Giới luật chẳng giữ thiền sư vào nẻo mê
Để giấy giải thích đồng tử lộng quyền mưu
Lữ Tứ Nương và Bành Vân Ấn nhảy bổ vào nhau nhanh như điện chớp, thế đánh cực kỳ hung mãnh, thế mà bị người ta tách ra đều không khỏi kinh ngạc. Lữ Tứ Nương vọt ngang ba bước, thu kiếm lại nhìn thì thấy có một hòa thượng gầy ốm mình mặc tăng bào màu trắng, chân mang giày cỏ, cổ tay đeo một vòng tràng hạc, hai mắt không nộ mà oai, dáng bộ trông vững vàng.
Dịch Lan Châu đánh lùi bọn Liễu Ân, Cáp Bố Đà và Thiên Diệp Tản Nhân, chợt thấy có một hòa thượng từ trên cao vọt xuống, một tay kéo Lữ Tứ Nương ra ngoài, bất đồ cả kinh, giơ ngang kiếm định nhảy tới, chợt nghe hòa thượng quát: “Vương Tôn Nhất, ngươi còn chưa ngoan ngoãn theo ta về núi?” Dịch Lan Châu nghe thế chưng hửng, chỉ nghe Vương Tôn Nhất lớn giọng nói: “Sư thúc từ xa tới đây, tiểu điệt không kịp nghênh đón, mong sư thúc ở đây nghỉ ngơi mấy ngày, tiểu điệt đang có việc, tạm thời không thể trở về núi được!” hòa thượng ấy chỉ tay gằng giọng mắng: “Trước mặt ta mà ngươi còn giả vờ giả vịt? Ngươi làm đầy chuyện ác, không theo ta về núi, chả lẽ buộc ta phải xuống tay?” Dịch Lan Châu thấy rất kỳ lạ, bước tới mấy bước, hòa thượng ấy chắp tay làm một lễ, khiêm nhường nói: “Dịch nữ hiệp xin thứ cho tội vô lễ, tiểu tăng là giám tự của Thiếu Lâm Tung Sơn, Thiếu Lâm bất hạnh có đồ đệ hạ tiện, không những đã phiền lụy đến sư môn mà khiến Dịch nữ hiệp mất công ra tay, chùa Thiếu Lâm chúng tôi rất ái ngại! Hôm nay tôi đến đây áp giải hắn về núi, trừng trị theo quy củ, nếu Dịch nữ hiệp và các vị bằng hữu chịu nể mặt, xin mời đến chùa Thiếu Lâm Tung Sơn nghỉ ngơi vài ngày, Thiếu Lâm chúng tôi quyết không bao che cho đồ đệ, nữ hiệp có thể làm chứng!”
Dịch Lan Châu vốn nghi ngờ Vương Tôn Nhất là con em hoàng tộc, Ngư Xác thế thì không khỏi bất ngờ. Chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, môn đồ có khắp trong cả nước, thanh thế rất lớn, các phái khác không sao bì kịp. Trụ trì trước đây của chùa Thiếu Lâm, Bản Không đại sư là cao tăng hữu đạo được bốn phương kính ngưỡng, nếu Vương Tôn Nhất là người trong hoàng tộc, chắc chắn y không thể là môn hạ của Thiếu Lâm. Thế rồi bà mới cung tay nói: “Dám hỏi đại sư và Bản Không trụ trì xưng hô thế nào?” hòa thượng ấy đáp: “Bản Không đại sư là sư huynh của bần tăng, năm ngoái người đã không may viên tịch. Tên phản đồ này chính là đệ tử tục gia của người. Trụ trì hiện nay là Tam sư đệ Vô Trú thiền sư”. Dịch Lan Châu nói: “Vậy đại sư chính là Bản Vô?” hòa thượng ấy đáp: “Tôi và Lăng đại hiệp có duyên gặp mặt một mình, tôi đã sớm muốn lên Thiên Sơn gặp gỡ nữ hiệp, chỉ vì đường sá xa xôi, trong chùa có nhiều việc của cần phải giải quyết bởi vậy mới không đi được. Lần này mạo phạm nữ hiệp, thật là hổ thẹn!”
Dịch Lan Châu cũng thầm kêu “hổ thẹn” bởi vì thể nhớ nổi ông ta là ai. Bản Vô thiền sư tinh thông Thiếu Lâm thần quyền, công lực chẳng kém Bản Không. Luận về vai vế, ông ta bằng vai phải lứa với Dịch Lan Châu.
Bọn Liễu Ân hòa thượng, Thiên Diệp Tản Nhân và Cáp Bố Đà tung mình thối lui ra sau, bảo vệ cho Vương Tôn Nhất. Bản Vô đại sư chắp tay chào Thiên Diệp Tản Nhân, lên tiếng rằng: “Thiên Diệp đạo huynh, bần tăng đã nghe đại danh từ lâu. Không biết tại sao đạo huynh lại bao che cho phản đồ?” Liễu Ân quát: “Bản Vô đại sư, sao ông không ở Tung Sơn tu hành mà lo chuyện bao đồng thế?” Bản Vô đại sư quét cây phất trần, lớn giọng nói: “Vị này chắc là Liễu Ân đại sư đứng đầu Giang Nam bát hiệp, nghe nói gần đây đại sư xung phong đắc ý, được Tứ bối lạc mời mọc, lại được phong làm Bảo quốc thiền sư. Bần tăng chỉ là kẻ tiểu dân ở chốn sơn dã, không dám qua lại với người cao sang, bần tăng tuy có một chút giao tình với Độc tý thần ni nhưng môn hộ khác nhau, bần tăng chính vì không thèm lo chuyện bao đồng nên tuy là cố hữu của thần ni, nhưng cũng không muốn xen vào chuyện trong môn phái của bà ta, tôi nghĩ chắc sẽ có người ra mặt. Không biết tại sao đại sư lại trách tôi là lắm chuyện?” Bản Vô đại sư chỉ biết Liễu Ân nhận lời mời của Tứ bối lạc chứ không biết Thiên Diệp Tản Nhân cũng cùng một giuộc. Những câu nói vừa rồi là ngầm mỉa mai, rõ ràng biết Liễu Ân vẫn là đại đệ tử của Độc tý thần ni thế mà không nhắc đến, bởi vậy còn lợi hại hơn là mắng thẳng vào mặt Liễu Ân!
