tứ Nương cười lạnh, đẩy cây Sương Hoa kiếm ra ngoài, lập tức một luồng ngân quang bùng lên, nàng chỉ xoáy nhẹ một cái đã phá được chiêu số của kẻ địch. Xa Tịch Tà đang định xuất chiêu, Lữ Tứ Nương xỉa mũi kiếm về phía trước nhanh như điện chớp, đâm soạt vào cổ họng của y, Xa Tịch Tà gạt ngang thanh kiếm, kiếm của Lữ Tứ Nương trượt xuống tựa như con ngân xà, Xa Tịch Tà vội thối lui ba bước mà vẫn không né tránh kịp, cổ tay đã bị mũi kiếm vạch một đường, hầu như không cầm được kiếm nữa. Thiên Diệp Tản Nhân thấy thế nguy cấm, vội vàng đánh ngang một chưởng mới giải nguy được cho Xa Tịch Tà, lớn giọng quát: “Tiện tì, ngươi đã hại sư huynh của ngươi, đáng tội gì?”
Lữ Tứ Nương nổi cáu mắng: “Liên quan gì đến ngươi? Mau trả thủ cấp của Liễu Ân!” rồi đâm tới soạt soạt hai kiếm, đấu với Thiên Diệp Tản Nhân, Xa Tịch Tà lách mình tấn công từ mặt bên. Đổng Cự Xuyên nói: “Ả còn có bè đảng, chạy mau!” Thiên Diệp Tản Nhân đánh một đòn Thủ huy tì bà, vung chưởng phản công, Lữ Tứ Nương trả lại một kiếm, võ công của Thiên Diệp Tản Nhân chẳng kém gì Liễu Ân, chưởng trái biến thành quyền, đánh ra một chiêu Ngự Bộ Ban Lan, Lữ Tứ Nương rút kiếm phản công, Xa Tịch Tà đánh hờ một chiêu, thừa thế phóng ra, lúc này Cam Phụng Trì, Huyền Phong đạo trưởng và Liễu Tiên Khai cũng chạy tới giao thủ với Đổng Cự Xuyên, Cam Thiên Long. Xa Tịch Tà vung kiếm xông tới, không ngờ trúng một đòn của Liễu Tiên Khai, đầu đau như muốn nứt ra, buộc phải du đấu với Liễu Tiên Khai. Một hồi sau, quần hùng cũng đều kéo tới, Thiên Diệp Tản Nhân chẳng có lòng nào đánh tiếp, thế là phân hai tay, chưởng trái bạt nhẹ vào chui kiếm của Lữ Tứ Nương, chưởng phải chặt vào cổ tay của nàng. Đây là chiêu lấy công làm thủ rất lợi hại, Lữ Tứ Nương xoay mũi kiếm, thân rê bước đổi, biến chiêu chặt xéo xuống, chỉ trong chớp mắt Thiên Diệp Tản Nhân đã thoát ra khỏi vòng kiếm quang của Lữ Tứ Nương.
Huyền Phong đạo trưởng và Bạch Thái Quan xông tới, Thiên Diệp Tản Nhân quát lớn một tiếng, tay trái đánh ra một chiêu Thần Ưng Phốc Thố chụp xuống đầu Bạch Thái Quan, tay phải dẫn cây gậy sắt của Huyền Phong qua, thừa thế tránh được kiếm chiêu trên tay phải của ông ta. Chỉ trong chớp mắt Thiên Diệp Tản Nhân đã liên tục tránh được ba món binh khí đánh kẹp tới, còn có thể phản công, Huyền Phong cả giận, thi triển kiếm chiêu cùng Bạch Thái Quan tấn công từ hai bên trái phải.
Lữ Tứ Nương quát: “Không trả thủ cấp của Liễu Ân, đừng hòng xuống núi!” Thiên Diệp Tản Nhân chẳng nói một lời, trở tay đánh vù ra một chưởng, đẩy cây kim đao của Bạch Thái Quan ra, lại xoay người tránh nhát kiếm của Huyền Phong đạo trưởng, hai tay vung lên, phóng vọt lên cao hơn một trượng, lướt qua đầu Huyền Phong đạo trưởng.
Lữ Tứ Nương biết Huyền Phong đạo trưởng háo thắng, nên không muốn lấy ba địch một, cùng tấn công kẻ địch. Lúc này Thiên Diệp Tản Nhân dùng Đại suất bi thủ đánh lui sư huynh, vội vàng bỏ chạy, Thiên Diệp Tản Nhân chạy như con gió lốc, phất ống tay áo, đẩy Liễu Tiên Khai ra, nhờ vậy Xa Tịch Tà mới thoát thân chạy xuống núi. Trong khoảng sát na ấy, Lữ Tứ Nương lướt theo như hình với bóng, một luồng thanh quang đâm thẳng vào lưng của Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp Tản Nhân cười dài vung tay, quát: “Nhận lấy!” một cái tay nải màu đỏ phóng tới trước mặt Lữ Tứ Nương, nàng cúi đầu vươn tay hớt lấy cái tay nải ấy, Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Trả lại sư huynh cho ngươi!” Lữ Tứ Nương chạm vào cái tay nải chỉ thấy tròn tròn, nghĩ bụng chắc trong tay nải là đầu của Liễu Ân, lúc này Thiên Diệp Tản Nhân đã phóng xuống núi.
Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long đang đánh nhau với Cam Phụng Trì, thấy thế không xong, y cũng xoay người lăn xuống núi. Y luyện công phu Bát quái lưu thân chưởng, xương cốt của toàn thân có thể hoạt động như ý, lăn xuống núi mà chẳng hề bị thương. Trong bốn kẻ lên Mang Sơn, Cam Thiên Long có võ công kém nhất, đang định chạy theo, Cam Phụng Trì quát lớn một tiếng trở tay vung ra một chưởng, Cam Thiên Long vừa mới chạy được hai bước, chợt cảm thấy sau lưng như bị trúng một nhát búa, y kêu thảm một tiếng hộc máu mồm, té nhào xuống đất. Cam Phụng Trì đang định chạy đuổi theo, Lữ Tứ Nương nói: “Đã lấy được đầu của Liễu Ân, cứ để mặc y”. Cam Phụng Trì mở tay nải ra, chỉ thấy đầu của Liễu Ân máu vẫn chưa khô, vẻ mặt trông rất nanh ác đáng ghét, chợt nhớ lại năm xưa y thay thầy truyền võ nghệ cho mình, bao nhiêu chuyện xưa dâng lên trong lòng, bất giác rơi nước mắt, thở dài: “Thôi, chúng ta nối thủ cấp của y lại, coi như y chết cũng toàn thây”. Rồi kẹp Cam Thiên Long về trước mộ sư phụ.
