Trải qua biết bao gian nan lại đoàn viên
Mong gặp mặt một lần ngọc nữ kinh tâm
Trương Thiên Trì chạy thục mạng, Phùng Anh đã mất thuốc giải cho Đường Hiểu Lan, lửa giận bốc lên đầu, thấy y bỏ chạy chẳng màng đến việc nhận tỷ muội nữa, nàng lướt người lao bổ xuống như chim ưng bắt thỏ, vẫy ra một đóa kiếm hoa đâm vào sau lưng của Trương Thiên Trì.
Chợt nghe Phùng Lâm kêu: “Nương tay!” Phùng Anh chưng hửng, chỉ thấy Phùng Lâm cũng lướt đến, từ trên không bổ xuống. Mũi kiếm của Phùng Anh vừa mới nhả ra, đã bị nàng từ trên gạt xuống đánh keng một tiếng, hai kiếm đều bật ra. Hai tỷ muội vọt ngang ba bước, Trương Thiên Trì lại chạy về phía trước. Phùng Lâm thấy thân pháp của Phùng Anh quá nhanh, nhất thời nôn nóng cho nên thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích học được từ Bát Tý Thần Ma, tuy đã cứu được Trương Thiên Trì nhưng khiến Phùng Anh nổi lòng nghi ngờ.
Phùng Anh từng cùng Bát Tý Thần Ma đấu mấy lần ở ngoài hải đảo, có ấn tượng rất sâu đối với thuật Miêu Ưng Phốc Kích của y. Vừa thấy thân pháp của Phùng Lâm là chiêu số của lão ma đầu này thì bất giác ngẩn ra, thầm nhủ: “Nó ra tay cứu ác tặc, dùng chiêu số của Bát Tý Thần Ma, chả lẽ nó cùng một giuộc với kẻ xấu?” bất giác lòng đau như cắt, nàng mở mắt nhìn trừng trừng Phùng Lâm. Từ nhỏ Phùng Anh được Dịch Lan Châu dạy dỗ, rất coi trọng chuyện chính tà, lúc này phát giác muội muội của mình là kẻ xấu, trong nhất thời tâm trạng sợ hãi đau đớn, lo buồn đan xen nhau, nàng không biết làm thế nào mới phải!
Còn Phùng Lâm thấy Phùng Anh cứ trừng mắt nhìn mình, bất giác bật cười, thầm nhủ: “Nàng có dung mạo giống mình, không biết võ công như thế nào?” bởi vậy mới có ý thử chiêu, cười rằng: “Trừng mắt nhìn ta làm gì?” rồi trở tay đâm một nhát kiếm vào huyệt đạo của Phùng Anh, đồng thời chân giở lên đá vào khớp gối của nàng. Hai chiêu này, một chiêu là Thiên Nam kiếm pháp của Hải Vân hòa thượng, một chiêu là gia số của Đổng Cự Xuyên phái Linh Sơn. Phùng Anh nào biết nàng thử chiêu, buộc phải lấy công làm thủ, thế là xoay người, đâm soạt soạt hai kiếm, phá giải chiêu số của Phùng Lâm.
Phùng Lâm cười rằng: “Kiếm pháp hay!” rồi tay trái đánh ra một chiêu Thái Phụng Toàn Ổ, tay phải đánh ra một chiêu Vân Long Điếu Đầu lướt người tới trước. Phùng Anh quát: “Sao ngươi không biết tự kiểm, giúp cho kẻ gian, không sợ làm ô nhục cha mẹ hay sao?” chiêu số của Phùng Lâm rất lanh lẹ, nàng chặn được mấy chiêu, Trương Thiên Trì đã chạy hơn nửa dặm.
Phùng Anh nổi giận, quát: “Ngươi còn cản nữa, ta sẽ trừng phạt ngươi!” Phùng Lâm cười nói: “Ngươi có bản lĩnh cứ thử xem!” Phùng Anh lướt người vẫy mũi kiếm, chỉ thấy ngân quang tỏa ra, Phùng Lâm kêu không xong, trong ánh kiếm bóng người, Phùng Anh giở tay tát bốp tới, thấy Phùng Lâm rụt đầu kêu hoảng, trong lòng không nỡ, cho nên tay chỉ lướt qua mặt nàng, Phùng Lâm xoay người đánh ra, cười nói: “Ta đã bảo ngươi đánh không trúng kia mà!” Phùng Anh mặt lạnh như sương, hừ một tiếng, phóng vọt người lên đuổi theo Trương Thiên Trì.
Phùng Lâm kêu: “Y đã bị thương, tại sao ngươi còn bức hiếp người ta? Ngươi không hiểu quy củ giang hồ sao?” rồi lại thi triển thuật Miêu Ưng Phốc Kích từ trên không bổ xuống, chặn Phùng Anh lại, kêu: “Trương trại chủ, ngươi chạy lên núi, trên núi có một miếu nhỏ, trong miếu có người cứu ngươi”. Trương Thiên Trì kinh hãi, quay đầu lại kêu đa tạ rồi cố nén đau chạy lên núi.
Phùng Anh nổi giận mắng: “Nha đầu, ta phải dạy cho ngươi một bài học!” rồi nàng thi triển Thiên Sơn kiếm pháp liên tục tấn công, đâm vào cổ tay của Phùng Lâm, muốn buộc nàng buông kiếm, Phùng Lâm nhảy nhót né tránh, vận dụng mấy loại võ công mà vẫn chỉ có thể chống đỡ.
Trong lúc kịch đấu Phùng Anh kêu: “Buông kiếm!” Mũi kiếm hất tới, vừa nhanh vừa chuẩn, Phùng Lâm chợt kêu: “Chưa chắc!” rồi cây kiếm gạt từ trong ra ngoài, kiếm thế trông rất chậm, Phùng Anh chỉ cảm thấy một luồng kình lực đẩy về, bất giác kêu ồ một tiếng, chỉ thấy kiếm pháp của Phùng Lâm lại thay đổi, kiếm thế trong nhu có cương, đúng là kiếm pháp thượng thừa của nội gia.
Té ra Phùng Lâm đã nghiên cứu Vô Cực kiếm pháp của Phó Thanh Chủ, đây là lần đầu tiên sử dụng, Vô Cực kiếm pháp tuy không tinh diệu bằng Thiên Sơn kiếm pháp nhưng có sở trường lấy nhu khắc cương, trong nhất thời Phùng Anh chẳng làm gì được nàng. Được khoảng năm mươi chiêu, Phùng Anh nổi giận, triển khai Đại Tu Di kiếm pháp, chỉ thấy một luồng kiếm quang đè lên đầu của Phùng Lâm tựa như núi Thái, khiến nàng rất khó chịu. Công lực của Phùng Lâm dẫu sao cũng kém hơn Phùng Anh, dần dần không triển khai được kiếm thế.
Phùng Anh ngầm vận kình, lại quát: “Còn chưa buông kiếm?” rồi từ trên đè xuống, Phùng Anh lướt người ra phía sau, kiếm dẫn ra sau, hai kiếm chạm vào nhau kêu keng một tiếng, Phùng Lâm chợt thối lui ra sau, kêu: “Nguy thật!” rồi vụt chạy lên núi!
Chiêu này của Phùng Lâm là tinh hoa trong Vô Cực kiếm pháp, trước tiên dùng nhu lực hóa giải các kình của kẻ địch, sau đó phản công, nhưng Phùng Lâm thấy kiếm pháp của Phùng Anh ảo diệu vô cùng, biết nếu cứ đánh tiếp chắc chắn sẽ thất bại cho nên không cần phản công đã thối lui ra sau.
Phùng Anh dùng Đại Tu Di kiếm thức mà cũng không thể đoạt binh khí trong tay nàng, bất giác thất kinh, thầm nhủ: “Võ công của nó ghê gớm thế này, mình càng không thể để cho nó đi vào nẻo tà, nối giáo cho giặc”. Thế là cầm kiếm đuổi theo.
Khinh công của Phùng Lâm tuy không bằng Phùng Anh, nhưng khi bị đuổi đến quá gần, nàng trở tay đánh lại một kiếm, dùng những chiêu số phòng thân tinh diệu trong Vô Cực kiếm pháp chống trả, trong vòng mấy chiêu Phùng Anh chẳng thể nào đánh bại nàng, chỉ đành đuổi sát theo sau. Chạy một hồi, nàng thấy phía trước có một cái am nhỏ, tiếng chuông bên trong vọng ra, Phùng Lâm chúm môi huýt một tiếng sáo, có ý dụ Lý Trị ra để cho chàng bất ngờ, Phùng Anh tưởng rằng nàng gọi đồng đảng cho nên càng đuổi sát theo sau.
Khi Lý Trị đưa Quảng Liên lên núi, trời đã sáng, chỉ thấy ni cô trung niên ngồi xếp bằng trên bồ đoàn ở đại điện. Lý Trị rất không vui vì chuyện đêm qua, nói: “Cứu người một mạng còn hơn xây bảy bậc phù đồ, sư thái, xin thứ tôi đã quấy nhiễu bà”. Ni cô đứng dậy nói: “Cứu người là chuyện đương nhiên. Tiểu cô nương đâu?” Lý Trị nói: “Nàng đợi một người bằng hữu, lát nữa sẽ trở về”.
Lúc này Quảng Liên đã tỉnh dậy, vẫn còn nằm trên lưng Lý Trị, ông ta hỏi: “Ai đang nói thế? Có phải là Luyện Hà không?” tiếng nói tuy rất yếu nhưng ni cô nghe tựa như sấm nổ giữa trời xanh, vội vàng chạy tới đỡ Quảng Liên, nước mắt lưng tròng, một lát sau mới thốt lên: “Trời, cha, có phải là cha không?” Lý Trị ngạc nhiên, đặt Quảng Liên xuống, định hỏi han, chỉ thấy hai người đã ôm nhau, Quảng Liên run lên bần bật, chợt kêu lên một tiếng rồi ngất xỉu.