Không những Liễu Ân thẹn quá hóa giận, Thiên Diệp Tản Nhân cũng đỏ mặt. Liễu Ân vung cây thiền trượng, nạt lớn: “Lão lừa trọc Bản Vô kia, ta kính lão là bậc trưởng bối nên mới tốt bụng khuyên lão, lão tưởng ta sợ lão đấy hử?” Bản Vô cười lạnh nói: “Bần tăng tuổi già sức yếu, làm sao dám ngang ngược bá đạo như bọn tiểu bối hậu sinh? Tôi đã nghe lời quốc sư không dám nhiều chuyện nữa, nhưng Vương Tôn Nhất là sư điệt của tôi, tôi phải quản giáo y! Tôi cũng khuyên quốc sư không nên xen vào chuyện của phái Thiếu Lâm chúng tôi! Nếu quốc sư nhất định phải làm thế, xin mời quốc sư hẹn anh hùng thiên hạ đến núi Tung Sơn ban dạy!” Liễu Ân gầm một tiếng, đánh cây thiền trượng to như miệng bát ra, Bản Vô đại sư quét cây phất trần, cuộn cây thiền trượng, với một người có thần lực như Liễu Ân mà vẫn bị ông ta chặn lại! Đang bị biến chiêu chợt nghe Vương Tôn Nhất vẫn lạnh lùng nói: “Sư thúc cứ nhắc mãi đến môn quy, không biết điều thứ mười ba trong môn quy Thiếu Lâm là gì?” Bản Vô đại sư chưng hửng, té ra là điều thứ mười ba là nếu môn hạ Thiếu Lâm bị hiểu lầm phạm vào thanh quy đại giới thì được phép biện bạch. Nếu không phục đối với những lời phán xét của giám tự thì có thể mời nhân chứng đến Tung Sơn lý luận. Thời hạn nhiều nhất là một tháng. Chùa Thiếu Lâm đưa ra điều này là sợ có người bị oan khuất, dám tự phán xét sai lầm.
Vương Tôn Nhất vừa nói ra câu ấy, Bản Vô thiền sư buông lỏng tay phải, thu phất trần trở về, trừng mắt nói: “Ta tận mắt thấy đồng đảng của ngươi bắt cóc thiếu nữ dâng lên cho ngươi, ngươi là chủ mưu, chả lẽ ta vu oan cho ngươi?” Vương Tôn Nhất vẫn bình thản mỉm cười!
Bản Vô đại sư thấy y chẳng nói chẳng rằng, mặt biến sắc: “Nếu ngươi muốn biện bạch, ta cho ngươi một tháng để ngươi mới nhân chứng lên Tung Sơn! Ngươi đừng hòng dựa dẫm vào người khác chạy tội!” Vương Tôn Nhất kiêu ngạo nói: “Tại sao tiểu điệt phải chạy? Một tháng sau tiểu điệt sẽ đến Tung Sơn!” Bản Vô đại sư thấy y ung dung như thế, chẳng hề có ý khiếp sợ, trong lòng thấy kỳ lạ! Thầm nhủ nếu chẳng phải ông ta chính mắt thấy, chắc chắn chẳng dám tin y là kẻ chủ mưu vụ án thái hoa này. Bề ngoài y vừa nho nhã vừa uy võ, mặt mày đàng tử tế, ai ngờ y lại làm ra chuyện hạ tiện như thế này.
Thế rồi Bản Vô đại sư lại nói với Dịch Lan Châu: “Đến lúc đó xin mời Dịch nữ hiệp và các vị bằng hữu lên Tung Sơn làm chứng”. Dịch Lan Châu cười nói: “Hai người này là sư đệ và sư muội của Liễu Ân, Bạch Thái Quan và Lữ Tứ Nương”. Bản Vô đại sư nói: “Vậy thì càng tốt! Chúng ta đi!” lúc này bên ngoài người đông nghìn nghịt, Tuần phủ Sơn Đông Điền Văn Kính đích thân dẫn quân lính bao vây tòa lầu, Vương Tôn Nhất phẫy tay, Cáp Bố Đà chạy ra ngoài một hồi, Vương Tôn Nhất nói: “Sư thúc, xin thứ cho tiểu điệt không thể đưa tiễn!” Bản Vô nhìn ra ngoài, chỉ thấy bọn lính đã rút đi chẳng còn một mống, cười lạnh nói: “Té ra ngươi còn cấu kết với bọn Thát Đát, là quý khách của khâm sai đại nhân!” Vương Tôn Nhất kiêu hãnh nói: “Mong sư thúc cứ ghi nợ cho tiểu điệt, muốn giết muốn mổ đến lúc đó xin mời chủ trì và tiền bối võ lâm phán tội!” Bản Vô đại sư tức đến nghẹn họng, chạy ra bên ngoài. Dịch Lan Châu ngại Vương Tôn Nhất là của phái Thiếu Lâm, vả lại Bản Vô đã ra mặt, đương nhiên bà cũng đành buông tay.