Lúc này bọn Lý Nguyên vẫn chưa về, trời đã tối, ráng chiều còn lửng lờ ở phía Tây, Lữ Tứ Nương chợt nói: “Nhìn xem, bên góc trời có áng mây đỏ!” áng mây đỏ ấy trông rất kỳ lạ, tựa như một bức màn màu đỏ căng ra giữa lưng trời, Huyền Phong nói: “Mây đỏ xuất hiện chắc chắn có họa máu rơi!” Lữ Tứ Nương nói: “Sao lại thế!” một hồi sau, áng mây đỏ càng lúc càng mở rộng, chân trời phía Nam đỏ một lúc rất lâu, Cam Phụng Trì chợt kêu lên: “Tung Sơn bốc lửa!” mọi người đều lên cao nhìn, quả nhiên thấy ở phía Tung Sơn thấp thoáng bóng lửa.
Mang Sơn và Tung Sơn cách xa nhau đến hơn ba trăm dặm, thế mà đứng ở Mang Sơn có thể thấy được lửa bốc cháy ở Tung Sơn, đủ biết thế lửa mạnh đến mức nào, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì nhìn nhau, Bạch Thái Quan ngạc nhiên nói: “Chùa Thiếu Lâm có năm trăm tăng nhân, ai nấy thân mang tuyệt kỹ, sao không dập tắt lửa mà để lửa cháy ngùn ngụt như thế, thật là kỳ lạ!” Lữ Tứ Nương nói: “E rằng đây là mồi lửa của triều đình!” Cam Phụng Trì run bần bật, chợt chụp Cam Thiên Long giở lên, quát: “Ai đã đốt lửa?” Cam Thiên Long cười gằn nói: “Bọn ngươi đã đoán trúng, cần chi phải hỏi ta! Lớn mạnh như Thiếu Lâm tự mà đối chọi với triều đình cũng có kết cuộc như thế! Vài người các ngươi làm được chuyện quái gì? Hãy mau thả lão tử!” Cam Phụng Trì cười lạnh, vung chỉ xỉa vào be sườn của y, Cam Thiên Long chợt cảm thấy như trong người có vô số con rắn nhỏ bò lúc nhúc, đau đến nỗi kêu lên thảm thiết. Cam Phụng Trì nói: “Tại sao các ngươi lên Mang Sơn đánh cắp đầu, hãy mau khai thật! Nếu không sẽ còn chịu khổ nữa!” Cam Thiên Long buộc phải khai thực. Cam Phụng Trì nghiến răng mắng: “Không ngờ Ung Chính và Niên Canh Nghiêu lại ác độc đến thế. Đáng tiếc tên này đến trễ nửa ngày, nếu không Liễu Ân đã biết được bán mạng cho Hoàng đế sẽ có kết quả như thế nào!” Cam Thiên Long khai xong, Cam Phụng Trì giở y lên ném xuống sơn cốc. Lúc này phía Tung Sơn thế lửa càng lúc càng lớn, nhìn từ xa tựa như một con trường xà màu đỏ bao vây Tung Sơn, Bạch Thái Quan lo lắng nói: “Sao tam ca và lục đệ vẫn chưa trở về?” Lữ Tứ Nương ngẩng đầu cười nói: “Ngũ ca đừng lo lắng, họ đã về kia rồi! Ồ, sao lại thêm một người nữa!” lúc nãy chỉ có ba người Dương Trọng Anh, Lộ Dân Đảm và Lý Nguyên đi xem ở phía Nam, giờ đây lại có thêm một người nữa.
Chỉ trong chớp mắt, bốn người đã lên núi, Lữ Tứ Nương kêu: “Ồ, sao Nhất Phiêu đại sư ngài cũng đến đây? Còn Tại Khoan đâu?” Nhất Phiêu hòa thượng buồn bã ngã xuống đất, một lát sau vẫn không nói ra lời. Lữ Tứ Nương nhìn ông ta, bất giác lo lắng nói: “Ông đã bị thương, may mà không nặng”.
Té ra hôm ấy Phùng Anh rời khỏi nhà họ Niên, vội vàng lên Mang Sơn, khi lên đến Mang Sơn trời đã tối, nàng lên từ mặt Nam của Mang Sơn, vừa vào cửa núi, chợt có một người xông ra mắng: “Hừ, ả nữ tặc nhà ngươi cũng dám đến Mang Sơn! Phi đao của ngươi đâu?” người ấy vừa mắng vừa đánh tới, phía sau lại còn có một nhà sư và một thiếu niên, ba người này là Lý Nguyên, Lộ Dân Đảm và Dương Trọng Anh. Lý Nguyên từng trúng một đao của Phùng Lâm, bởi vậy lần này chợt gặp Phùng Anh, chỉ tưởng rằng Phùng Lâm tự chui đầu vào lưới nên nào chịu bỏ qua.
Phùng Anh nghe thế rất ngạc nhiên, vội vàng né tránh, hỏi: “Này, ngươi nói gì thế? Ngươi là ai?” Lý Nguyên lại nhảy bổ tới một bước, vung sợi roi đánh một chiêu Trường Xà Nhiêu Thụ, quét vào eo của Phùng Anh, mắng: “Nữ tặc, dù ngươi có thành tro ta cũng nhận ra ngươi!” võ công của Lý Nguyên chẳng kém gì Bạch Thái Quan, lại thêm đang tức giận nên ra tay rất nhanh nhẹn, Phùng Anh né tránh mấy lần suýt nữa đã bị y quét trúng, tức giận kêu: “Ngươi thật vô lý, đừng trách ta không nương tay”. Rồi rút soạt thanh kiếm ra, Lý Nguyên đánh hụt một chiêu, chợt thấy ở sau ót có gió quát tới, té ra kẻ địch đã vòng ra sau lưng mình. Lý Nguyên vội vàng rê người đổi bước, chỉ thấy mũi kiếm sáng loáng đâm vào cổ họng của mình, Lý Nguyên vung sợi đai lướt tới tấn công, toan đoạt thanh kiếm của Phùng Anh, nào ngờ Phùng Anh học được chân truyền Thiên Sơn kiếm pháp, kiếm chiêu đánh ra rất lợi hại. Lý Nguyên dù không bị thương cũng không phải là đối thủ của Phùng Anh, huống chi chàng bị thương chưa hết, lại đã từng kịch đấu với Liễu Ân!