Ni cô trung niên khóc: “Cha, cha đừng đi!” Lý Trị bắt mạch cho Quảng Liên, nói: “Ông ta vì mừng quá độ, nhất thời kích động cho nên ngất đi, không hề gì”. Ni cô thấy Quảng Liên dình đầy máu, mặt vàng ệt thì rất lo lắng, Lý Trị nói: “Ông ta bị thương tuy nặng nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Tôi đảm bảo sau ba ngày ông ta có thể ngồi dậy, sau một tháng có thể hồi phục bình thường!” ni cô ngừng khóc, giúp Lý Trị đưa Quảng Liên vào tịnh thất, Lý Trị nói: “Tôi sẽ thôi cung quá huyệt cho ông ta”.
Ni cô trung niên đứng một bên khóc thút thít, một hồi sau, Quảng Liên đã ngủ thiếp đi, Lý Trị nói: “Chúng ta ra ngoài”. Ni cô trung niên lau nước mắt, bước ra đại điện, thắp nhan đèn rồi quỳ xuống trước tượng Bồ Tát lầm rầm khấn vái. Lý Trị đứng một bên, nghe bà ta nói văng vẳng: “Tín nữ Quảng Luyện Hà đa tạ Bồ Tát phù hộ, ban cho cha con chúng con đoàn viên. Cầu xin Bồ Tát lại thi triển Phật lực, phù hộ cho Anh nhi và Lâm nhi bình an vô sự, sớm ngày trở về bên con”. Lý Trị giật mình, vội hỏi: “Bà còn có hai người con gái?” lúc này bên ngoài vọng vào tiếng đánh nhau, ni cô chậm rãi đứng dậy, gõ mấy tiếng chuông rồi bước ra cửa chùa, trong khoảnh khắc, Lý Trị chợt thấy ánh mắt bà tựa như chan chứa tình yêu vô hạn, tựa như mẹ của mình vậy.
Lý Trị cũng lặng lẽ bước ra, tiếng rượt đuổi nhau từ bên ngoài vọng vào, Lý Trị nghĩ: “Chả lẽ Lâm muội đã gặp cường địch?” rồi chàng nhìn xuống, chợt thấy có một hán tử thân hình cao lớn, vai dính đầy máu loạng choạng chạy lên. Lý Trị hỏi: “Ngươi là ai?” người ấy nói: “Chưởng môn của phái Thiên Đài Trương Thiên Trì”. Lý Trị nói: “Bằng hữu của ngươi đang đợi phía trong”. Rồi đưa tấm huyết thư của Quảng Liên, Trương Thiên Trì xem xong mặt biến sắc, hỏi: “Chả lẽ Quảng Liên đã gặp nạn? Ngươi là ai? Làm sao có được tấm huyết thư này?” Lý Trị nói: “Quảng tiên sinh đã bị thương nhẹ, không hề gì. Ông ta nhờ tôi cứu huynh. Huynh có thấy một tiểu cô nương không?” Trương Thiên Trì nói: “Tôi thấy hai người, một người cứu tôi, một người giết tôi, cả hai đều giống hệt nhau!” y nói xong thì té nhào xuống.
Ni cô trung niên lúc này mới lẩm bẩm: “Giống hệt nhau, trên đời lại có chuyện trùng hợp đến thế?” Lý Trị giật mình, ni cô lại nói: “Xương tì bà của y đã bị đâm thủng, tiểu huynh đệ biết y thuật, hãy mau cứu y, y là bằng hữu của cha tôi, chắc không phải người xấu”. Lý Trị lại thất kinh: “Lẽ nào ni cô này cũng biết võ công?” rồi nói: “Vậy xin sư thái đứng ở đây đợi bằng hữu của tôi”. Ni cô vẫn đứng nhìn ra xa, không quay đầu lại, lẩm bẩm: “Ta biết rồi, ta sẽ đội, ta đã đợi mười bảy năm qua!” giọng nói tràn trề nỗi niềm u oán, Lý Trị giật mình, cõng Trương Thiên Trì vào tịnh thất, trong lòng kỳ lạ, bàng hoàng, liệu rằng chắc sẽ có chuyện bất ngờ xảy ra.
Lại nói Phùng Anh đuổi theo Phùng Lâm, bất giác đã lên đến ngôi chùa, chợt nghe một giọng nói nghiêm nghị mà đầy từ ái kêu lên: “Ngừng tay!”
Giọng nói ấy tựa như có sức mạnh không thể kháng cự nổi, hai người không hẹn mà đều ngừng lại, ngẩn người ra nhìn, chỉ thấy trước cửa chùa có một ni cô trung niên, mắt chan chứa lệ nhòa, thở dài rồi lắc đầu: “Cốt nhục gặp nhau mà cũng không biết, tự tàn sát lẫn nhau, thật là đáng thương!”
Ni cô trung niên này chính là Quảng Luyện Hà, khi bà gặp Phùng Lâm, đã nghi nàng là con của mình, nhưng vì tên họ khác nhau, không dám nhận nhau, nay thấy họ y hệt nhau, nghĩ bụng trên đời ngoại trừ hai đứa con song sinh của mình, chẳng có người nào giống nhau như thế.
Phùng Anh và Phùng Lâm đều cảm thấy cõi lòng chao đảo, Phùng Anh ngẩng đầu hỏi: “Bà ta ai? Bà làm sao biết chúng tôi là tỷ muội?” Phùng Lâm cũng kêu: “Sư thái, bà có biết lai lịch của tôi không? Đêm qua tại sao bà không nói? Nàng có phải là tỷ tỷ của tôi không?” Quảng Luyện Hà vừa mừang vừa đau xót, đột nhiên chạy tới, tay trái nắm Phùng Anh, tay phải nắm Phùng Lâm, một lúc sau mới mỉm cười: “Các con hãy cười cho ta xem, ta sẽ biết ai là tỷ tỷ, ai là muội muội”.
Phùng Anh ngẩn ra nhìn mẹ, trong nhất thời chẳng cười được, Phùng Lâm lại bật cười một tiếng, đột nhiên đưa tay cù vào nách Phùng Anh, nói: “Sư thái bảo tỷ cười, tại sao tỷ không cười?” Phùng Anh nhột nhạt, bất giác bật cười khanh khách. Chỉ nghe ni cô trung niên kêu: “Lâm nhi, đừng nghịch, con là muội muội, từ rày về sau hãy nghe lời tỷ tỷ của con!” Phùng Anh, Phùng Lâm thấy thế đều không hẹn mà kêu lên: “Mẹ!” rồi ba người ôm nhau, sáu dòng nước mắt chan hòa rơi xuống.
Mẹ con gặp nhau tựa như cách thế, Quảng Luyện Hà vừa khóc vừa cười, ôm hai đứa con vào lòng, cũng không biết trải qua bao lâu, chợt nghe một tiếng: “Anh muội!” Lý Trị từ am ni cô chạy ra, thấy thế vừa mừng vừa kinh ngạc. Quảng Luyện Hà cười nói: “Lý huynh đệ hãy đến gặp hai đứa con gái của tôi, đa tạ đã cứu cha tôi, lại đưa Lâm nhi đến, giúp cho cả nhà chúng tôi đoàn viên”.
Phùng Lâm và Phùng Anh lau nước mắt, kêu lên: “Lý ca ca!” rồi chạy tới, nhưng không hẹn mà đều đứng lại. Lý Trị thấy mắt hoa lên, trong nhất thời chẳng nhận ra đâu là tỷ tỷ, đâu là muội muội, đang cố nhớ lại sáng nay Phùng Lâm mặc quần áo thế nào. Quảng Luyện Hà nói: “Anh nhi Lâm nhi, các con lại cười lên xem nào”. Lần này Phùng Anh và Phùng Lâm đều cười, Quảng Luyện Hà chỉ họ nói: “Tiểu huynh đệ xem, chúng thật giống nhau, lúc nhỏ cả ta cũng không nhận ra. nhưng khi bọn chúng cười lại có một lún đồng tiền, đồng tiền của tỷ tỷ nằm ở bên má trái, đồng tiền của muội muội nằm bên má phải, tiểu huynh đệ hãy nhìn cho kỹ, sau này đừng nhận lầm nữa”.
Phùng Lâm cười khanh khách, bước tới nắm tay Lý Trị, nói: “Mẹ, lát nữa y sẽ phân biệt được. Con nghịch ngợm hơn tỷ tỷ nhiều!”
Chợt Phùng Anh nhớ lại số thuốc mình vất vả lắm mới có được đã trôi theo dòng nước, Đường Hiểu Lan sắp mất mạng tới nơi, trong lòng đau đớn, bất giác nước mắt rơi như mưa. Lý Trị thấy thế, giật mình thầm nhủ: “Anh muội và mình là đôi thanh mai trúc mã, tuy không thề ước trước nhưng tâm sự của nữ nhi thật khó liệu. Mình xuống núi không đầy ba năm đã yêu người khác. Chả lẽ vì thế mà nàng hận mình hay sao?” rồi chàng cứ đứng ngẩn ra nhìn Phùng Anh.
Quảng Luyện Hà và Phùng Lâm cũng ngạc nhiên, Phùng Lâm thầm nhủ: “Tỷ tỷ, nếu tỷ muốn y thì cứ nói rõ, khóc để mà làm gì?” trong lòng nàng thầm tính, nếu hai người họ quả thực có tình cảm với nhau thì sẽ nhường Lý Trị cho tỷ tỷ, tuy là nghĩ thế nhưng trong lòng cũng thầm thấy bẽ bàng.
Phùng Anh lau nước mắt nói: “Lý ca ca, Trương Thiên Trì là người thế nào? Tại sao Lý ca ca lại bao che cho y? Hãy kêu y ra đây, muội phải chặt hai tay của y mới giải được nỗi hận trong lòng!”
Lý Trị ngạc nhiên nói: “Muội và Trương Thiên Trì có thù hận gì? Y là Chưởng môn của phái Thiên Đài, tuy không phải là người hiệp nghĩa nhưng cũng chẳng phải kẻ đại ác, vả lại y còn là bằng hữu của ngoại tổ phụ muội!”