Năm người quay trở lại Huyền Diệu quán, Bản Vô đại sư lại xin lỗi Dịch Lan Châu. Hai ngày sau Bản Vô đại sư quay trở về Tung Sơn, Bạch Thái Quan mời Lữ Tứ Nương đi thăm Cam Phụng Trì, định rằng lên Mang Sơn tảo mộ sư phụ trước rồi mới đến Tung Sơn.
Dịch Lan Châu tính toán lộ trình, Sơn Đông và Tế Nam nằm kề nhau, từ Thanh Đảo đến Tung Sơn, với cước trình của bà và Đường Hiểu Lan trễ nhất nửa tháng sẽ tới. Nên Dịch Lan Châu bảo Đường Hiểu Lan lưu lại trong Huyền Diệu quán, trước tiên truyền thuật thổ nạp nội công cho chàng, Đường Hiểu Lan theo Dương Trọng Anh năm năm, học được nội công chính tông, đã có căn cơ, lại được Dịch Lan Châu chỉ điểm yếu quyết, bởi vậy mới càng học dễ dàng hơn.
Sau nửa tháng, hai người Đường, Dịch từ Thanh Đảo xuống miền Nam, đi ngang qua Lâm Tri rồi lại đến Tây Triết, từ Khúc Phụ xuống Tế Ninh, vào huyện Thương Khâu của tỉnh Hà Nam, đi được mấy ngày đã đến Tung Sơn. Chỉ thấy chùa Thiếu Lâm nguy nga to lớn, quả nhiên không hổ là thánh địa võ học trong võ lâm. Vào cửa chùa đã có người đợi sẵn dắt vào tri khách đường, đi ngang qua Đại Hùng bảo điện tiến vào La Hán đường, Bản Vô đại sư đích thân nghênh đón. Thế rồi Bản Vô dắt Dịch Lan Châu đến gặp trụ trì mới của chùa Thiếu Lâm là Vô Trú thiền sư, Vô Trú thiền sư sắc mặt hiền từ, vừa nhìn đã biết là cao tăng hữu đạo. Vô Trú tuy là sư đệ của Bản Vô nhưng cũng dày công nghiên cứu Phật kinh, võ công tuy không bằng sư huynh nhưng đạo đức tu hành có thể nói thuộc hàng đệ nhất trong chùa nên mới trở thành trụ trì. Nhưng sở trường của Vô Trú thiền sư cũng là sở đoản của ông ta, ông ta cố gắng thanh tu, không hỏi việc đời, tuy không cho phép môn đồ qua lại với quan phủ, nhưng cũng không khích lệ họ đối chọi với quan phủ. Ông ta chỉ cần tiêu giao hóa ngoại, hoàng dương Phật pháp, cho rằng cầu chính quả mới là pháp môn duy nhất.
Lại nói sau khi Đường Hiểu Lan vào chùa Thiếu Lâm, đã có tri khách tăng dắt chàng vào thiền phòng nghỉ ngơi. Căn thiền phòng này nằm bên cạnh La Hán đường, trong đường có ngọn đèn lưu ly lớn, treo trên đỉnh, tim đèn to như miệng bát, phát ra ánh sáng rực rỡ, trên bàn thờ còn có cây đèn cầy to như cánh tay, tim đèn ló lên cao đến hơn nửa thước, Đường Hiểu Lan ngồi trên giường không biết bao lâu, chỉ cảm thấy xung quanh yên ắng. Đường Hiểu Lan thầm nhủ, chùa Thiếu Lâm quả nhiên danh đồn không ngoa, nghe Bạch Thái Quan nói, trong chùa có ba mươi sáu tòa điện, hơn năm trăm nhà sư, nhưng màn đêm buông xuống lại thanh tịnh như thế này, đúng là một ngôi chùa giới luật nghiêm ngặt. Chàng đang suy nghĩ, chợt nghe bên ngoài có âm thanh rất nhỏ, Đường Hiểu Lan khẽ khàng bước xuống giường, đưa mắt nhìn ra khe cửa, chỉ thấy ở đại đường có một đứa trẻ khoảng mười ba mười bốn tuổi đi chân không, tóc buộc bằng vòng vàng, trên hai cánh tay trắng buốt cũng buộc hai vòng vàng, huơ chân múa tay trong tòa đại đường, lúc thì miệng lẩm nhẩm, lúc thì ngửa mặt cười lớn trông rất kỳ quái! Đường Hiểu Lan rất ngạc nhiên, không hiểu sao trong một ngôi chùa trang nghiêm thế này mà xuất hiện một đứa trẻ, mà La Hán đường chỉ quan trọng kém Đại Hùng bảo điện, tại sao các nhà sư trong chùa lại để cho một đứa trẻ nghịch ngợm vào đây?