Lộ Dân Đảm thấy đồng môn bị nguy, rút đao trợ chiến, Dương Trọng Anh cũng rất lấy làm ngạc nhiên, thầm nhủ: “Kiếm pháp của ả thiếu nữ này thật lợi hại”. Hai người Lý, Lộ sánh vai tác chiến mà vẫn thủ nhiều công ít, lọt xuống thế hạ phong, đang lúc kịch chiến Lộ Dân Đảm thay đổi đao pháp, chân bước theo bộ pháp của Bát quái chưởng, đi vào cung ly, chạy đến vị khảm, đánh ra một chiêu Thần Long Đẩu Giáp, lưỡi đao chặt vào bả vai của kẻ địch, Phùng Anh đổi hai chiêu mà vẫn không trúng vào binh khí của y thì rất ngạc nhiên. Té ra Độc tý thần ni suốt đời nghiên cứu võ học, tinh thông hết thảy mười tám ban võ nghệ nên mỗi môn đồ đều sử dụng một loại binh khí khác nhau, đều có sở trường riêng biệt. Lộ Dân Đảm được bà truyền cho Bát Quái Tử Kim đao pháp, tấn công theo phương vị của ngũ hành bát quái, trong thủ có công, chuyên dùng để khắc chế kẻ cường địch. Phùng Anh đánh mấy chiêu mà vẫn không chiếm được phần hơn, trong lòng lo lắng, kiếm chiêu thay đổi thi triển Tu Di kiếm thức trong Thiên Sơn kiếm pháp ra.
Lộ Dân Đảm tuy có sở trường về đao pháp nhưng rốt cuộc vẫn không thần diệu bằng Thiên Sơn kiếm pháp, nhất là Đại Tu Di kiếm thức trong Thiên Sơn kiếm pháp biến hóa ảo diệu, không thể nào sánh nổi, mỗi chiêu đều hàm chứa rất nhiều biến hóa. Trên đời này chỉ có Huyền Nữ kiếm pháp của Độc tý thần ni truyền lại mới có thể kháng cự nổi. nhưng chỉ có Lữ Tứ Nương học được môn kiếm pháp này. Lộ Dân Đảm và Lý Nguyên đều luống cuống tay chân. Dương Trọng Anh thấy thế không xong, rút đạn cung bắn liên tục mấy phát.
Phùng Anh thấy Dương Trọng Anh phóng ám khí, cười thầm: “Đại Tu Di kiếm thức của mình rẩy nước vào còn không lọt, mấy viên đạn nhỏ của y làm gì được mình!” rồi kiếm chiêu đánh gấp lên, vẫn tiếp tục tấn công hai người Lý, Lộ, chẳng thèm coi đạn cung của Dương Trọng Anh vào đâu. Chợt nghe mấy tiếng leng keng vang lên, Phùng Anh thấy hổ khẩu đau nhói, kiếm chiêu đã mất chuẩn, Tử Kim đao của Lộ Dân Đảm và sợi dây đai của Lý Nguyên thừa cơ tấn công vào!
Té ra Đại Tu Di kiếm thức tuy thần diệu vô cùng, thần đạn của Dương Trọng Anh cũng không thể bắn vào được nhưng công lực của Phùng Anh vẫn còn kém, thần đạn của Dương Trọng Anh không những chính xác mà kình lực cũng rất mạnh, may mà thanh kiếm của Phùng Anh là kiếm quý chứ nếu không đã bị thần đạn bắn mẻ.
Phùng Anh cả kinh, may mà Dương Trọng Anh chỉ bắn một loạt đạn, khi hai người Lý, Lộ tấn công tiếp, nàng lại có thể múa kiếm chống cự.
Phùng Anh thất kinh, mà Dương Trọng Anh càng thất kinh hơn, xưa nay thần đạn của ông ta thiên hạ vô địch, thế mà chẳng bắn trúng được một viên, các đạn sắt đã bị bảo kiếm đánh vỡ! Nếu kẻ địch là nhân vật thành danh thì chẳng có điều gì lạ, thế mà kẻ địch lại là một ả thiếu nữ mới mười mấy tuổi đầu! Dương Trọng Anh không biết rằng, kiếm Đoạn Ngọc của Phùng Anh là bảo kiếm, lại thêm nàng học được kiếm pháp tinh diệu nên vẫn có thể chống cự nổi.
Đạn cung vừa hết, Lý Nguyên và Lộ Dân Đảm lại buộc thối lui từng bước, Lý Nguyên kêu: “Dương tiền bối, mau bắn đạn!” Dương Trọng Anh lại tiếp tục phóng đạn, hai người Lý, Lộ mới có thể đánh ngang tay với Phùng Anh.
Sau một hồi, một hộp sáu mươi tư viên thiết đạn của Dương Trọng Anh đã hết, Phùng Anh vẫn chưa rút lui, Dương Trọng Anh là nhân vật đã thành danh, ông ta cũng không muốn giúp hai người Lý, Lộ tấn công một ả thiếu nữ nữa. Vả lại Dương Trọng Anh tuy không biết kiếm pháp của Phùng Anh nhưng cũng thầm khâm phục, lòng mến tài nổi lên, ông ta kêu lớn: “Đây là nơi mộ địa của Độc tý thần ni, hôm nay quần hùng võ lâm đến đây cúng tế, sao lại mang kiếm lên núi? Mau cút xuống núi!” câu này rõ ràng là ý muốn bảo nàng bỏ chạy nhưng Phùng Anh đang chiếm thượng phong, nghe thế thì lửa giận bốc lên, kiếm chiêu đánh ra càng gấp hơn. Trong lúc kịch chiến cây Bát Quái Tử Kim đao của Lộ Dân Đảm đã bị bảo kiếm của Phùng Anh chặt gãy làm đôi. Dương Trọng Anh cả kinh định xông tới trợ chiến, chưa kịp nhảy vào đã thấy Lộ Dân Đảm bị Phùng Anh đẩy lùi đến mép vực, Lộ Dân Đảm vận dụng liền mấy loại thân pháp nhưng không tránh nổi vòng kiếm quang của nàng!
Thực ra Phùng Anh không muốn dồn Lộ Dân Đảm vào chỗ chết, nàng chỉ bực bội bọn họ, định trừng phạt họ mà thôi. Dương Trọng Anh lo lắng, bắn ra ba viên đạn cuối cùng, Phùng Anh hơi chậm lại, từ dưới sườn núi chợt có một người phóng lên, Lộ Dân Đảm kêu: “Nhất Phiêu đại sư cứu tôi!” nhà sư ấy vung quyền đấm vù ra, Phùng Anh kêu lên một tiếng rơi xuống sơn cốc tựa như con diều đứt dây.