Phùng Anh nghe thế, lại khóc như mưa, Quảng Luyện Hà nói: “Anh nhi, con có việc gì thế?” Phùng Anh nói: “Y chẳng phải người tốt, đã làm mất thuốc giải của con”. Quảng Luyện Hà nói: “Thuốc giải gì?” Phùng Anh thút thít nói: “Con phải cứu một người bằng hữu, thế mà tên Trương Thiên Trì này lại vô cớ động thủ với con, ném thuốc giải của con xuống khe suối, khiến con chẳng tìm lại được”. Phùng Lâm chợt hỏi: “Bằng hữu của tỷ là nam hay nữ?” Phùng Anh đỏ mặt nói: “Lý ca ca, người này cũng rất quen với huynh. Huynh còn nhớ Đường thúc thúc của muội không? Y đã ở Thiên Sơn ba năm”. Lý Trị nói: “Ồ, té ra là Đường Hiểu Lan!” chàng ta thấy vẻ lo lắng của Phùng Anh, biết không chỉ là tình cảm của một tiểu điệt nữ giành cho thúc thúc, trong lòng cả mừng, lại thầm trách mình đã suy đoán bừa bãi.
Phùng Lâm bất giác bật cười, nói: “Tỷ tỷ, muội đã liên lụy đến tỷ. Trương Thiên Trì vốn là tìm muội, bởi vì thủ hạ của y cướp một quyển sách của chúng tôi, bị muội dùng phi đao đả thương ba người”. Phùng Anh ngạc nhiên: “Vậy tại sao các người lại cứu y?” Lý Trị trả lời: “Oan gia nên giải không nên kết, thực ra quyển sách ấy không phải của chúng tôi, vật vô chủ chả trách nào bọn chúng dòm ngó”.
Lúc này Phùng Anh mới bớt giận, chợt nghĩ Đường Hiểu Lan sắp mất mạng, càng thêm đau lòng. Lý Trị nói: “Đường đại ca bị bệnh gì, có phải trúng ám khí có độc hay không? Muội nói cho huynh nghe thử không chừng huynh có thể trị”.
Phùng Lâm chen vào: “Quyển sách lúc nãy mà muội nói chính là di thư của Phó Thanh Chủ”. Phùng Anh nghe thế, trong lòng lại nảy lên một tia hy vọng, nói: “Vậy huynh hãy mau đến xem thử. Nhưng biết tìm lá ngô đồng mùa thu và dế trống mái ở đâu?” Lý Trị nói: “Tại sao cần phải có loại thuốc này?” Phùng Anh nói: “Là bài thuốc của Diệp Thọ Thường, ông ta là đồ đệ của Phó Thanh Chủ”.
Lý Trị nói: “Ồ, té ra là Diệp Thọ Thường. Trong sách của Phó Thanh Chủ từng nhắc đến tên ông ta, Anh muội, hãy cho huynh biết triệu chứng của Đường đại ca”.
Phùng Anh kể lại kỹ càng mọi chuyện, Lý Trị nhíu mày, tự thấy không nắm được phần thắng.
Bởi vì chàng ta chỉ là đọc kỹ y thư, tinh thông y lý chứ không có kinh nghiệm lâm sàn, hơn nữa triệu chứng Đường Hiểu Lan, trong sách không những không ghi mà về mặt y lý cũng không thông. Nhưng vì để an ủi Phùng Anh, vẫn gượng cười nói: “Ngày mai huynh sẽ cùng muội đến thăm bệnh cho y”. Phùng Anh nói: “Có thể đi ngay bây giờ được không?” Lý Trị nói: “Cần gì phải gấp như thế?” Phùng Anh chảy nước mắt nói: “Huynh không biết đó thôi, nếu trưa ngày mai không kịp cứu thì chắc chắn sẽ chết”. Lý Trị nói: “Vậy các người ở cách đây bao xa?” Phùng Anh nói: “Khoảng hai trăm dặm!” Lý Trị nói: “Vậy canh ba hôm nay chúng ta sẽ lên đường, chắc là trưa ngày mai đến nơi. Xương tì bà của Trương Thiên Trì đã bị gãy, nếu không kịp thời cứu, y sẽ bị phế võ công. Tốt xấu gì y cũng là Chưởng môn của một phái, chúng ta không thể để cho võ công của phái Thiên Đài bị đứt đoạn!” Phùng Anh suy nghĩ, xương tì bà của Trương Thiên Trì là do mình đâm thủng, lại nhớ chuyện Lữ Tứ Nương cứu Độc Long Tôn Giả, nghĩ mình mới gặp lại mẹ, vẫn còn có nhiều điều muốn nói, lại còn có ngoại tổ phụ nên khẳng khái nói: “Được, chỉ đành như thế. Đường thúc thúc nói sống chết có số, chúng ta đành phải dốc hết sức”.
Khi đang nói, chợt có mười người trèo lên núi, Lý Trị vừa nhìn thì cười: “Lâm muội, khách của muội đã đến thăm. Những kẻ bị đao độc của muội đả thương, muội hãy trị cho họ”. Phùng Lâm bước lên, những người ấy quát tháo lại định bỏ chạy, Phùng Lâm nói: “Trại chủ của các ngươi ở đây, nào, ta sẽ cho các ngươi thuốc giải”. Thủ hạ của Trương Thiên Trì đã cứu Trại chủ của mình, lại không nhận ra nàng là tỷ tỷ hay muội muội, là bằng hữu hay địch thủ, nhưng cũng kêu những người bị thương lên núi. Thế rồi trong đêm hôm ấy, cha con ông cháu nhận nhau, cả nhà lại được đoàn viên, ai nấy đều mừng mừng tủi. Lý Trị lại giúp Phùng Lâm nhớ lại những chuyện trước kia.
Trời chưa đến canh ba, Lý Trị đã cùng Phùng Anh lên đường quay về cứu Đường Hiểu Lan.
Phùng Lâm ở lại am ni cô giúp mẹ chăm sóc cho Quảng Liên. Họ đưa Phùng Anh xuống lưng chừng núi, Quảng Luyện Hà dặn đi dặn lại: “Sau khi Hiểu Lan khỏe, con hãy dắt hắn lên gặp mẹ”.
Phùng Anh vội vàng cùng Lý Trị xuống núi, nhân lúc trăng mờ sao thưa, cả hai thi triển khinh công phóng đi, trời chưa sáng họ đã ra ngoài Cư Dung quan.
Lý Trị chợt chậm bước, hỏi kỹ Diệp Thọ Thường đã đoán bệnh của Đường Hiểu Lan như thế nào, Phùng Anh kể rõ lại mọi việc. Rồi lại đưa bài thuốc của Diệp Thọ Thường cho chàng xem. Lý Trị thầm nhủ: “Gió thu hiu hắt, ngô đồng rơi lá. Dùng lá ngô đồng làm thuốc dẫn, chắc là muốn táo khí của người bệnh trầm xuống, qui thần ninh tịnh. Những vị thuốc này đều là thuốc ninh thần, không phải là thuốc giải độc, không biết là lý lẽ gì?”
Lý Trị cứ mải suy nghĩ, chân càng chậm lại, Phùng Anh đang nóng lòng, biết chàng đang dốc hết tâm trí, lại ngại thúc giục. Một lúc lâu trôi qua mà Lý Trị nghĩ chẳng ra. Chàng ngẩng đầu lên, thấy mặt trời đã lên đỉnh núi. Phùng Anh nói: “Đã nghĩ được chưa? Đi mau, kẻo trễ!”
Ở góc núi chợt có người kêu: “Ồ, Lâm quý nhân, đừng vội! Hoàng thượng đang đợi đấy!” Lại có người cười: “Hảo tiểu tử, ngươi dắt quý phi bỏ đi, lại còn dám đâm Phật gia, may thay lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt, hôm nay lại gặp ngươi! Hảo tiểu tử, sao còn chưa rút kiếm?” Phùng Anh và Lý Trị thất kinh, khi nhìn lại chỉ thấy hai người, đó là Hàn Trọng Sơn và Hải Vân hòa thượng.
Phùng Anh đang lòng lo như lửa đốt, Hải Vân hòa thượng chưa nói hết câu nàng đã rút soạt thanh kiếm phóng tới, một luồng kiếm quang đâm thẳng vào cổ họng của Hải Vân!
Hải Vân tưởng nàng là Phùng Lâm, nào ngờ kiếm pháp của nàng quá lợi hại, Hải Vân hòa thượng trở cây trường kiếm gạt xuống, khi lách người vai đã trúng một nhát kiếm, tức đến nỗi kêu lên oai oái. Phía bên kia Lý Trị và Hàn Trọng Sơn cũng rút binh khí.
Hải Vân hòa thượng tức muốn điên lên, nhưng Phùng Anh vì đang nôn nóng cứu người nên càng liều mạng hơn với y, nàng cứ lấy công đối công chẳng hề thối lui!
Nội lực của Phùng Anh tuy kém Hải Vân hòa thượng nhưng kiếm pháp lại tinh diệu hơn y, nàng múa tít thanh kiếm đến mức gió mưa không lọt. Hải Vân hòa thượng chưa bao giờ xảy ra tình cảnh chỉ trong hai ngày mà bị thương hai lần, tuy không đến nỗi mất mạng nhưng nguyên khí cũng tổn thương. Lúc đầu còn có thể lấy công đối công nhưng dần dần chỉ có thể chống đỡ.
Phía bên kia Lý Trị không phải là đối thủ của Hàn Trọng Sơn. Công lực của Hàn Trọng Sơn tương đương Liễu Ân, tay tị vân trợ của y múa ngang bổ dọc tựa như cây búa nặng ngàn cân đè xuống. Lý Trị liên tục đánh ra những chiêu nguy hiểm nhưng chẳng thể nào lướt tới gần, Hàn Trọng Sơn cảm thấy kiếm pháp của chàng quỷ dị, cũng không dám khinh địch, vì y cẩn thận nên nắm được phần thắng nhiều hơn, y không nôn tấn công, chỉ muốn khiến Lý Trị khí cùng lực kiệt sau đó ra đòn sát thủ.
Đang lúc kịch đấu Hải Vân hòa thượng lại trúng thêm một nhát kiếm, lần này bị thương nặng hơn, ở ngực đã bị mũi kiếm vạch đứt một đường, Hải Vân hòa thượng vội vàng lướt tới gần Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn tức tối: “Quay về trước đi!” Rồi múa cây tị vân trợ địch với đôi kiếm của Phùng Anh với Lý Trị. Hải Vân hòa thượng cố nén đau bỏ chạy thục mạng.