Một hồi sau vẫn không thấy ai bước ra, Đường Hiểu Lan nhất thời hiếu kỳ, chàng mở then cửa định bước ra ngoài, chợt thấy trước mắt hoa lên, trên mái La Hán đường chợt có một người hạ xuống, đứa trẻ mỉm cười với người ấy, người ấy đưa tay ra, đưa trẻ móc ra một cái bọc ném về phía y, người ấy vươn tay chụp lấy, y quay đầu lại, Đường Hiểu Lan mới nhìn ra đó là Thiên Diệp Tản Nhân. Đường Hiểu Lan đang kéo then cửa vội vàng cài lại. Thiên Diệp Tản Nhân hú lên một tiếng quái dị, đứa trẻ chợt quát: “Có người đến!” Thiên Diệp Tản Nhân vỗ ra một chưởng, cánh cửa thiền phòng tựa như trúng một nhát chùy sắt, đột nhiên bật ra, Đường Hiểu Lan ngã phịch xuống đất!
Đường Hiểu Lan bật người vọt dậy, chỉ thấy xung quanh La Hán đường đã xuất hiện bốn tăng nhân đứng sừng sững, Đường Hiểu Lan nhận ra một người trong số họ chính là Ngộ Hư thiền sư, tri khách tăng đã dắt chàng vào chùa. Ngộ Hư thiền sư lên tiếng hỏi: “Này, ngươi ở đâu tới? La Hán đường trong chùa Thiếu Lâm há để cho ngươi làm càn?” Thiên Diệp Tản Nhân cười ha hả: “Mời trụ trì Vô Trú thiền sư ra đây nói chuyện!” bốn hòa thượng đồng thời nạt lớn: “Trụ trì của bọn ta đâu dễ gặp hạng vô danh như ngươi”. Thiên Diệp Tản Nhân cười rộ lên, lớn giọng nói: “Cả ta mà các ngươi cũng chẳng biết, đúng là mất mặt Thiếu Lâm!” rồi ưỡn ngực ngạo mạn nói: “Các ngươi không kêu trụ trì ra, chả lẽ ta không biết đi tìm y?” bốn nhà sư liền xông tới, bao vây Thiên Diệp Tản Nhân vào ở giữa. Thiên Diệp Tản Nhân lại cười lạnh, ra tay như điện chớp, chỉ thấy hai tay y vung lên, hai nhà sư té soài ra ngoài, hai người kia cũng loạng choạng thối lui mấy bước. Chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân lợi hại lạ thường, may mà bốn nhà sư đều là cao thủ trong lớp đệ tử thứ hai của chùa Thiếu Lâm, chứ nếu không đã chẳng chống nổi. Thiên Diệp Tản Nhân đắc ý dương dương, đang định xông về phía trước, chợt ở phía Đông đại đường có một bóng người lướt tới, Thiên Diệp Tản Nhân định quay trở lại, vai đã bị người ấy vỗ xuống một cái, người ấy trầm giọng nói bên tai: “A di đà Phật!” Thiên Diệp Tản Nhân hoảng hồn nhảy thối lui ba bước.
Thiên Diệp Tản Nhân tay trái hộ trước ngực, mũi chân xoay một cái, quay đầu lại thì thấy có một nhà sư mặt mũi hiền từ, nhà sư chắp tay nói: “A di đà Phật, Thiên Diệp Tản Nhân từ muôn dặm đến đây, không biết có gì chỉ giáo?” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Xin hỏi pháp hiệu của đại sư?” nhà sư đáp rằng: “Lão nạp chính là người Tản nhân muốn tìm!” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Vô Trú thiền sư quả nhiên danh đồn không ngoa, đúng là một cao tăng khiêm nhường hữu đạo. Có điều bốn vị tăng nhân vừa rồi thật là vô lễ!” Vô Trú thiền sư cười rằng: “Bọn chúng làm sao biết Tản nhân đến đây, chúng chỉ tưởng là cuồng đồ trên giang hồ! Nếu lão nạp không nhận ra Linh sơn chưởng pháp của Tản nhân, cũng tưởng Tản nhân là hạng đầu trộm đuôi cướp. Mong Tản nhân bớt giận, bần tăng xin chịu tội!” những câu nói vừa rồi có cả cứng lẫn mềm, bề ngoài là xin lỗi nhưng thực sự trách Thiên Diệp Tản Nhân coi thường quy củ của chùa Thiếu Lâm xông vào chốn thiền viện. Phái Linh Sơn của Thiên Diệp Tản Nhân và phái Thiếu Lâm tuy cách xa muôn dặm, chẳng liên quan với nhau nhưng Linh Sơn thượng nhân, sư phụ của Thiên Diệp Tản Nhân đã từng đến nghe sư phụ của Vô Trú giảng kinh vào năm mươi năm trước ở chùa Thiếu Lâm, từng bái lễ “bán sư”, nên nếu luận về vai vế, Thiên Diệp Tản Nhân thấp hơn Vô Trú thiền sư nửa bậc. Bởi vậy Thiên Diệp Tản Nhân xong vào chùa Thiếu Lâm là điều không đúng, thế mà Vô Trú thiền sư vẫn nhún nhường, Thiên Diệp Tản Nhân đành phải thu lại vẻ cuồng ngạo của mình, thế rồi cung tay nói: “Lệnh sư điệt Vương Tôn Nhất đạo đức hay võ công đều lừng lẫy giang hồ. Quý giám tự Bản Vô đại sư không biết điều đó nên gán tội danh cho y, ta nửa đời nhàn rỗi nhưng cũng thấy không vừa mắt. Ngày mai lệnh sư điệt đến Tung Sơn xin tội, ta và vài vị tiền bối võ lâm cũng muốn đến chùa Thiếu Lâm xem thử trái phải!” té ra theo quy củ võ lâm, một phái thanh lý môn hộ, người khác không được can thiệp vào. Nhưng nếu người bị gán tội không phục, thì có thể mời tôn sư của phái khác lên tiếng hộ. Có điều những chuyện như thế này trăm năm khó gặp một lần.