Té ra Nhất Phiêu hòa thượng nghe Lộ Dân Đảm kêu, vội vàng chạy đến cứu người, thấy Phùng Anh chỉ là thiếu nữ trẻ tuổi, liền đẩy ra một chiêu Bài Sơn Vận Chưởng, chưởng lực rất mạnh mẽ, nhưng môn hộ đã mở rộng, Phùng Anh vung kiếm đâm vào huyệt Khí Du dưới cổ họng của ông ta, may mà Phùng Anh còn có ý nương tay, thấy Nhất Phiêu đại sư lách người né tránh, nàng đâm lệch mũi kiếm qua vai của ông ta, nhưng bản thân của nàng đã bị chưởng lực đánh rơi xuống sơn cốc.
Lữ Tứ Nương thấy Nhất Phiêu hòa thượng bị thương rất ngạc nhiên, hỏi Dương Trọng Anh: “Là cường địch nào thế?” Lộ Dân Đảm nghiến răng nói: “Chính là ả nha đầu mà chúng ta đã gặp ở Hàng Châu”. Lữ Tứ Nương nghe xong rất ngạc nhiên, nghĩ bụng Phùng Lâm võ công tuy cao nhưng làm sao có thể đả thương nổi Nhất Phiêu đại sư. Nàng đang định lên tiếng, Nhất Phiêu đại sư đã đứng dậy, mỉm cười nói: “Các vị huynh đệ đã trách nhầm rồi!”
Ông ta vừa nói như thế, mọi người đều ngạc nhiên. Cam Phụng Trì nói: “Đại sư đã bị thương như thế này, rõ ràng ả thiếu nữ ấy rất độc ác”. Nhất Phiêu cởi áo ngoài, lộ ra vết thương trên vai, chỉ thấy ở nơi xương tì bà có một vết thương rất cạn, ở huyệt Thông Hải còn có một chấm đỏ lớn như đầu đinh, nếu bị điểm vào huyệt Thông Hải khí huyết không thể nào lưu thông được, bởi vậy Cam Phụng Trì đã thôi cung quá huyệt cho ông ta.
Lý Nguyên nói: “Vừa ra tay đã đâm vào yếu huyệt, chẳng phải độc ác sao?” Nhất Phiêu nói: “Lão nạp chưa bao giờ thấy ai có kiếm pháp tinh diệu như nàng ta. Chắc là nàng đã hợp nhất tâm và kiếm nên có thể tùy ý thu phát, lúc nãy nàng chỉ cần dùng lực, chẳng phải xương tì bà của lão nạp đã bị nàng chặt gãy hay sao? Lúc đó lão nạp đã trở thành phế nhân, chẳng thể nào luyện võ được nữa!” Lộ Dân Đảm thầm nhủ: “Với kiếm pháp của ả, đúng là có thể chặt gãy xương tì bà của Nhất Phiêu đại sư. Từ đó có thể thấy hình như ả đã nương tay đối với mình”. Bất giác trong lòng thấy thắc mắc.
Lữ Tứ Nương nói: “Dù thế nào đi nữa chúng ta cũng không thể trừ nàng”. Lý Nguyên nói: “Lẽ nào bát muội nhận ra ả? Ả là ai?” Lữ Tứ Nương nói: “Có thể là truyền nhân của Dịch lão tiền bối, cũng có thể là đồ đệ của Song ma”. Lộ Dân Đảm ngạc nhiên nói: “Sao lại nói thế?” Lữ Tứ Nương đang định kể lại chuyện của Đường Hiểu Lan, chợt nhìn lại Nhất Phiêu rồi im bặt.
Lộ Dân Đảm nói: “Sao bát muội không nói?” Lữ Tứ Nương nói: “Chuyện này rất dài, Nhất Phiêu đại sư từ xa đến đây chắc có việc gấp, chúng ta nghe ông ấy nói thử xem”.
Nhất Phiêu nói: “Cũng chẳng có việc gấp gì, Tại Khoan thấy cô nương đi lâu mà không trở về, bảo lão nạp đem thư đến cho cô nương”. Rồi ông ta lấy bức thư ra đưa cho Lữ Tứ Nương, nói tiếp: “Tháng trước có một người cháu họ của cô nương tên là Lữ Nguyên đến tìm Tại Khoan”. Lữ Tứ Nương vốn đang mỉm cười, vừa mở thư ra xem sắc mặt chợt tái nhợt. Trong thư viết rằng: Ung Chính lên ngôi, lập tức phái quân đến bắt hết gia tộc của Lữ Lưu Lương, chỉ có một mình Lữ Nguyên chạy thoát. Ngoài việc đốt hết sách của Lữ Lưu Lương, bọn chúng còn đào mộ của Lữ Lưu Lương và Lữ Bảo Trung moi xác thị chúng. Lữ Nguyên chạy lên Tiên Hà lĩnh, không gặp Lữ Tứ Nương chỉ đành cho Thẩm Tại Khoan biết việc này. Nhất Phiêu hòa thượng rất nóng nảy, nếu ông ta biết việc này chắc chắn sẽ liều mạng cướp ngục, chẳng giúp ích được gì mà lại có hại, sau khi suy nghĩ, Thẩm Tại Khoan quyết định giấu Nhất Phiêu, chỉ nhờ ông ta đem thư cho Lữ Tứ Nương. Nhất Phiêu thấy Lữ Tứ Nương mặt tái nhợt, hỏi: “Tại Khoan nói gì thế?” Lữ Tứ Nương đưa thư cho ông ta, rút kiếm chém tảng đá bên cạnh làm đôi, ứa nước mắt mà nói: “Thù này không trả, thề không làm người”. Bọn Cam Phụng Trì cũng đã xem xong thư của Thẩm Tại Khoan, nói: “Nếu như thế, chúng ta hãy cùng đi!”
Sáng hôm sau quần hùng xuống Mang Sơn, Lữ Tứ Nương đã bớt đau đớn mới kể lại chuyện của Đường Hiểu Lan, Lý Nguyên nói: “Thế ra Phùng Anh và Phùng Lâm là đôi tỉ muội sinh đôi giống nhau, vậy không biết ta đã gặp Phùng Anh hay Phùng Lâm?” Lữ Tứ Nương nói: “Cả Đường Hiểu Lan cũng không nhận ra, đừng nói là chúng ta”. Cam Phụng Trì nói: “Muốn phân biệt họ chỉ có một cách, võ công của Phùng Anh cao hơn”. Nhất Phiêu nói: “Giả sử võ công của Phùng Lâm cũng tiến bộ thì sao?” Cam Phụng Trì nói: “Vậy chẳng cách nào nhận ra nữa”. Nhất Phiêu nói: “Đường Hiểu Lan đâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Y và Thập nhị chỉ thần thâu Trần Đức Thái đến Tuyết Hồn cốc dưỡng thương”.