Thế là tình thế lại thay đổi, Phùng Anh và Lý Trị liên tiếp tấn công, thế không gì cản nổi, Hàn Trọng Sơn công lực tuy cao nhưng đã mấy lần suýt nữa gặp nguy hiểm, bất giác thầm lo. Phùng Anh quát: “Ngươi có nhường đường hay không?” Hàn Trọng Sơn lách người gạt ngang cây trợ, đánh ra một chiêu Hoành Vân Đoạn Phong, không ngờ Lý Trị vẫy mũi kiếm, tựa hư tựa thực, Hàn Trọng Sơn suýt nữa đã trúng kiếm, khi thoái lui từ tay áo đã bị chém mất một mảng. Phùng Anh và Lý Trị múa kiếm tấn công tới, Hàn Trọng Sơn cố gắng chống đỡ một đòn, đột nhiên nhảy vút ra khỏi vòng kiếm, vung tay, hai món ám khí kỳ dị xé gió bay về phía địch thủ.
Té ra đó chính là cái Hồi hoàn câu của y, Lý Trị đã nghe nói đến loại ám khí này, không dám dùng kiếm chặn lại, liên tục vận dụng mấy loại thân pháp né tránh, Phùng Anh thấy Hàn Trọng Sơn võ công cao cường, ám khí lợi hại, thầm nhủ: “Sức hai người mà không thể đánh thắng được y, nhưng chắc chắn y đã hao tổn không ít sức lực, chi bằng cứ dọa y một hồi”. Cái Hồi hoàn câu phát lên tiếng kêu u u, bay xéo tới, Phùng Anh dùng kiếm gạt một cái, cái Hồi hoàn câu đột nhiên hạ xuống, rồi lại bật lên bắn vào ngực của Phùng Anh, Hàn Trọng Sơn kêu lớn: “Không xong!” y vốn chỉ muốn khiến Phùng Anh bị thương để bắt sống, nào ngờ Phùng Anh hất một cái khiến cái Hồi hoàn câu bắn vào ngực của nàng. Hàn Trọng Sơn tưởng nàng là Phùng Lâm, mà Phùng Lâm là người Hoàng đế cần bắt, Hàn Trọng Sơn vào lúc bất đắc dĩ mới dùng loại ám khí này.
Cái ám khí bay nhanh, Hàn Trọng Sơn muốn thu lại cũng không kịp nữa, chỉ nghe bốp một tiếng, cái Hồi hoàn câu cắm vào ngực của Phùng Anh, móc câu móc trước ngực của Phùng Anh. Phùng Anh kẹp tay rút cái Hồi hoàn câu ra, thần sắc vẫn tự nhiên, cười lạnh nói: “Ám khí này có thể làm gì được ta!” rồi thuận tay ném một cái, cái Hồi hoàn câu bay xuống chân của Hàn Trọng Sơn.
Hàn Trọng Sơn nào biết nàng mặc áo giáp, bất giác cả kinh thất sắc. Lý Trị và Phùng Anh lại vung kiếm xông lên.
Hàn Trọng Sơn nghĩ bụng dùng ám khí đả thương họ không được, có đấu nữa cũng địch không nổi đôi kiếm của họ, mà nếu bại trong tay hai kẻ tiểu bối thì thật không đáng. Y chỉ đỡ hờ một trợ rồi vội vàng chạy đi.
Phùng Anh lau mồ hôi trên trán kêu: “Nguy hiểm thật!” Lý Trị nhìn theo Hàn Trọng Sơn, thấy y chạy vào con đường về phía kinh thành, nói với Phùng Anh: “Chúng ta không thể đi đường lớn, nếu đuổi theo y, e rằng lại phải đấu một trận. Cứ vòng đường lớn mà đi thôi”.
Phùng Anh nhìn bóng mặt trời, nhíu mày nói: “Đi đường nhỏ gần hay xa hơn?” Lý Trị nói: “Có lẽ cũng không hơn kém nhau bao nhiêu, song hơi khó đi. Nhưng còn hơn là phải dằn co với y”. Phùng Anh thầm nghĩ, quả thật chỉ có cách đó cho nên chẳng nói một lời chạy theo Lý Trị.
Với khinh công của hai người, nếu bình an thì có lẽ về trước khi mặt trời đứng bóng nửa canh giờ, nhưng bị Hàn Trọng Sơn chặn lại, mặt trời đã lên đến ba cây sào, Phùng Anh trong lòng đã gấp, cũng không màng đường lối gập ghềnh, cứ lao băng băng về phía trước. Lý Trị cũng chẳng thể nào đuổi kịp nàng.
Chạy được hơn một canh giờ, mặt trời đã dần dần lên đến đỉnh đầu! Phùng Anh nói: “Còn bao xa nữa?” Lý Trị thở gấp nói: “Bốn mươi dặm!” Phùng Anh trong lòng lo như lửa đốt, thấy mặt trời đã sắp đứng bóng, mà bốn mươi dặm ít nhất phải chạy thêm nửa canh giờ. Trong lòng hiện lên cảnh tượng Đường Hiểu Lan sắp chết nên đau như dao cắt, chợt nghĩ: “Chàng không thấy mình, e rằng chết không nhắm mắt!” lúc này nàng không còn dám hy vọng cứu sống chàng nữa, chỉ muốn trước khi chết có thể kịp gặp mặt lần cuối.
Phùng Anh dốc sức chạy nhanh như một cái bóng trắng, Lý Trị chạy sát theo sau nàng, vừa chỉ đường cho nàng vừa vận khí cầm cự, bốn mươi dặm trong chớp mắt đã vượt qua, hai người đã đến Tây Sơn, ngôi chùa Đường Hiểu Lan đang ở đã ở trước mặt.
Phùng Anh chợt kêu lên một tiếng, Lý Trị ngẩng đầu lên nhìn, mặt trời đã treo trên đỉnh đầu, tiếp theo lại nghe một tiếng ầm vang lên, đó là tiếng ngọ pháo hằng ngày được bắn ra từ Trường lăng vào lúc giữa trưa, tiếng pháo vọng đến Tây Sơn.
Lý Trị nói: “Đến rồi, đến rồi!” Phùng Anh mặt tái nhợt, càng chạy nhanh hơn, lòng thầm nhủ: “Đến rồi có ích gì? Muộn mất rồi!” tim nàng đập thình thình, trong chớp mắt đã đến trước cửa chùa, chỉ thấy Lãnh Thiền hòa thượng đang đứng chờ phía trước.
Phùng Anh vội hỏi: “Đường thúc thúc của tôi thế nào?” Lãnh Thiền mắt đầy lệ, khẽ nói: “Ở bên trong”. Phùng Anh nhìn sắc mặt ông ta, trong lòng thấy lạnh lẽo, mồ hôi tuôn xuống như mưa, người cứ run lên bần bật.
Lý Trị nói: “Anh muội, đừng lo, vẫn chưa đứt hơi là còn cứu kịp”. Phùng Anh chẳng nói một lời, kéo Lý Trị vào trong, chỉ thấy Cam Phụng Trì chạy ra nói: “Muội đến trễ quá rồi, không cần vào nữa!”
Chính là:
Sấm nổ một tiếng truyền tin xấu, chỉ lo nát lòng nữ nhi thôi.
Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.
Mỉm cười lộ kỳ năng phi đao cắt tóc
Lâm nguy trổ diệu thủ liên kiếm trị hung
Phùng Anh chợt nghe câu ấy tựa như sấm nổ trên đầu, khóc chẳng thành tiếng, người cứ run bần bật lao vào cửa, Cam Phụng Trì sợ nàng đau lòng, định cản lại nhưng thấy nàng như thế chỉ đành thở dài nhường đường.
Phùng Anh lao vào bên trong, thấy bọn Ngư Xác, Bạch Thái Quan, Ngư Nương, Lộ Dân Đảm đứng vây quanh bên giường bệnh, họ vừa thấy Phùng Anh thì đều lách ra. Lúc này Phùng Anh mới bật khóc, kêu lên: “Đường thúc thúc, Anh nhi đây, thúc thúc có nghe không?” Đường Hiểu Lan hé mắt, người khẽ động đậy nhưng chẳng nói nên lời. Lý Trị bước vào, chỉ nghe Bạch Thái Quan nói: “Các người đã về muộn, y vừa mới thở dốc!”
Lý Trị lúc này cũng cả kinh, kêu: “Không thể như thế!” rồi vẹt mọi người ra, chỉ thấy Phùng Anh đang khóc rất thảm thương, Ngư Nương và Lý Minh Châu đang đỡ nàng, không để nàng bổ nhào vào người Đường Hiểu Lan.
Lý Trị bắt mạch, chỉ thấy mạch tượng yếu tựa như sợi tơ, lại ghé tai lên ngực chàng lắng nghe, trên ngực vẫn còn ấm, tim vẫn còn đập nhè nhẹ. Xem kỹ lại mạch, mạch tựa như chẳng hề có triệu chứng của người bệnh, chỉ là rất yếu ớt, hơi thở hầu như cũng không thể phân biệt được, đúng là không thể hiểu nỗi, trong khoảnh khắc chợt nhớ lại cách đoán bệnh của Diệp Thọ Thường và lý do tại sao ông ta dùng lá ngô đồng mùa thu, một cặp dế trống mái và thuốc ninh thần, chàng đang ngồi bật dậy, nói với Phùng Anh: “Hãy nín khóc, nếu không y chẳng sống nỗi!”
Phùng Anh nói: “Có cứu được không?” Lý Trị gật đầu, Phùng Anh vội lau nước mắt. Mọi người đều ngạc nhiên, rõ ràng đã đứt hơi tại sao bảo còn có thể cứu? Vả lại trong lúc này biết tìm thuốc ở đâu?
Lý Trị kéo Phùng Anh qua một bên, khẽ nói: “Muội dùng ngón tay đâm vào nhân trung của y, kêu bên tai y rằng đã tìm được linh đơn!”
Phùng Anh nghi hoặc, nói: “Linh đơn ở đâu?” Lý Trị nói: “Hôm nay muội phải nghe lời huynh, đảm bảo sẽ có công hiệu”.
Phùng Anh nửa tin nửa ngờ, làm theo lời Lý Trị, chỉ thấy Lý Trị đổ một ly nước nóng, tiện tay bốc một ít tro nhang trong lư nhang búng vào ly nước, nói: “Cho y uống vào!”