Vô Trú thiền sư kêu ồ một tiếng, vẫn bình tĩnh nói: “Hơn một ngàn năm qua chùa Thiếu Lâm chúng tôi đều giữ giới luật, tuyệt không bao che cho môn đồ, cũng không xử oan cho môn đồ. Nếu Thiên Diệp Tản Nhân và các bậc tiền bối trong võ lâm chịu đến đây, bần tăng thật vinh hạnh!” Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Đắc tội!” rồi xoay lưng định bỏ đi, chợt ở cửa họng xuất hiện một người, người ấy chắp tay nói: “Thiên Diệp Tản Nhân từ xa đến đây, xin thứ chúng tôi không thể tiễn!” Thiên Diệp Tản Nhân chợt thấy kình phòng quét tới, thế là chắp tay trả lại một vái nhưng chẳng chịu nổi luồng kình phong ấy, bất đồ thối lui ra cửa đường! Thiên Diệp Tản Nhân xưa nay lấy làm kiêu hãnh vì chưởng lực của mình, không ngờ chẳng địch nổi người này, khi định thần nhìn lại, té ra đó là Bản Vô đại sư, y vội vàng lên tiếng: “Đã nhường!” thế rồi chẳng nói chẳng rằng phóng thẳng xuống núi.
Đứa trẻ ban nãy từ đầu đến cuối vẫn lắng nghe Thiên Diệp Tản Nhân và Vô Trú thiền sư đối đáp. Vô Trú thiền sư đuổi Thiên Diệp Tản Nhân, bước tới vuốt tóc nó, âu yếm hỏi: “Con có bị thương không?” Đứa trẻ trả lời: “Không có!” Bản Vô đại sư nói: “Thế thì không sao! Con hãy quay về nghỉ ngơi, hôm nay không cần luyện công, sư phụ đang đợi con đấy”. Đứa trẻ vâng một tiếng, quay vào hậu đường. Đường Hiểu Lan vốn muốn hỏi lai lịch của đứa trẻ, nhưng chàng mới tới, vai vế lại thấp, bởi vậy không tiện hỏi, chỉ đành giữ trong lòng rồi đi ngủ. Chàng nghe văng vẳng bên ngoài có tiếng của Bản Vô thiền sư, ông ta tựa như đang cãi cọ với Vô Trú thiền sư.
Sau khi Thiên Diệp Tản Nhân rút lui, Vô Trú thiền sư và Bản Vô thiền sư cùng vào Sơ tổ am. Sơ tổ am là nơi kỷ niệm Đạt Ma thiền sư. Truyền thuyết kể rằng Đạt Ma thiền sư từ Ấn Độ đến Trung Hoa vào thời Lương Võ đế, đạp trên một cành trúc mà qua sông, đến đỉnh Thiếu Thất diện bích mười năm, khai lập Thiền Tông nên gọi là Sơ tổ. Khi chùa Thiếu Lâm cử hành đại sự, những người đứng đầu trong chùa vào Sơ tổ am bàn bạc. Vô Trú thiền sư ngồi xuống mỉm cười nói: “Đến nay sư huynh vẫn còn nóng tánh, sao đêm nay cớ gì phải làm khó người ta?” Bản Vô đại sư cười nói: “Ta không muốn thành Phật, đâu học được công phu nín nhịn như sư đệ. Thiên Diệp Tản Nhân biết rõ bổn tự là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm mà vẫn xông vào, không cho y biết lợi hại, y tưởng rằng chùa Thiếu Lâm chúng ta dễ bức hiếp”. Vô Trú thiền sư nói: “Y muốn ra mặt cho Vương Tôn Nhất theo quy củ võ lâm, ngày mai mới đến kỳ hạn, y đến sớm một đêm thông báo cũng không mất lễ nghĩa lắm, bởi vậy không nên trách y!” Bản Vô đại sư nói: “Khi ta bắt Vương Tôn Nhất ở Thanh Đảo, đã biết có nhiều cao thủ võ lâm giúp đỡ cho y, không ngờ Thiên Diệp Tản Nhân cũng trong số đó. Nếu Vương Tôn Nhất đã phóng túng như thế, ngày mai chúng ta phế đi là xong!”
Vô Trú thiền sư cuối đầu suy nghĩ một lúc lâu mới khẽ nói: “Sư huynh, việc này không bình thường!” Bản Vô thiền sư nói: “Không ngờ đồ đệ mà đại sư huynh chúng ta thương yêu nhất lại ra nông nỗi như thế!” sư huynh của Bản Vô là Bản Không vốn là trụ trì tiền nhiệm của chùa Thiếu Lâm, uy vọng trên võ lâm hơn hai vị sư đệ của mình rất nhiều nên người trên giang hồ nhắc đến Thiếu Lâm, chín phần chỉ biết Bản Không chứ không biết Vô Trú. Năm xưa chính Liễu Ân đã giới thiệu Vương Tôn Nhất, lúc đó Bản Vô đã nghi ngờ lai lịch của Vương Tôn Nhất, khuyên sư huynh không nên nhận y. nhưng Bản Không thấy Vương Tôn Nhất tướng mạo phi phàm, thông minh khác thường, chẳng những không nghe lời sư đệ mà còn truyền hết bản lĩnh cho y.