Nhất Phiêu nói: “Ung Chính vừa mới lên ngôi được mấy tháng mà đã bắt bớ tràn lan, lại còn hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm!” Cam Phụng Trì hỏi: “Đại sư có đi ngang qua Tung Sơn không?” Nhất Phiêu nói: “Trên đường tôi gặp đại quân của Niên Canh Nghiêu kéo về phía Tung Sơn, chỉ đành đi đường vòng, không lâu sau thì thấy Tung Sơn bốc lửa, năm trăm cao tăng trong chùa Thiếu Lâm ai nấy đều mang tuyệt kỹ, nếu bị bọn chúng quét sạch một mẻ lưới thì chính là hào kiếp của võ lâm!” Cam Phụng Trì nhớ lại năm xưa mình đã từng đưa Ấn Hoằng lên Tung Sơn, nghe Vô Trú thiền sư dự liệu chùa Thiếu Lâm sẽ có đại kiếp, nói: “Vô Trú thiền sư nhìn xa trông rộng, mong có thể thoát khỏi trận hào kiếp này”. Đứng từ xa nhìn về phía Tung Sơn, thế lửa vẫn chưa tắt, quần hùng đều không khỏi thở dài.
Lại nói Phùng Anh chạy ra khỏi Mang Sơn, nhớ lại mọi chuyện từ trước đến nay, cảm thấy từ khi xuống núi trải qua rất nhiều chuyện kỳ lạ. Trên đường gặp rất nhiều người vô duyên vô cớ đuổi theo nàng, Niên Canh Nghiêu lại coi nàng là người khác, ở Mang Sơn gặp phải một thiếu niên tay cầm dây đai lại bảo mình dùng độc đao đả thương, thật không biết là lẽ gì!
Phùng Anh suy đi nghĩ lại, nhủ rằng: “Chả lẽ trên đời này còn có một người tướng mạo rất giống mình?” rồi nàng đi thẳng đến Trần Lưu, quyết lòng tìm cho ra lẽ.
Lúc này Phùng Lâm cũng có suy nghĩ như nàng. Đêm ấy nàng thoát ra khỏi căn nhà trong khu vườn, đánh cắp một con ngựa chạy ra khỏi Trần Lưu, nhớ lại Lý Trị đã từng xem nàng là đồ đệ của Dịch Lan Châu, lúc nào cũng gọi nàng là “Anh muội”, Niên Canh Nghiêu vừa về đã hỏi nàng có ra khỏi khu vườn hay không, lại nói thấy nàng đánh nhau với Song ma. Từ đó có thể thấy chắc chắn có một người rất giống nàng. Phùng Lâm cũng muốn về nhà họ Niên tìm cho ra lẽ nhưng vì sợ Liễu Ân nên chỉ đành đi bừa về phía trước.
Ngày nọ, Phùng Lâm đang đi trên đường, chợt thấy phía trước có một thớt ngựa trắng, trên ngựa có một nước mặc đồ đỏ trông rất nổi bật, eo nàng có đeo cây bội kiếm, lại còn có túi ám khí, chắc là người luyện võ. Phùng Lâm thầm nhủ: “Từ ngày mình xuất đạo chưa gặp một nữ tử biết võ công, không biết võ công của ả này thế nào?” thế là nàng phóng ngựa đi theo sau thiếu nữ ấy. Thiếu nữ nghe phía sau có tiếng vó ngựa nên quay đầu lại, liếc Phùng Lâm một cái, Phùng Lâm thấy nàng mặt như trăng rằm, mắt sáng như sao, bờ môi cong cong trông rất đẹp nhưng vẻ mặt ngạo mạn khó ưa. Phùng Lâm thấy nàng ta trừng mắt nhìn mình cũng lườm lại một cái. Nàng thiếu nữ chợt hừ một tiếng tỏ vẻ khinh bỉ rồi thúc ngựa phóng về phía trước.
Phùng Lâm từ nhỏ sống trong hoàng phủ, mọi người đều tôn trọng nàng, bất giác nổi cáu thầm nhủ: “Ả thiếu nữ này thật vô phép, mình cứ đi theo trêu ả một phen”. Phùng Lâm quên rằng mình đang cải dạng nam trang, thiếu nữ thấy nàng đi theo sau tưởng nàng có ý trêu ghẹo nên nổi cáu.
Nếu là một người bình thường thì không sao, nhưng nàng ta chính là Dương Liễu Thanh nổi tiếng kiêu ngạo trên giang hồ. Bằng hữu trên giang hồ vì nể mặt Dương Trọng Anh nên nhường nàng vài phần. Nàng tưởng rằng mình tài ba hơn người nên tự xem mình là nữ hiệp. Lần này Dương Trọng Anh cùng Đường Hiểu Lan đến kinh sư, vốn là bảo nàng ở nhà. Nàng đợi mấy tháng không thấy cha trở về, lại nhớ Đường Hiểu Lan nên một mình đến kinh sư.
Phùng Lâm thấy Dương Liễu Thanh kiêu ngạo nên cứ đi theo trêu tức nàng. Khi Dương Liễu Thanh đi nhanh, nàng cũng ra roi phóng nhanh, khi Dương Liễu Thanh chậm lại, nàng cũng buông dây cương. Dương Liễu Thanh bị nàng trêu tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, đến nơi hoang vắng nàng chợt kìm ngựa tháo đạn cung xuống, trừng mắt quát: “Tên tiểu tử nhà ngươi làm gì thế?”
Phùng Lâm bật cười, nói: “Cô nương, đường ai nấy đi, việc gì đến cô nương nào?” Dương Liễu Thanh trợn mắt, quát: “Tiểu tử, ngươi tên gì? Là người ở phe nào?” Phùng Lâm cười rằng: “Chúng ta chẳng thân thiết nhau, cô nương hỏi làm gì? Vả lại con đường này chẳng phải của cô nương. Cô nương đi được mà lẽ nào tôi lại không?”
Dương Liễu Thanh cười lạnh, cao giọng nói: “Ngươi có biết ta là ai không?” Phùng Lâm đáp lời: “Biết, cô nương là người đi tìm nam nhi!” Dương Liễu Thanh đỏ mặt, quát: “Hảo tiểu tử, tuổi tác còn trẻ mà miệng lưỡi khinh bạc, tha ngươi không được!” rồi nàng kéo dây cung, bắn ra ba viên thiết đạn, Phùng Lâm lách người tránh được một viên, vung tay hớt được viên thứ hai rồi nhẹ nhàng bắn trở về trúng viên thứ ba rơi xuống.