Phùng Anh mặt biến sắc, Lý Trị đã trừng mắt nói: “Mau cho y uống, đó chính là linh đơn!” vẻ mặt của chàng rất nghiêm túc. Phùng Anh bưng ly nước, Lý Trị lại nói: “Đổ vào, bảo là linh đơn!”
Phùng Anh nói nên tai Đường Hiểu Lan: “Linh đơn đây!” Đường Hiểu Lan lại nhúc nhích người, Lý Trị nói tiếp: “Uống vào sẽ khỏe!” Phùng Anh đổ Lý Trị nước vào miệng Đường Hiểu Lan, một lúc sau, chỉ thấy hơi thở của Đường Hiểu Lan bắt đầu nặng nề, sắc mặt dần dần hồng hào, từ từ mở mắt nói: “Ồ, có phải tôi nằm mơ đây không? Rõ ràng tôi thấy đã bị bắt đi, sao lại trở về?”
Mọi người thấy thế đều ngạc nhiên. Chỉ thấy Lý Trị mỉm cười, nói: “Đường huynh, có nhận ra tiểu đệ không?” Đường Hiểu Lan nhìn một hồi rồi nói: “Ồ, hiền đệ, té ra đệ cũng đến đây!” Giọng nói vẫn còn yếu ớt, Lý Trị chợt nói: “Các vị hãy nghe tôi kể một câu chuyện”.
Mọi người càng lạ hơn, Phùng Anh vừa mừng vừa ngạc nhiên, không hiểu lúc này chàng còn lòng dạ nào kể chuyện!
Lý Trị chậm rãi nói: “Ngày xưa có một đại tướng nhiều lần lập được công lớn cho nước nhà, trở thành trụ cột của triều đình, Hoàng đế coi ông ta như thủ túc. Vị tướng này sức mạnh có thể địch vạn người, võ công trùm đời nhưng lại sợ vợ!”
Lộ Dân Đảm và Bạch Thái Quan đều bật cười, chỉ nghe Lý Trị tiếp tục nói: “Vị tướng này đã sắp năm mươi tuổi mà chẳng có con cái, Hoàng đế khuyên ông ta lập thiếp, ông ta sợ vợ nên chẳng dám có ý nghĩ này. Có một ngày, Hoàng đế cho gọi vợ của viên tướng vào cung, đặt một ly rượu trước mặt bà ta, nói rằng: ‘Đây là một ly rượu độc, uống xong trong vòng mười hai canh giờ thất hiếu sẽ chảy máu mà chết, chẳng thuốc nào cứu nỗi! Nếu khanh hứa cho chồng lập thiếp, trẫm sẽ ban một cung nữ cho y, rồi khanh đích thân đưa cung nữ này về nhà. Nếu khanh không chịu, trẫm sẽ ban chén rượu độc này cho ngươi!’
Vợ của viên tướng này cười nói: ‘Thần thà chết chứ không cho chồng lập thiếp!’ Nói xong thì bưng chén uống cạn. Tuy như thế, trong lòng vẫn lo, lúc đó dám uống rượu độc là vì nhất thời nổi giận, sau khi về nhà, nghĩ lại nếu chết thì thật là uổng mạng, bởi vậy rất lo lắng. Vì thế mới nằm trên giường chờ chết, nào ngờ sau mười hai canh giờ mà chẳng có việc gì xảy ra. Hôm sau viên tướng lên triều, Hoàng đế cười nói: ‘Phu nhân của khanh đã như thế, trẫm cũng chẳng còn cách nào. Chuyện lập thiếp đành thôi vậy’. Viên tướng vẫn lo lắng, hỏi: ‘Chẳng phải Hoàng thượng đã ban rượu độc rồi sao?’ Hoàng đế cười rằng: ‘Trẫm tuy vô đạo nhưng làm sao có thể tự tiện giết thê tử của văn thần? Đó chỉ là chén giấm mà thôi!’”
Lý Trị kể xong, mọi người đều cưởi ha hả. Đường Hiểu Lan chợt ngồi dậy, hỏi: “Chả lẽ ngày ấy Ung Chính không phải cho tôi uống rượu độc?”
Lý Trị cười nói: “Trước đây đệ không dám đoán, nhưng giờ đã có thể quả quyết đó không phải là rượu độc! Thứ đệ cho huynh uống lúc nãy cũng không phải là linh đơn”.
Phùng Anh ngạc nhiên nói: “Làm sao huynh có thể đoán ra?”
Lý Trị nói: “Tên cẩu hoàng đế Ung Chính thật là một tên tiểu nhân nham hiểm, ngày ấy y sợ Hiểu Lan tiết lộ chuyện y đoạt ngôi cho nên mới dùng quỹ kế”
Đường Hiểu Lan hỏi: “Vậy tại sao mấy ngày nay tôi lại bệnh nặng?”
Lý Trị nói: “Thử nghĩ xem thê tử của vị tướng ấy bị dọa chỉ có một ngày mà về nhà thấp thỏm không yên. Huống chi trong vòng một năm, huynh lúc nào cũng nghĩ tới việc đã bị uống thuốc độc, trong lòng không dám hoài nghi thứ mình uống không phải là rượu độc, đương nhiên tin vào lời hù dọa của y. Huynh tuy không sợ chết nhưng trong lòng đã có ý nghĩ sẽ chết, bởi vậy đến thời hạn này, tinh thần đã bị y khống chế, sinh cơ ngừng lại, làm sao không lâm trọng bệnh? May mà huynh không giống như người thường, chứ nếu không e rằng chưa đến kỳ hạn đã bị y dọa chết”.
Đường Hiểu Lan thầm hổ thẹn! Cam Phụng Trì mới bước vào, nghe Lý Trị nói mới bảo: “Thực ra tham sống sợ chết là chuyện thường tình của con người. Chúng ta là những người không sợ chết, vì nhân nghĩa mà nguyện liều thân. Trong lòng tự có mục đích. Thê tử của vị tướng ấy vì ghen mà không sợ chết, tuy không thể bì với chúng ta nhưng cũng có cùng một mục đích, nếu chết mà không có nguyên nhân sẽ rất oan khuất. Nếu thản nhiên chấp nhận thì đó không phải là chuyện thường tình của con người”.
Lý Trị lại nói: “Lúc đầu tôi không nghĩ ra, sau đó mới suy đoán cách dùng thuốc của Diệp Thọ Thường, đó chỉ là thuốc ninh thần tịnh khí, không phải là thuốc giải độc, tôi mới lớn gan nghi ngờ, sau đó cẩn thận cầu chứng. Vì Diệp Thọ Thường không đích thân bắt mạch cho nên không dám suy đoán, chỉ nghĩ đến việc ninh thần giải táo; còn tôi thì nghĩ đến nỗi lo về mặt tinh thần của Đường huynh. Đó có nghĩa là bệnh tâm phải trị bằng thuốc tâm. Anh muội là người gần gũi với y, Anh muội bảo tro nhang là linh đơn, y đương nhiên sẽ tin là linh đơn!”
Bạch Thái Quan cười ha hả: “Chả trách nào một số lang băm dùng tro nhang gạt người. Chắc chắn là có những người bệnh vốn không cần dùng thuốc có thể khỏe, uống tro nhang của họ, vì tin họ có thể chữa bệnh nên càng dễ khỏe hơn”. Mọi người đều bật cười.
Đường Hiểu Lan lại suy nghĩ, đợi mọi người cười xong mới ngẩng đầu nói: “Tên cẩu hoàng đế Ung Chính thật độc ác, tôi đã đoán được dụng ý của y. Y cho tôi thời hạn một năm, trong thời gian này y đã gạt bỏ các phe đảng khác. Nếu lúc đó ngai vàng của y đã vững, y không sợ tôi tiết lộ bí mật, đã có thể giết chết tôi. Nếu chưa vững, lại sẽ cho tôi uống bừa “thuốc giải”, dùng tiếp cách này để kéo thời hạn ra thêm một năm, như thế tôi sẽ không thoát khỏi bàn tay của y. Vả lại y còn mượn cách này lừa Anh muội vào cung, đúng là một viên đá có thể bắn trúng hai con chim”. Phùng Anh nghĩ lại mấy ngày trước mình mạo hiểm vào cung, định rằng sẽ hy sinh mình để cứu Đường Hiểu Lan đúng là ấu trĩ mạo muội, trong lòng thầm kêu nguy hiểm.
Đường Hiểu Lan tuy không gặp nguy nhưng trong bảy ngày ăn ngủ không yên, sức khỏe đã hư nhược. Lý Trị căn cứ vào bài thuốc ninh thần của Diệp Thọ Thường, bảo mọi người nấu cho chàng uống. Chỉ mấy ngày sau, Đường Hiểu Lan đã khỏe lại như thường.
Đến khi Đường Hiểu Lan khỏe lại, Phùng Anh mới cảm thấy mình đầu váng mắt hoa, đã định đi ngủ, chợt nhớ lại một chuyện, té ra trong phòng đã thiếu một người.
Bốn ngày trước, nàng và Lữ Tứ Nương chia nhau tìm danh y, lúc đó đã từng hẹn dù có tìm được hay không cũng phải về Tây Sơn gặp nhau, lẽ ra Lữ Tứ Nương đã về nhưng giờ sao lại không thấy, chả lẽ đã xảy ra chuyện gì? Nàng buộc miệng hỏi: “Lữ tỉ tỉ đâu?” Cam Phụng Trì ngạc nhiên nói: “Ta cũng đang muốn hỏi muội đấy!” Phùng Anh nói: “Tỉ tỉ vẫn chưa về sao?” Cam Phụng Trì nói: “Ta rất lấy làm lạ, tại sao muội đi cùng Tứ Nương mà lại quay về với vị đại ca này”.
Lúc này Lý Trị mới chào hỏi mọi người, Phùng Anh cũng kể chuyện nàng và Lữ Tứ Nương chia nhau tìm thầy thuốc, Cam Phụng Trì rất lấy làm lạ.
Phùng Anh nghỉ ngơi một đêm, sáng hôm sau kể chuyện cả nhà đã đoàn viên cho Đường Hiểu Lan nghe, Đường Hiểu Lan mừng rỡ nói: “Đúng là đi mòn gót sắt tìm chẳng có, thấy được chẳng phí chút công phu. Tâm sự mười mấy năm qua của huynh coi như đã giải quyết xong”. Phùng Anh nói: “Mẹ rất muốn gặp huynh”. Nói xong thì cúi đầu mỉm cười.