Vô Trú nói: “Đệ bảo chuyện này không bình thường, không phải chỉ vì Vương Tôn Nhất là ái đồ của sư huynh chúng ta, mà bởi vì tại sao nhiều cao thủ võ lâm chống lưng cho y?” Bản Vô thiền sư im lặng không nói, Vô Trú lại lên tiếng: “Dù Vương Tôn Nhất võ công cao cường nhưng y xuất sư được bao nhiêu năm có tài đức gì mà khiến tôn sư của một phái như Thiên Diệp Tản Nhân mà cũng phải khâm phục sát đất. Lại còn có tên hung tăng Liễu Ân, kẻ đứng đầu Giang Nam bát hiệp, xưa nay chẳng coi ai ra gì mà chịu làm bảo tiêu cho y?” Bản Vô thiền sư trầm ngâm một lúc, chợt kéo dài giọng nói: “Chả lẽ y...” Vô Trú thiền sư mặt trắng bệt, cắt lời: “Chúng ta đừng tùy tiện suy đoán, để rồi xem! Có điều đệ có một lời khuyên, sư huynh tính tình nóng nảy, nói không chừng ngày mai có liên quan đến kiếp số của Thiếu Lâm, sư huynh phải ráng nín nhịn”. Bản Vô thiền sư nổi cáu nói: “Sư đệ, đệ là trụ trì của bổn tự, đệ nói gì huynh sẽ nghe nấy”. Vô Trú thiền sư mỉm cười đứng dậy, nói: “Huynh đệ chúng ta sao lại còn nói đến lời đó? Sư huynh, huynh đừng đa tâm!” rồi hai sư huynh đệ dắt nhau ra khỏi am đường, nhìn ba mươi sáu tòa điện tắm mình trong ánh trăng, Vô Trú thiền sư chợt thở dài nói: “Cầu xin Phật tổ từ bi phù hộ, cơ nghiệp này không thể hủy trong tay của đệ!”
Sáng sớm hôm sau, Đại Hùng bảo điện trong chùa Thiếu Lâm khói hương nghi ngút, tượng Đạt Ma sư tổ đặt ở giữa, đợi cử hành một nghi thức không bình thường.
Đường Hiểu Lan với thân phận là người làm chứng cũng được mời đến, có điều chàng là kẻ vẫn bối, không được những cao tăng tiếp đãi như Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan, chỗ ngồi cũng khác hẳn. Người tiếp đãi chàng chính là tri khách tăng Ngộ Hư, Đường Hiểu Lan đã thức dậy từ sớm, Ngộ Hư mời chàng đi tắm rửa chờ đợi, xong xuôi Ngộ Hư dắt chàng ra khỏi thiền phòng, chỉ thấy hai hàng tăng nhân đứng thẳng tắp, ai nấy mặc tăng y mới tinh, rồi họ bước vào Đại Hùng bảo điện, năm trăm tăng nhân đã đứng vào vị trí, Đại Hùng bảo điện trang nghiêm lạ thường, hầu như có thể nghe cả tiếng thở. Hai hàng tăng nhân tư lễ tay gõ văn bản, âm thanh du dương vọng xuống. Đường Hiểu Lan ngồi ở ghế khách thứ mười ba mé Tây, khoảng nguội một chén trà, chợt chuông trống vang rền, ở nơi nguyệt môn khói hương bốc lên nghi ngút, trong làn khói có ba người bước vào, đó chính là chủ trì Vô Trú thiền sư, giám tự Bản Vô thiền sư và quý khách của chùa Thiếu Lâm Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan và Lữ Tứ Nương đi theo sau, Vô Trú thiền sư đến trước tượng Lạt ma sư tổ, ngồi xếp bằng trên tấm nệm màu vàng, Bản Vô thiền sư ngồi trên chiếc bồ đoàn bên phải, ba người Dịch Lan Châu, Bạch Thái Quan, Lữ Tứ Nương ngồi ở ghế bên phải. Các cao tăng của Lạt ma đường, La Hán đường, Chưởng kinh đường đều mặc cà sa, cung kính chắp tay thi lễ với Vô Trú thiền sư. Vô Trú thiền sư mặt nghiêm nghị, sau khi hành lễ trước tượng Lạt ma sư tổ, cất giọng nói: “Chùa Thiếu Lâm Tung Sơn đã có hơn một ngàn ba trăm năm, giới luật nghiêm ngặt nổi tiếng thiên hạ. Lão nạp vô đức, mới tiếp nhiệm Chưởng môn, không may có môn nhân của bổn tự là Vương Tôn Nhất vi phạm thanh quy, đi ngược đại giới, có hành vi thái hoa ở Thanh Đảo, bị Bản Vô đại sư phát hiện, lẽ ra lập tức bắt về núi trừng trị nhưng Vương Tôn Nhất không phục, yêu cầu phải đối chất với giám tự, đồng thời mời trưởng lão của phái khác cùng lý luận. Việc này liên quan đến vinh nhục của Thiếu Lâm, lát nữa sẽ tra rõ ngọn ngành. Các tăng nhân trong chùa phải lấy đây làm điều tự răn”. Rất nhiều nhà sư chưa biết chuyện này, bởi vậy trong nhất thời xì xồ bàn tán, chùa Thiếu Lâm có thái hoa tặc quả là chuyện chưa bao giờ có.