Dương Liễu Thanh cả giận kéo dây cung bắn tới, Phùng Lâm kêu: “Ôi chao, không xong!” rồi nàng đột nhiên ngã trút xuống ngựa nhưng vẫn chưa chạm xuống đất, té ra nàng dùng chân móc vào lưng ngựa đu người xuống, lúc này thớt người đã lướt ra hơn mười trượng, viên đạn của Dương Liễu Thanh chỉ bay xẹt qua lưng ngựa chứ không trúng được nàng!
Dương Liễu Thanh không khỏi thầm lo. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Phùng Lâm lại lộn người lên lưng ngựa, kêu: “Có qua thì phải có lại, tiếp đao!” rồi nàng vỗ ngựa xông về phía trước, hai mũi phi đao bắn vọt ra như điện chớp! Dương Liễu Thanh xoay eo, định tránh mũi thứ nhất rồi sẽ đánh rơi mũi thứ hai, nào ngờ mũi thứ hai phóng sau mà đến trước, Dương Liễu Thanh vừa lách sang bên trái, một luồng hàn quang đã lướt tới trước mặt, Dương Liễu Thanh vội vàng giơ thanh đạn cung lên gạt, chỉ nghe soạt một tiếng, cây đạn cung đã gãy làm đôi. Dương Liễu Thanh cảm thấy ở cổ mát rượi, mũi phi đao thứ nhất đã bay xẹt qua da. Đó là Phùng Lâm chỉ có ý trêu đùa chứ không muốn lấy mạng nàng bằng không mũi phi đao đã đâm vào cổ họng.
Dương Liễu Thanh vừa kinh vừa giận, nàng rút thanh bội kiếm vỗ ngựa xông lên toan tử chiến với Phùng Lâm, chợt nghe phía sau vọng lại tiếng vó ngựa, Phùng Lâm tinh mắt đã nhận ra ở cách hai ba dặm có rất nhiều ngựa, người ngồi trên ngựa tựa như là bọn công sai, nàng thầm nhủ: “Nếu Ung Chính phái người đến đây thì thật không hay”. Thế là tay trái vỗ vào cổ ngựa, thớt ngựa ấy là chiến mã của Niên Canh Nghiêu, bị nàng vỗ một cái mới hí dài lên một tràng. Dương Liễu Thanh chợt thấy ngựa của Phùng Lâm lướt qua như gió, nàng hoa cả mắt lên, thế là đâm hai nhát vào ngựa của Phùng Lâm, chợt thấy trên đầu tựa như bị người ta vỗ nhẹ, tiếng gió kêu lên vù vù, thớt ngựa của Phùng Lâm đã phóng lướt qua, Dương Liễu Thanh sờ lại trên đầu té ra hai cây ngọc thoa đã bị Phùng Lâm rút mất!
Dương Liễu Thanh cả giận vỗ ngựa đuổi theo, càng chạy càng xa, một lúc sau chẳng thấy bóng dáng Phùng Lâm đâu cả.
Phùng Lâm phóng ngựa chạy nửa canh giờ đến hơn hai mươi dặm, từ xa đã thấy Tung Sơn, nàng thở phào thầm nhủ: “Nghe nói trên trên Tung Sơn có chùa Thiếu Lâm, mình đã học được võ công của các nhà các phái, không biết có thể sánh với tăng nhân trong chùa hay không”. Thế là nàng nảy ra ý muốn lên chùa Thiếu Lâm lễ bái, khi chiều chạng vạng nàng đến một trấn nhỏ tên gọi là Quách Gia trấn, nơi này cách Tung Sơn khoảng hai ngày đường, nếu ngựa chạy nhanh nửa ngày sẽ tới.
Phùng Lâm đến trú tại một khách sạn sang trọng nhất trong trấn, cơm nước xong xuôi đang định nghỉ ngơi, chợt nghe bên ngoài có giọng thiếu nữ nói: “Chưởng quầy, chuẩn bị cho ta một phòng tốt nhất!” lão chưởng quầy cung kính đáp: “Dương nữ hiệp, ở đây vẫn còn phòng tốt. Tiểu nhị, đưa quý khách đến phòng phía Đông”. Phùng Lâm nghe giọng nói ấy quen, nàng ghé mắt qua khe cửa nhìn ra, chỉ thấy đó chính là người mình đã gặp trên đường, nàng mỉm cười thầm nhủ: “Chỉ một chút bản lĩnh mà cũng gọi là nữ hiệp!” căn phòng của Dương Liễu Thanh vừa khéo bên cạnh phòng nàng.
Một hồi sau, Phùng Lâm nghe có tiếng ngáy nhỏ, định ngồi dậy chợt nghe bên ngoài có tiếng người tiếng bước chân, khách sạn mở cửa, khách khứa bên trong đều xôn xao, lão chưởng quầy lớn giọng kêu: “Công sai đến tra xét! Các vị khách quan đang ở trong phòng đừng ra ngoài”. Phùng Lâm lo lắng, khoác áo ngồi trên giường. Nào ngờ tiếng bước chân của các công sai tựa như chia thành hai nhóm, một nhóm lục soát các dãy phòng ở hai bên.
Phùng Lâm lo lắng giới bị, phòng bên cạnh chợt vọng ra tiếng cãi cọ, Dương Liễu Thanh rít lên: “Các người đã lục soát xong chưa? Mau ra ngoài cho ta!” một tên quan sai cười hì hì nói: “Lục phòng đã xong nhưng vẫn chưa lục trên người của cô nương!” lời chưa dứt chỉ nghe bốp một tiếng, tên quan sai ấy tựa như bị ăn một tái tai, rống lên như lợn bị chọc tiết. Dương Liễu Thanh quát: “Cút ra ngoài cho bổn cô nương!” thế là bọn quan sai đang lục soát ở các phòng khác cũng kéo tới, Dương Liễu Thanh quát lên: “Cút!” rồi vỗ ra hai chưởng, đánh ngã hai tên quan sai ra ngoài, rút thanh kiếm nhảy vọt ra, bọn quan sai kêu: “Ả nữ tặc thật hung dữ!”
Chợt có người quát: “Bắt ả nữ tặc này trước!” lập tức nghe tiếng đao kiếm giao nhau. Phùng Lâm thất kinh nghĩ: “Ồ, trong số bọn quan sai quả nhiên có cao thủ!” nàng thò đầu ra nhìn, chỉ thấy bốn tên quan sai vây Dương Liễu Thanh ở giữa, kẻ đi đầu sử dụng một cây Câu Liêm thương, chiêu nào đánh ra cũng rất lợi hại, Dương Liễu Thanh chỉ có thể chống đỡ, tính thế rất nguy hiểm. Phùng Lâm thầm nhủ: “Được, nể tình ngươi cũng là phận nữ nhi, ta cứu ngươi”. Rồi lấy hai cây ngọc thoa của Dương Liễu Thanh bắn ra, Dương Liễu Thanh chợt thấy Phùng Lâm, thất kinh nghĩ: “Chắc tên khốn khiếp này cùng một giuộc với bọn ưng khuyển! Hỏng bét!”