Đường Hiểu Lan nói: “Nơi Lữ tỉ tỉ đi cách Bát Đạt lĩnh có xa không?” Phùng Anh nói: “Nơi đó là Khang trang ở phía đông của Bát Đạt lĩnh. Ngôi chùa của mẹ muội thì ở phía bắc”. Đường Hiểu Lan nói: “Vậy huynh và Cam đại hiệp tìm Lữ Tứ Nương xong sẽ đến thăm mọi người”. Chợt nhớ lại năm xưa sư tẩu coi chàng là tiểu đệ, bất giác đỏ mặt. Phùng Anh đã đoán được tâm sự ấy, lại mỉm cười nói: “Để muội và Lý ca ca đến gặp mẹ trước để cho mẹ đón huynh”.
Lại nói sau khi Phùng Lâm hồi phục lại trí nhớ, tâm hồn cởi mở, hoạt bát hơn cả lúc trước. Nàng tin chắc Lý Trị có thể chữa bệnh cho Đường Hiểu Lan. Nhưng Quảng Liên và Trương Thiên Trì thì lại lo lắng, mười mấy họ ở trong một am ni cô, trong đó có quá nửa vừa bị thương mới khỏi, rất sợ quan binh đuổi tới cho nên kêu Phùng Lâm chốc chốc ra cửa núi nhìn.
Hai ngày trôi qua chẳng có chuyện gì. Đến bữa cơm sáng ngày thứ ba, mọi người đang thổi cơm, Trương Thiên Trì đã có thể đi lại được. Khi ăn cơm, chợt ném bát đũa phụp xuống đất, Phùng Lâm ngạc nhiên nói: “Làm gì thế?”
Một lúc sau Trương Thiên Trì mới đứng dậy nói: “Có mấy nhóm người ngựa tựa như chia nhau chạy qua phía đông, may mà bọn chúng không lên núi nhưng cũng phải đề phòng. Lâm cô nương, chỉ đành làm phiền cô một lần, cô hãy đến cửa núi phía đông xem có chuyện gì?”
Trương Thiên Trì là đại đạo trên giang hồ, phục địa thính thanh chưa bao giờ thất bại. Phùng Lâm ra đứng cửa núi nhìn, quả nhiên thấy ở dưới chân núi có vài thớt ngựa phóng lướt qua, xem ra hình như là bọn công sai. Một lúc sau, bọn công sai đã vượt qua, Phùng Lâm định trở về lại thấy mấy thớt ngựa chạy đến như bay, nhìn rõ lại thì thấy có một nữ tử cưỡi ngựa trắng mặc đồ đỏ trông rất bắt mắt. Phía sau có ba tên công sai cưỡi ngựa đuổi theo, kỹ thuật cưỡi ngựa của nữ tử này rất tinh diệu, nhưng ba người phía sau cũng không kém, đuổi đến chân núi, nữ tử mặc đồ đỏ phóng ngựa vào sơn cốc, chợt thớt ngựa hí lên thảm thiết, bốn vó tung lên, nữ tử áo đỏ lộn người xuống ngựa, kéo dây cung bắn về phía bọn truy binh. Nào ngờ ba tên công sai cũng nhảy xuống ngựa, rút binh khí gạt đạn ra, chỉ trong chớp mắt đã bao vây nàng ta.
Thiếu nữ đánh nhau với ba công sai đã dần dần núng thế, quát lớn: “Các ngươi thật lớn gan, có từng nghe tên của Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh chưa? Ta chính là con gái của ông ta!” nào ngờ bọn người kia vừa nghe đã cười ha hả, một người nói: “Dương lão đầu đấy à, bọn ta muốn kết thông gia với lão. Nào, tiểu nương tử, ta thấy nàng cứ khóc ngắn khóc dài, chắc là phu quân đã chết, chưa tìm được người mới. Nàng hãy chọn đi, ba huynh đệ bọn ta nàng thích ai?” Dương Liễu Thanh cả giận, thanh kiếm trong tay múa tiếp, ba tên kia càng thắt chặt vòng vây hơn.
Té ra mười mấy ngày trước, Cam Phụng Trì được Đường Hiểu Lan nhờ nên sai khoái mã đem thư đến báo tin xấu cho Dương Trọng Anh, trong di thư của Đường Hiểu Lan đã nói trước mình nhận được đại ơn, không thể nào đáp đền, kế đến nói rằng giờ đang gặp tai họa, sống chết vẫn chưa biết, sau đó lại xin lỗi cha con họ, xin được giải trừ hôn ước để khỏi làm lở tuổi thanh xuân của Dương Liễu Thanh.
Dương Trọng Anh đọc thư ấy mới cả kinh thất sắc, nhưng mình đã tàn phế không thể đi lại được, chỉ đành bảo Dương Liễu Thanh một mình vào kinh dò thám tin tức, đồng thời dặn nàng rằng: “Nếu hắn chưa chết, con phải tìm danh y trị cho hắn; nếu đã chết phải đem hài cốt về đây”.
Dương Liễu Thanh ngựa không ngừng vó chạy vào kinh đô, nhưng vì nhận tin quá muộn, đến Hòai Nhu đã quá thời hạn ba ngày, Dương Liễu Thanh nghĩ khi mình đến nơi, có lẽ Đường Hiểu Lan đã được hâm liệng, từ rày không thể gặp mặt chàng, lòng càng đau đớn hơn bởi vậy vừa thúc ngựa vừa rơi nước mắt.
Thiếu nữ phóng ngựa chạy một mình đã gây chú ý, huống chi nàng vừa phóng ngựa vừa khóc, bởi vậy càng khiến cho người ta dòm ngó.
Hôm nay, vừa khéo có một đám Huyết Trích Tử và cấm vệ quân đến Nam Khẩu bắt một khâm phạm quan trọng, vốn là chẳng thể nghĩ đến chuyện khác. Nhưng trong đó có ba tên xuất thân là thái hoa đại đạo, thấy Dương Liễu Thanh xinh đẹp, lại cưỡi ngựa quý cho nên nảy lòng đoạt tài cướp sắc, vì thế mới đuổi theo nàng, đầu tiên dùng ám khí giết chết con ngựa của nàng rồi bao vây nàng.
Dương Liễu Thanh đang vất vả, chợt nghe tiếng cười khanh khách vang lên, Phùng Lâm từ trên cây vọt xuống, nàng vừa vung tay ba mũi Đoạt Mệnh thần đao đã xé gió bay tới, ba tên Huyết Trích Tử tuy không phải kẻ tầm thường nhưng làm sao có thể chống nỗi lại ám khí này, một người có võ công hơi kém lách người qua, bị phi đao xuyên thủng cổ họng chết ngay lập tức! Một người dùng đao gạt ra, mũi phi đao bay lướt qua bên cạnh, vạch đứt bã vai của y; một tên nữa võ công hơi cao hơn, sau khi gạt đao đã lộn người xuống đất, dù tránh kịp phi đao nhưng cũng hồn bay phát tán, vội vàng chạy thục mạng.
Dương Liễu Thanh rất kinh ngạc, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy Phùng Lâm cười hì hì đứng trước mặt nàng, vẻ mặt lộ nét coi thường.
Dương Liễu Thanh chỉ tưởng nàng là Phùng Anh, năm ngoái nàng đã bị Phùng Anh đánh cho một bạt tay, đến nay vẫn còn chưa hết giận, nay tuy được nàng cứu mạng nhưng lại bị nàng coi thường bởi vậy tức càng thêm tức. Nhưng dầu thế nào đi nữa, Dương Liễu Thanh cũng không dám phát tác.
Phùng Lâm liếc nhìn Dương Liễu Thanh một hồi, cười hỏi: “Cô cô, sao cô cô đi gấp thế? Công công đã khỏe chưa? Cô cô, tuyệt kỹ thần đạn của cô cô đã cao minh hơn trước”. Phùng Lâm đã nghe Phùng Anh kể lại chuyện lúc trước, không đợi nàng lên tiếng đã giả mạo thân phận của Phùng Anh mà nói chuyện với nàng.
Dương Liễu Thanh cười một tiếng, nói: “Ngươi biết rõ mà còn hỏi. Một năm qua, ngươi chẳng phải ở cùng thúc thúc của ngươi sao?” Phùng Lâm nói: “Đúng thế! Chúng tôi sớm tối bên nhau, thật là vui vẻ!” Dương Liễu Thanh nghe thế nổi ghen lồng lộn, bất giác cười lạnh mấy tiếng, Phùng Lâm trừng mắt nhìn nàng, Dương Liễu Thanh sợ không dám phát tác, lại nôn biết tin của Đường Hiểu Lan, chỉ đành nén giận hỏi: “Hiểu Lan thế nào rồi? Ngươi thân với chàng như thế, sao lúc chàng bệnh sắp chết mà vẫn còn rong chơi thế này?”
Phùng Lâm cười khanh khác, hỏi: “Ngươi nghe ai nói thế? Đường thúc thúc chẳng hề bị bệnh!” Dương Liễu Thanh kinh hãi, hỏi: “Cái gì, Hiểu Lan không hề bị bệnh?” Phùng Lâm trả lời: “Đúng thế!” Dương Liễu Thanh nói: “Chàng lại viết thư bảo đã sắp chết đến nơi, ta tưởng chàng đã chết!” Phùng Lâm cố làm vẻ kinh ngạc, hỏi: “Cái gì? Đêm qua ta còn lấy mứt anh đào cho Đường thúc thúc ăn nữa, sao lại phải viết một bức thư như thế cho ngươi?” rồi nàng giả vờ ngạc nhiên suy nghĩ, một hồi sau mới vỗ tay nói: “Ồ, ta biết rồi, Hiểu Lan thật là hư, chẳng chịu nói với ta một tiếng”.
Dương Liễu Thanh nghe nàng gọi thân mật như thế, bất giác sắc mặt thay đổi. Nhưng vì muốn biết tại sao Đường Hiểu Lan lại viết thư như thế, chỉ đành nghiến răng, cố nuốt cục giận, trầm giọng hỏi: “Ngươi biết được điều gì?”