Bản Vô đại sư nói: “Chưởng môn Phương trượng, nếu sau khi tra rõ ngọn ngành, Vương Tôn Nhất quả nhiên có tội, nhưng trưởng lão của phái khác ra mặt bao che thì thế nào?” Vô Trú thiền sư nói: “Nếu có việc này chúng ta chỉ đành khuyên họ rồi trừng trị phản đồ”. Bản Vô đại sư nói: “Nếu họ không chịu thì thế nào?” Vô Trú thiền sư nổi cáu nói: “Không thể vô lý như thế!” Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường nói: “Hành vi thái hoa tội không thể tha, nếu có kẻ bên ngoài cậy mạnh bao che, toàn bộ tăng nhân trong chùa đều có trách nhiệm hộ phách!” chủ trì Chưởng kinh đường là người chấp chưởng truyền kinh giới luật của các đời, Bản Vô đại sư chính là muốn ép ông ta nói ra điều này. Vô Trú thiền sư nhíu mày, sắc mặt nặng nề.
Vừa đến giờ ngọ, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Sao Vương Tôn Nhất vẫn chưa xuất hiện, chả lẽ y không dám tới?” chợt bên ngoài có tiếng khánh vang lên, ở nơi cửa chùa, Vương Tôn Nhất cùng một đám người nghênh ngang bước vào Đại Hùng bảo điện. Những kẻ ấy chính là Liễu Ân hòa thượng, Thiên Diệp Tản Nhân, Cáp Bố Đà và Thần Ma song lão, ngoài ra còn có hai người, Đường Hiểu Lan không nhận ra, khẽ hỏi Ngộ Tính thì mới biết một người chính là cự khấu nổi tiếng miền Tây bắc tên gọi Cam Thiên Long, còn một người là trưởng lão của phái Hình Ý tên gọi Đổng Cự Xuyên, cũng là một nhân vật có tiếng tăm trên giang hồ.
Vương Tôn Nhất vừa bước vào đại điện, đã hành lễ với Vô Trú thiền sư, Vô Trú thiền sư nói: “Ngươi muốn ngồi ở chỗ đợi tội hay ở ghế thân biện, tùy ngươi chọn lựa!” số là theo quy củ võ lâm, khi xảy ra chuyện không tầm thường, môn đồ bị hạch tội nếu ngồi trên ghế đợi tội sẽ cho thấy mình từ đầu đến cuối vẫn theo bổn phái, chấp nhận tội danh, cầu mong đồng môn tha thứ. Nếu ngồi ở ghế thân biện, có nghĩa là tự mình tách rời khỏi môn phái, biện luận bằng vai phải lứa với Chưởng môn của bổn phái. Nếu làm thế dù kết quả thế nào cũng đã thoát ly khỏi môn phái. Vương Tôn Nhất ngẩng đầu lên nhìn, ghế thân biện và ghế của khách khứa đặt sát nhau, y không chần chừ mà bước thẳng tới ngồi xuống ghế thân biện. Bọn Liễu Ân, Thiên Diệp Tản Nhân cũng tuần tự ngồi xuống ở các ghế bên trái.
Mọi người ngồi xong, Vô Trú thiền sư nói lại một lượt giới luật của Thiếu Lâm, rồi cao giọng nói: “Bản Vô sư huynh, huynh là nguyên cáo, mời huynh thuật lại những hành vi của Vương Tôn Nhất cho mọi người cùng nghe”. Bản Vô đại sư đứng dậy nói: “Tháng trước ta phụng lệnh của Phương trượng đến Sơn Đông xem xét các môn đồ Thiếu Lâm, trong thời gian ở lại Thanh Đảo, nhiều vụ án thái hoa đã xảy ra, liên tiếp có mười hai thiếu nữ bị thái hoa tặc bắt cóc, sau khi ta tra xét, đã chứng thực là hành vi của Vương Tôn Nhất!” Vương Tôn Nhất cười lạnh nói: “Nếu ông thấy tôi thái hoa, tại sao không bắt ngay tại trận?” Bản Vô đại sư nói: “Không phải ngươi đích thân thái hoa nhưng chính là chủ mưu”. Ông ta hơi ngừng lại một chốc rồi nói: “Vương Tôn Nhất không chỉ phạm đại tôi thái hoa mà còn a dua theo quan lại triều đình. Y ở trong phủ khâm sai, nửa đêm sai người bắt cóc thiếu nữ, dùng phủ khâm sai làm sào huyệt thái hoa!” Vương Tôn Nhất lại cười lạnh: “Ở trong phủ khâm sai cũng có tội sao?” Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường đứng dậy nói: “Chùa Thiếu Lâm chúng ta nhiều đời đã truyền, chỉ giữ thanh quy không màng đến triều chính. Ở trong phủ khâm sai không tính là có tội nhưng bắt cóc thiếu nữ chính là đại tội. Xin các vị đừng nói lan man sang chuyện khác, chỉ nói rốt cuộc Vương Tôn Nhất có sai khiến đồng đảng bắt cóc thiếu nữ cho y hay không mà thôi”. Hoằng Pháp nói như thế khiến Bản Vô cũng thấy hơi lúng túng. Số là nhiều đời phái Thiếu Lâm tương truyền, tuy không màng đến triều chính, nhưng từ sau khi nhà Minh sụp đổ, dị tộc xâm lăng, các nhà sư đều không xu phụ người Mãn, và mặc nhiên giúp đỡ các chí sĩ của triều Minh, Bản Vô cũng từng đề nghị đưa việc phản Minh phục Thanh vào tự quy nhưng Vô Trú thiền sư thấy việc này quan hệ quá lớn nên không chấp nhận. Trong lòng Bản Vô đại sư, xu phụ người Mãn còn đáng phỉ nhổ hơn cả tội thái hoa nên trong nhất thời mới trách cứ phản đồ, không nhớ rằng trong tự quy không có điều này.