Người sử dụng Câu Liêm thương lách người kêu: “Để ý!” hai tên quan sai bao vây Dương Liễu Thanh đột nhiên ngã nhào ra đất, Dương Liễu Thanh nhảy vọt ra khỏi vòng, Phùng Lâm cười hì hì: “Trả lại ngọc thoa cho cô nương, sao cô nương không nhận!” Dương Liễu Thanh phóng ra khỏi khách sạn nhanh như gió, nàng kéo cây đạn cung bắn bừa vào bên trong. Tên sử dụng Câu Liêm thương gầm lớn, gạt thiết đạn ra, đang định xông ra chợt nghe một giọng đàn bà kêu lên: “Bắt tên tiểu tử này lại, ồ, hắn không phải là tiểu tử thối mà là ả nha đầu ngang ngạnh, ả chính là khâm phạm của Hoàng thượng!”
Phùng Lâm vừa nghe thì thất kinh, người đàn bà này chính là Diệp Hoành Ba, vợ của Hàn Trọng Sơn! Diệp Hoành Ba cười lạnh nói: “Hừ, đồ đệ mà dám đánh lại cả sư phụ!” rồi vỗ một chưởng phách không, mũi phi đao của Phùng Lâm bị chưởng phong đánh bay ngược trở lại chạm với hai mũi phi đao phát sau rồi rơi xuống đất. Hán tử sử dụng Câu Liêm thương cũng phóng lên, đánh ra một chiêu Quy Xà Tỏa Giang, cây Câu Liêm thương xỉa về phía trước khóa kiếm của Phùng Lâm, Phùng Lâm đâm soạt soạt hai nhát kiếm, hai tên công sai đứng gần bị thương, rồi nàng quay lại đấu với tên hán tử sử dụng Câu Liêm thương.
Diệp Hoành Ba cười hềnh hệch, kêu lớn: “Lão thối, mau đến đây xem đồ đệ ngoan của lão!” đột nhiên một tiếng động lớn như trời long đất lở vang lên, vách tường phía Tây của khách sạn đổ nhào, tiếng kêu thảm vang lên, có hai người phóng ra, chỉ nghe Hàn Trọng Sơn kêu lớn: “Mụ thối tha, xem đây!” Phùng Lâm đưa mắt nhìn, chỉ thấy có một nhà sư vàng vọt gầy ốm, hai mắt sáng quắc có oai, gầm lớn một tiếng, tay trái xách một đại hán ném xuống, tay phải đánh bật cậy tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn. Hàn Trọng Sơn bị chưởng lực của nhà sư đánh bật thối lui. Phùng Lâm phân tâm nhìn, cái Câu Liêm thương đã đánh bổ tới, suýt nữa đã bị y đâm trúng, Phùng Lâm buộc phải ngưng thần chống cự với kẻ địch. Trong tai vẫn nghe tiếng Hàn Trọng Sơn: “Mụ thối, mau qua đây, Vương Ngạo, ngươi để ý phi đao của ả nha đầu, chỉ được bắt sống, ngươi cẩn thận!” Diệp Hoành Ba liếc Phùng Lâm, rút kiếm giúp chồng của mình, bọn vệ sĩ cũng xông lên bao vây nhà sư, chỉ có một mình hán tử sử dụng Câu Liêm thương chặn Phùng Lâm.
Đang lúc kịch chiến chợt nghe tiếng kêu thảm vang lên liên tiếp, chắc là có kẻ bị nhà sư đánh ngã. Hán tử sử dụng Câu Liêm thương võ công rất cao, Phùng Lâm phải dốc hết tâm trí đối phó với y, không dám đưa mắt nhìn xung quanh.
Té ra nhà sư này chính là Hoằng Pháp đại sư giám tự chùa Thiếu Lâm. Sau khi giám tự tiền nhiệm là Bản Vô đại sư bị Niên Canh Nghiêu hại chết ông ta được thăng lên làm giám tự, Ung Chính lên ngôi, trụ trì chùa Thiếu Lâm Vô Trú thiền sư liệu rằng sẽ có hào kiếp giáng xuống, hai năm nay đã ra lệnh cho các tăng lữ chùa Thiếu Lâm dọn dẹp đồ đạc âm thầm bỏ đi, một nhánh đến Phồ Điền Phúc Kiến, một nhánh đến Nam Hải Quảng Đông, trước đêm chùa Thiếu Lâm bị hỏa thiêu, chín phần mười nhà sư đã đi sơ tán. Hôm ấy, nghe nói Niên Canh Nghiêu đóng quân ở trấn Chu Tiên, Hoằng Pháp và trưởng lão Đạt Ma viện mời trụ trì lánh nạn, nào ngờ Vô Trú thiền sư mỉm cười nói: “Các người hãy chạy cho mau, một mình ta sẽ ở đây!” bọn Hoằng Pháp đại sư không chịu, Vô Trú thiền sư nói: “Nếu Ung Chính và Niên Canh Nghiêu lên Tung Sơn mà không thấy lão nạp nào chịu bỏ qua? Ta dù sống được một lúc nhưng cũng liên lụy đến tất cả mọi người trong chùa. Phật tổ dạy, ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục, lão nạp dù bất tài nhưng cũng nguyện cố gắng hết sức”. Bọn Hoằng Pháp vẫn không chịu, Vô Trú nghiêm nghị chắp tay, nói: “Hôm nay ta lấy thân phận chủ trì chùa Thiếu Lâm lệnh cho các ngươi phải mau rời khỏi chốn này!” bọn Hoằng Pháp đại sư chỉ đành rời khỏi chùa, sáng hôm sau đại quân của Niên Canh Nghiêu đã bao vây Tung Sơn.
Ung Chính và Niên Canh Nghiêu đều xuất thân từ Thiếu Lâm, biết rõ các nhà sư trong chùa võ công cao cường, đã sớm chuẩn bị sẵn hỏa khí lợi hại nhất, dùng ba trăm Ngự lâm quân cầm ống lửa có chứa lưu huỳnh bao vây chùa rồi sau đó khai hỏa. Ngoài ra Ung Chính còn phái hơn một ngàn cung tiển thủ giương cung chờ sẵn bên ngoài. Nào ngờ lửa cháy phừng phừng mà cửa chùa Thiếu Lâm vẫn đóng chặt, chẳng ai chạy ra.