Phùng Lâm hỏi: “Trong thư chẳng phải chàng kêu ngươi xóa bỏ hôn ước hay sao? Chàng đã nói với ta, bảo ta giúp chàng suy nghĩ, xem thử có cớ gì tránh thành hôn với ngươi hay không!”
Nói chưa dứt lời, Dương Liễu Thanh đã tức giận kêu lên một tiếng, mắng rằng: “Thật là một tên tiểu súc sinh vong ơn phụ nghĩa!” Phùng Lâm nói: “Này, ngươi mắng thúc thúc của ta, ta không khách sáo với ngươi nữa đâu!” Dương Liễu Thanh lúc này đã quên hết mọi thứ, nàng vung tay tát vào mặt Phùng Lâm. Phùng Lâm nhảy bật ra, kêu lên: “Ngươi là cô cô, ta nhường cho ngươi một chưởng!” Dương Liễu Thanh kêu lên: “Ta liều với ngươi, ngươi có bản lĩnh hãy đánh chết ta!” rồi nàng cứ lao đầu tới, Phùng Lâm lại nhảy ra, nói: “Ta với ngươi chẳng oán chẳng thù, tại sao phải đánh chết ngươi?” Dương Liễu Thanh lao vào khoảng không, suýt nữa đã ngã chõng vó, nàng kéo đạn cung mắng: “Ngươi đúng là con tiểu tiện nhân vô sĩ, thiên hạ có biết bao nhiêu đàn ông, ngươi lại cứ đòi thúc thúc của ngươi?” rồi đạn bắn ra như mưa, Phùng Lâm cười nói: “Đạn cung của ngươi cũng đả thương được người sao?” rồi nàng vừa nhảy nhót né tránh, vừa thi triển thủ pháp chụp ám khí mà Hàn Trọng Sơn đã dạy, hất toàn bộ đạn của Dương Liễu Thanh ném qua một bên, một hồi sau Dương Liễu Thanh chẳng còn viên đạn nào nữa.
Phùng Lâm lại trợn mắt, mắng trở lại: “Ta bảo ngươi mới chính là tiểu tiện nhân vô sĩ, trong thiên hạ biết bào nhiêu là người đàn ông, ngươi lại cứ bám lấy Hiểu Lan! Chàng đã không thích ngươi, ngươi cứ đeo bám mãi mới đúng là vô sĩ!” Dương Liễu Thanh mặt tái nhợt, căm giận vô cùng, rút kiếm đâm bừa tới, kêu: “Được, hôm nay ngươi không chết thì ta vong!” nàng liệu rằng Phùng Anh không dám giết mình bởi vậy mới làm liều đâm tới.
Phùng Lâm cười ha hả, đột nhiên vọt người lên, thi triển tuyệt kỹ Miêu Ưng Phốc Kích đoạt thanh kiếm trong tay Dương Liễu Thanh, rồi bẻ gãy làm đôi ném xuống sơn cốc, cao giọng nói: “Này, ngươi nghe đây. Với bản lĩnh của ngươi, làm sao có thể giết ta. Ta cũng không muốn giết ngươi, nhưng nếu ngươi cứ ngang tàng như thế, ta sẽ dùng phi đao rạch mặt ngươi, đâm mù hai mắt của ngươi để ngươi mãi mãi làm một kẻ xấu xí. Ta nói được là làm được, ngươi hãy xem đây! Đao thứ nhất, ta đánh gãy đạn cung của ngươi!” rồi nàng vung đao, cây đạn cung của Dương Liễu Thanh gãy làm đôi, Phùng Lâm lại mắng: “Đao thứ hai, ta hớt đứt tóc của ngươi!” Dương Liễu Thanh vội vàng né tránh, chỉ cảm thấy một luồng gió lạnh lướt tới, đao quang lóe lên, chợt thấy trên đầu mát rượi, sờ đầu thì mái tóc trên đỉnh đã bị hớt một mảng, Phùng Lâm lại quát: “Nếu ngươi không đi nữa, đao thứ ba ta sẽ rạch mặt ngươi!” Dương Liễu Thanh nhất thời nổi giận, tuy không sợ chết nhưng sợ Phùng Lâm ra tay hủy dung nhan, khiến nàng chẳng thể nào gặp được ai nữa, bất giác kêu khổ một tiếng quay đầu tháo chạy.
Phùng Lâm trên Dương Liễu Thanh xong, đắc ý cười lớn rồi xuống suối rửa ráy mặt mày, chợt nghe có người nói bên tai: “Hừ, ta tưởng là ai? Té ra là ngươi!” Phùng Lâm giật mình, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy một Lạt ma mặc áo đỏ nhe răng cười với mình. Lúc này võ công của Phùng Lâm đã đến mức bất phàm, thế mà Lạt ma này có thể đến bên cạnh nàng một cách im ắng, nếu chẳng có bản lĩnh kinh người, sao có thể làm được điều đó.
Phùng Lâm rất lanh lẹ, nàng biết đã gặp kình địch nên bình tĩnh cười rằng: “Ngươi có phải là đại pháp sư trong hoàng cung không?” Lạt ma trợn mắt, cười nói: “Đúng là quý nhân dễ quên, may mà ta còn nhẫn nại chứ nếu không đã phế Thiên Sơn chưởng lực của ngươi!”
Phùng Lâm thầm nhủ: “Mình thường đem lại phiền phức cho tỉ tỉ, nhưng lần này tỉ tỉ đã đem phiền phức cho mình!” Lạt ma ấy định vung tay tóm nàng, Phùng Lâm chợt nhảy ra, nói: “Ta đang muốn trở về hoàng cung gặp Hoàng thượng, không cần ngươi đến đây khuyên, ngươi dám bắt ta? Ta sẽ nói với Hoàng thượng trách phạt ngươi”. Lạt ma ấy rụt tay về, nói: “Hay thật, Lâm quý nhân, ngươi chưa được sủng ái mà đã muốn cắn ta hay sao? Lần này dù ngươi có xảo quyệt như hồ ly cũng không thể thoát khỏi lòng bàn tay của ta. Nếu ngươi đã muốn gặp Hoàng thượng, vậy hãy đi mau”. Phùng Lâm nói: “Ngươi không thấy ta đang sửa san tóc tai hay sao?” rồi nàng ngồi xuống vóc nước gội đầu, Lạt ma áo đỏ đứng sau lưng nàng, đang nghĩ cách có nên dùng biện pháp mạnh với nàng không.
Phùng Lâm gội đầu xong, lại sửa san quần áo, nói: “Được thôi, ta đi theo ngươi”. Rồi nàng trở tay phóng ba mũi Đoạt Mệnh thần đao, khoảng cách lại gần, ra tay lại bất ngờ, Lạt ma áo đỏ cũng chỉ có thể né tránh được một mũi, còn hai mũi thì bắn trúng vào ngực của y.
Phùng Lâm vỗ tay cười nói: “Ngã này, ngã này!” nào ngờ hai mũi phi đao chạm vào người y lại phát ra keng một tiếng tựa như trúng phải sắt thép, rồi lại rơi xuống đất. Phùng Lâm cả kinh, hai tay vung ra, sáu mũi phi đao bay tới, Lạt ma áo đỏ chỉ che mắt, hớt được hai mũi bay vào mặt, còn bốn mũi chạm vào người y rơi xuống đất. Lạt ma cười lớn: “Phật gia có thân kim cương bất hoại, cần gì phải sợ mấy mũi phi đao của ngươi!” rồi bốc người lên, từ trên không bổ xuống, vung bàn tay to bề chụp vào đỉnh đầu của Phùng Lâm.
Lạt ma này chính là Ngạch Âm Hòa Bố, y cũng vâng lệnh bắt một khâm phạm rất quan trọng, nửa đường lại gặp bọn Huyết Trích Tử, bởi vậy y mới biết trong sơn cốc có một tiểu cô nương rất lợi hại, khi nghe thấy liền nghĩ, nếu có thể bắt Phùng Lâm sẽ khiến cho Hoàng đế càng vui lòng hơn.
Phùng Lâm dùng thuật Miêu Ưng Phốc Kích tránh hai trảo của y, Ngạch Âm Hòa Bố lại chụp tiếp trảo thứ ba, Phùng Lâm xoay người trên không trung, vẫy ra một đóa kiếm hoa đâm vào mắt của y!
Ngạch Âm Hòa Bố cúi đầu, hai chưởng chém xéo ra, chụp cổ tay của nàng, Phùng Lâm chém ngang thanh kiếm, quát: “Đi!” một năm qua nàng đã tu luyện nội công thượng thừa của phái Vô Cực, kình đạo của nhát kiếm này rất lớn, Ngạch Âm Hòa Bố tuy có công phu Kim chung tráo và Thiết bố sam, cũng không dám để nàng chém vào mạch môn, thế là hai chưởng thay đổi, lướt xéo ra hai bước, trở tay đánh ra một chưởng, quát: “Buông kiếm!” chưởng này quét ra kình phong nổi lên, Phùng Lâm thấy hổ khẩu đau nhói, thanh kiếm suýt nữa rơi xuống đất, thế là nàng vội vàng phóng người tháo chạy.
Ngạch Âm Hòa Bố thấy chưởng này không đánh rơi được binh khí của nàng, cũng rất lấy làm lạ, cười lạnh nói: “Ả nha đầu nhà ngươi cũng có chút bản lĩnh, nhưng muốn thoát khỏi bàn tay của Phật gia còn khó hơn cả lên trời!” rồi phóng vọt người lên, hai chưởng đẩy ngang ra, lần này kình đạo càng lớn hơn, chưởng phong mạnh hơn, Phùng Lâm bị một luồng lực dồn tới, vội vàng chòm người về phía trước, thuận theo chưởng thế của y, lướt ra thêm mấy trượng rồi ngã xuống!
Ngạch Âm Hòa Bố cười ha hả: “Mỹ nhân có bị thương không, để ta trị cho ngươi!” Phùng Lâm bật người dậy, vung hai mũi phi đao bắn vào hai mắt của y, Ngạch Âm Hòa Bố cả giận, giơ tay đánh rơi hai mũi phi đao, đang định đẩy ra chưởng thứ ba, chợt nghe có người quát: “Ai dám bức hiếp muội muội của ta!”
Ngạch Âm Hòa Bố nhìn lại, chỉ thấy trên sườn núi có một bóng trắng lướt đi như gió, trong chớp mắt một thiếu nữ đã đuổi tới, người đó chính là Phùng Anh, Ngạch Âm Hòa Bố thấy họ giống hệt nhau, bất giác sửng cả người.
Phùng Anh lướt tới đâm sào một kiếm vào cổ họng của Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố lách người trở tay chụp vào mạch môn của nàng, Phùng Anh xoay mũi kiếm, đâm vào huyệt Tam Nguyên ở sươn hông của y, Ngạch Âm Hòa Bố cả giận, tự phụ là thân kim cương bất hoại, không sợ đao kiếm, thế là hai chưởng hợp lại chụp vào vai của Phùng Anh. Y không ngờ thanh đoản kiếm trong tay Phùng Anh là bảo kiếm, thanh kiếm đâm thấu vào da thịt của y đến mấy tấc, Ngạch Âm Hòa Bố chỉ cảm thấy đau nhói, vội vàng vận công làm cho da thịt lõm vào, buộc mũi kiếm phải chùi ra, y vận kình trên chân, lực đạo của hai chưởng đương nhiên giảm xuống, Phùng Anh cũng thừa cơ thoát ra, chỉ cảm thấy vai đau nhói. May mà Ngạch Âm Hòa Bố không biết nàng có phải là người Hoàng đế muốn bắt hay không, không dám dùng hết mười phần lực, chứ nếu không xương tỳ bà đã bị y bóp nát.
Huyệt Tam Nguyên là một trong những tử huyệt của con người, Ngạch Âm Hòa Bố bị kiếm đâm trúng mà vẫn có thể nhảy nhót như bay, Phùng Anh cũng kinh hãi! Ngạch Âm Hòa Bố vận khí bế huyệt, nhưng vẫn không hết đau, y nổi giận, nói: “Dù ngươi là quý nhân hay tiện nhân, Phật gia cũng đưa ngươi về tây thiên”. Rồi y đứng yên chợt quát lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra, Phùng Lâm nói: “Tỉ tỉ cẩn thận!” Ngạch Âm Hòa Bố đã dùng hết mười thành lực trong chưởng này, chưởng phong tựa như sấm sét bổ tới. Phùng Anh quát: “Hay lắm!” rồi nàng lướt lên ba trượng, kình phong quét qua chân nàng mà nàng chẳng hề bị thương. Phùng Anh trên không trung thi chuyển tuyệt chiêu của Thiên Sơn kiếm pháp, đánh ra một chiêu Băng Hà Đảo Quải, luồng ngân quang túa ra chụp xuống.
Ngạch Âm Hòa Bố thất kinh, không dám dùng tay không đối địch, rút cây phất trần quét lên không trung chặn lại. Nhát kiếm này của Phùng Anh hiểm hóc lạ thường, nhưng không ngờ bị phất trần cuộn vào, chẳng thể nhả được lực ra, chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố lại cười ha hả, ngón tay điểm vào huyệt Thiên Tĩnh của nàng.
Phùng Lâm thấy tỉ tỉ nguy cấp, đã sớm xông tới trước, đâm sào một kiếm vào lưng của y, Ngạch Âm Hòa Bố trở tay đánh lại một đòn, Phùng Anh thu vai lại, né tránh hai chỉ của y, tay trái quét vào ngực của y, Ngạch Âm Hòa Bố thất kinh, vội vàng lách người né tránh để Phùng Anh rút kiếm ra.
Phùng Anh và Phùng Lâm tấn công liên tục. Chưởng lực của Ngạch Âm Hòa Bố tuy lợi hại nhưng phải vận khí mới phát chưởng được, mà hai kiếm lại tấn công liên tục khiến y không rãnh vận khí để phát chưởng. Nhưng cây phất trần của y là loại binh khí hiếm thấy trên võ lâm, có thể mềm có thể cứng, có thể đoạt đao kiếm, có thể phất vào huyệt đạo, Phùng Anh và Phùng Lâm đều không dám để cho y cuộn vào binh khí. Ngạch Âm Hòa Bố lướt người đánh sáp lá cà, hai tỉ muội truy hô ứng lẫn nhau nhưng cũng gặp nguy hiểm. May mà đánh một hồi, thân pháp của hai nàng đều xoay nhanh. Ngạch Âm Hòa Bố chẳng nhận ra ai là Phùng Lâm, ai là Phùng Anh, đương nhiên không phân biệt được ai đang cầm bảo kiếm, bởi vậy càng kiêng dè không dám tấn công mạnh. Y dùng cây phất trần chặn hai kiếm của hai người, thừa cơ tìm cách ra đòn sát thủ.
Đánh một hồi sau, trên núi lại có thêm một người, người đó chính là Lý Trị, chàng vốn tưởng Phùng Anh ra tay, cả hai tỉ muội liên thủ thì cường địch nào cũng chặn nỗi, không ngờ đánh một hồi mà chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố quét cây phất trần lợi hại vô cùng, cả hai nàng chỉ có thể chống đỡ.
Ngạch Âm Hòa Bố cười gằn nói: “Lại có thêm một tên, Phật gia chẳng thèm sợ ngươi”. Rồi cây phất trần quét ngang, đẩy đôi kiếm ra, cán phất trần chỉ thẳng về phía trước. Nhân lúc Lý Trị vừa mới đến, y đột nhiên điểm vào huyền cơ trước ngực của chàng, nào ngờ kiếm pháp của Lý Trị quái dị lạ thường, rõ ràng là chàng đâm kiếm về phía bên trái, trung lộ mở rộng, không ngờ đột nhiên thay đổi, kiếm lại xỉa về phía bên phải, kiếm thế thay đổi, bộ pháp cũng thay đổi, hư biến thành thực, thực biến thành hư, Ngạch Âm Hòa Bố không những chẳng điểm trúng huyệt đạo của chàng mà suýt nữa đã bị chàng đâm cho một kiếm. May mà y võ công cao cường, một chiêu bị đánh hụt, phương vị lập tức thay đổi mới có thể né tránh được tuyệt chiêu của Lý Trị.
Lúc này tình thế lại thay đổi, Lý Trị cùng Phùng Anh và Phùng Lâm với ba loại kiếm pháp thượng thừa trên đời, Ngạch Âm Hòa Bố đã bắt đầu kiêng dè. Hai bên có công có thủ, lại đấu nhau hơn một trăm chiêu nữa.
Nhưng sau khi Lý Trị nhảy vào vòng chiến, có lợi cũng có hại, lợi là vì ba kiếm liên thủ, hô ứng lẫn nhau, không lâu sau đã chiếm được thượng phong. Hại là vì sau một hồi quần thảo, Ngạch Âm Hòa Bố đã biết kiếm của Lý Trị không phải bảo kiếm, cho nên dùng kim cương chỉ lực chịu nỗi đau nhất thời, cướp binh khí của chàng. Tay phải y dùng phất trần, chặn hai thanh kiếm của hai tỉ muội, tay trái lại dùng thủ pháp Cầm Nã đánh sáp lá cà với Lý Trị.
Cả hai bên liên tục đánh ra những hiểm chiêu, thế nhưng vẫn khó phân thắng bại. Phùng Anh nôn nóng, chợt nhớ lại hôm đó mình gặp Dận Tự ở trong hắc lao, Dận Tự bảo mệnh môn của Ngạch Âm Hòa Bố là huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy, nhưng nàng không biết huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy là bộ phận nào trên cơ thể con người. Chợt nhớ võ công của muội muội rất phức tạp, đã học qua võ nghệ của các phái chính tà, vì thế đang lúc kịch đấu, chợt hỏi: “Muội muội, có biết huyệt Khảm Hỏa Ly Thủy không?”
Phùng Lâm trả lời: “Huyệt Khảm Hỏa nằm dưới sươn cùng ba tấc, huyệt Ly Thủy là mệnh căn của y!” số là huyệt Ly Thủy là bộ phận của thận nan người đàn ông.
Ngạch Âm Hòa Bố cả kinh, không biết tại sao hai tỉ muội có thể đọc tên các huyệt đạo bằng thuật ngữ của Lạt ma Hồng giáo; càng không hiểu tại sao họ biết yếu huyệt Mệnh Môn của mình. Lúc này Phùng Anh vẫn chưa biết là bộ phận nào nhưng giả vờ đã hiểu, kêu lên: “Được lắm, chúng ta đâm vào huyệt Mệnh Môn củay!”
Ngạch Âm Hòa Bố lạnh mình, với võ công của y, nếu lấy một địch một, dù gặp phải hảo thủ thuộc hàng nhất đẳng, mà đối phương lại biết được yếu huyệt Mệnh Môn của y, y vẫn có thể phòng vệ chu toàn, chẳng hề lo lắng. Nhưng giờ đây y lấy một địch ba, kiếm pháp của ba người lại thần diệu vô cùng, chỉ e nếu phòng ngự không kỹ càng, mạng sẽ ô hô.
Phùng Anh múa kiếm đâm tới, chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố dốc sức đỡ hai chiêu, giả vờ tấn công tới nhưng người có ý muốn lui ra. Phùng Anh cố ý để y chạy, nàng vừa lách người, Ngạch Âm Hòa Bố đã bỏ chạy. Phùng Anh thở phào, vẫn không đuổi theo.
Phùng Lâm cười nói: “Tỉ tỉ, tỉ làm sao biết võ công của tà phái?” Phùng Anh mới kể lại lời của Dận Tự. Sau một hồi kịch chiến, ba người ngồi xuống nghỉ ngơi, Phùng Lâm hỏi: “Đường thúc thúc của tỉ đâu?” Phùng Anh nói: “May mà đã được Lý ca ca của muội chữa khỏi”. Phùng Lâm lại kể cho Phùng Anh nghe chuyện mình đã chơi khâm Dương Liễu Thanh. Phùng Anh nghe xong mặt biến sắc, Phùng Lâm thất kinh hỏi: “Chả lẽ muội đã làm sai chuyện gì?” Phùng Anh thở dài: “Muội muội, muội quá nghịch ngợm, thế là đã hỏng mọi chuyện!”
Chính là:
Thiếu nữ thật chẳng hiểu việc đời, phi đao cấp tốc chuốc phiền to.
Muốn biết sau đó thế nào, mời sang hồi sau sẽ rõ.