Ung Chính thấy bất ngờ, nói với Niên Canh Nghiêu: “Chả lẽ bọn chúng ngồi bên trong chờ chết?” trong chớp mắt, chùa Thiếu Lâm chìm vào biển lửa. Một mảng vách tường đổ xuống, chỉ thấy ở giữa một tòa thạch tháp có một người đang ngồi, Niên Canh Nghiêu nói: “Chắc các trụ trì chịu không nổi thế lửa nên chạy lên đỉnh tháp? Cung tiển thủ cẩn thận!” nói chưa dứt, Vô Trú niệm một tiếng Phật hiệu từ trên tháp nhảy vọt xuống xông vào biển lửa, một lát sau thạch tháp đổ ầm xuống, ba mươi sáu đại điện chùa Thiếu Lâm cùng Hoa Nghiêm bảo tháp đều hóa thành tro bụi! Niên Canh Nghiêu thở phào nói: “Trụ trì chùa Thiếu Lâm đã tự thiêu, các nhà sư chắc cũng đã hóa thành tro bụi trong biển lửa!” Ung Chính nghĩ thầm, Vô Trú thiền sư là người đứng đầu năm trăm nhà sư, cả ông ta cũng không thoát, không lẽ gì những người khác lại chạy trước ông ta, chỉ có một điều không rõ ràng đó là tòa thạch tháp cao hơn mười trượng, sao có thể dễ dàng sụp đổ như thế?
Ung Chính không biết rằng, tháp Hoa Nghiêm đổ một nửa là do thế lửa, một nửa là do Vô Trú thiền sư tự hủy. Vô Trú thiền sư từ dưới đất lên đỉnh tháp, cứ mỗi tầng đều dùng chưởng đánh chấn động các trụ cột, sau đó lại xuất hiện trên đỉnh tháp để Ung Chính thấy ông ta tự nhảy vào lửa mà yên tâm, vì thế mới bảo vệ được nhiều tăng lữ chùa Thiếu Lâm. Vì Ung Chính thấy kẻ đứng đầu đã bị trừ, dù nghi ngờ có người chạy thoát cũng truy cứu không nghiêm ngặt.
Sau khi Ung Chính và Niên Canh Nghiêu phóng hỏa đốt chùa Thiếu Lâm, để lại một tốp người canh giữ, lại phái một tốp người đi tuần tra ở phạm vi ba trăm dặm núi Tung Sơn, mục địch là đề phòng cao nhân của phái khác đến Tung Sơn thăm dò.
Sau khi chùa Thiếu Lâm bị đốt nửa tháng, việc tra xét lơi lỏng bớt, Ung Chính cùng bọn Cáp Bố Đà đi làm việc khác, chỉ để lại vợ chồng Hàn Trọng Sơn coi sóc mọi việc ở Hà Nam. Còn trên Tung Sơn chỉ để lại Hải Vân hòa thượng và thống lĩnh Ngự lâm quân Tần Trung Việt canh giữ. Hoằng Pháp đại sư biết triều đình đã lơi lỏng, lòng lo cho Vô Trú thiền sư nên lén trở về Hà Nam mới biết trụ trì đã hy sinh, vì thế trời đen tối lên núi tìm kiếm ở tháo Hoa Nghiêm, lấy được một nắm đất làm thánh vật của chùa Thiếu Lâm định đem về Phố Điền để lưu lại cho đệ tử đời sau chiêm ngưỡng. Hoằng Pháp đại sư võ công cao cường, lén lên Tung Sơn mà bọn Hải Vân không biết. Đáng tiếc chẳng thoát được cửa ải thứ hai, cuối cùng đã gặp phải bọn vợ chồng Hàn Trọng Sơn ở trong khách điếm này.
Người đang đánh nhau với Phùng Lâm tên là Vương Ngạo, y là đệ nhất cao thủ ở Hà Nam, Tuần phủ Hà Nam sai y giúp vợ chồng Hàn Trọng Sơn. Người này võ công tuy không bằng vợ chồng Hàn Trọng Sơn nhưng hơi cao hơn Phùng Lâm, vả lại y cũng là người giỏi đánh ám khí, đã luyện được loại ám khí độc môn độc địa.
Phùng Lâm ác chiến với Vương Ngạo, liên tục dùng võ công của mấy phái mà vẫn không thoát thân được, nàng chợt nhớ Hàn Trọng Sơn dặn rằng y phải bắt sống nàng, thầm nhủ: “Kẻ này không dám lấy mạng mình, cần gì phải sợ y?” thế là kiếm pháp đánh ra rất gấp, toàn những chiêu số tấn công, võ công của Phùng Lâm cách Vương Ngạo không bao xa, lại chẳng lo lắng gì, nên cứ tấn công liều tới, đòn thế hiểm hóc hơn trước, Vương Ngạo bị nàng đánh đến thối lui từng bước, xem ra nàng sắp xông ra khỏi cửa. Vương Ngạo nghiến răng dấn tới chặn trước cửa, cây Câu Liêm thương đẩy về phía trước chặn kiếm của Phùng Lâm lại, tay trái giương lên, Phùng Lâm chợt thấy cổ tay tựa như bị kiếm chích vào, nàng cũng không hề để ý, dùng chiêu số Thiên Cân Nhất Vũ của phái Vô Cực lội Câu Liêm thương của Vương Ngạo ra ngoài cửa, rồi đâm lại soạt soạt hai kiếm, mở được một lối thoát nhảy ra khỏi cửa. Chợt nghe Vương Ngạo cười ha hả: “Nha đầu ngang ngạnh, ngươi đã trúng ám khí độc môn của ta, sau không mau buông kiếm đầu hàng để xin ta chữa trị?” Phùng Lâm khựng người, Vương Ngạo đã đuổi tới sau, chẳng ngờ bị Phùng Lâm trở tay phóng lại hai mũi phi đao, Vương Ngạo xoay người gạt một cái, keng một tiếng, cây Câu Liêm thương đánh rơi được một mũi phi đao, nhưng mũi thứ hai vẫn bay lướt qua vai, y thấy vai đau nhói lên. Vương Ngạo cả giận, quát: “Nha đầu ngang ngạnh muốn chết!” rồi cây Câu Liêm thương đánh như mưa bão, bao bọc Phùng Lâm vào ở giữa. Ngay lúc này, chợt nghe một tiếng ầm vang lên, cánh cổng của khách sạn bị vỡ tung bay ra ngoài, mấy bóng người xông ra.
Chính là:
Lần đầu bị ám toán, nguy cơ mà không biết.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.