Vương Tôn Nhất cãi rằng: “Ông nói tôi chủ mưu thái hoa, có gì làm bằng chứng?” Dịch Lan Châu đứng phắt dậy: “Ta làm chứng!” rồi chỉ Cáp Bố Đà và Cam Thiên Long: “Ta thấy hai người này bắt cóc thiếu nữ dâng cho Vương Tôn Nhất”. Rồi kể lại tình hình đêm ấy. Các nhà sư đều kinh hãi!
Vô Trú thiền sư nghiêm mặt nói: “Dịch nữ hiệp là truyền nhân duy nhất của Thiên Sơn kiếm, vai vế cao nhất trong chốn võ lâm, bà ta tuyệt không vu oan cho bọn tiểu bối, không biết nhà ngươi còn có thể nói gì nữa?”
Vương Tôn Nhất đứng dậy nói: “Có phải lúc nãy Hoằng Pháp đại sư của Chưởng kinh đường bảo rằng bổn tự từ xưa đến nay không màng đến chuyện triều đình không?” Vô Trú thiền sư nói: “Việc thái hoa có liên quan gì đến triều đình? Ta chỉ hỏi ngươi, Dịch nữ hiệp nói đúng hay sai?” Vương Tôn Nhất hiên ngang nói: “Đúng thế!” lập tức trong chùa xôn xao, Hoằng Pháp đại sư cao giọng nói: “Theo giới điều của tổ sư, kẻ phạm tội thái hoa phải bị thiêu sống!”
Vô Trú thiền sư dập đầu ba cái trước tượng Lạt ma tổ sư, từ từ đứng dậy, trầm giọng quát: “Nghịch đồ Thiếu Lâm Vương Tôn Nhất sai khiến thái hoa, bắt cóc thiếu nữ, tội chứng đã rõ rành rành, sau khi được trụ trì Chưởng kinh đường tra xét giới điều rõ ràng, thấy rằng tội đáng xử tử, hôm nay lập tức chấp hành!” rồi phất tay một cái, bốn tăng nhân của Đạt Ma viện rời chỗ ngồi bước ra. Dịch Lan Châu và Bản Vô đưa mắt nhìn Liễu Ân hòa thượng và Thiên Diệp Tản Nhân, sợ rằng y giúp Vương Tôn Nhất. Nào ngờ bảy tên cao thủ đi cùng Vương Tôn Nhất vẫn ngồi yên chẳng hề nhúc nhích.
Bốn tăng nhân chưởng hình chậm rãi bước tới, Đại Hùng bảo điện chợt im ắng lạ thường, năm trăm tăng nhân nín thở chờ đợi, Vương Tôn Nhất đứng phắt dậy, cười lạnh quát: “Ai dám bắt ta?” rồi y cởi áo ngoài, trên ngực áo trong có thêu hình con rồng vàng năm móng, bốn bên có ngọc mắt mèo sáng chói, bốn tăng nhân chưởng hình bất đồ đứng lại, chỉ nghe Cáp Bố Đà quát: “Đây là Tứ bối lạc, các ngươi sao không quỳ xuống?”
Té ra Vương Tôn Nhất chính là tên giả của Dận Trinh, y lập tâm cướp đoạt ngôi vua nên vi phục xuất cung kết giao với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, còn mình cũng vào trong phái Thiếu Lâm học võ công trong vòng ba năm.
Năm ngoái Dận Trinh trở về Bắc Kinh, vâng lệnh phụ hoàng thành hôn cùng Nữu Cô Lộc thị, Nữu Cô Lộc thị dung mạo tầm thường, không được Dận Trinh thương yêu. Khi Dận Trinh xuất trinh mới chợt nghĩ rằng, trong cung tuy cứ mỗi vài ba năm chọn tú nữ một lần, nhưng nhà giàu có vì hạnh phúc suốt đời của con cái thường bỏ tiền bạc mua chuộc người trong phủ nội vụ, gạch tên con cái của họ, dù thiếu nữ nhà nghèo vừa nghe đến đợt chọn tú nữ cũng vội vàng lấy chồng hoặc trốn tránh, nên mỗi lần chọn tú nữ tuy có hơn ngàn người nhưng người xinh đẹp cực ít, Khang Hy có nhiều con trai, khi phân đi các vương phủ càng không hợp ý. Dận Trinh thầm nhủ: “Trong tay mình có nhiều người tài, sao không bảo bọn chúng tìm thiếu nữ xinh đẹp cho mình để khỏi chọn lựa phiền phức bởi vậy mới gây ra những vụ án thái hoa ở Thanh Đảo”.
Không ai ngờ đến chuyện này, Vương Tôn Nhất là bối lạc đã đủ lạ, mà bối lạc lại làm chuyện thái hoa lại càng không thể tưởng tượng nổi. Trong khoảng sát na, Đại Hùng bảo điện rộn lên tiếng bàn tán ồn ào, Bản Vô đại sư mặt nổi gân xanh, chợt quát lớn: “Bối lạc phạm pháp cũng trị tội như thứ dân!” Dận Trinh lớn giọng nói: “Tất cả mọi thứ trong gầm trời này đều là của nhà ta. Ta muốn bắt vài thiếu nữ dân gian để khỏi phiền phức lựa chọn thiếu nữ, đó cũng là việc công, làm sao nói ta phạm pháp? Dù ta phạm pháp cũng có phủ tông nhân, chùa Thiếu Lâm chẳng có quyền gì quản ta!”
Dận Trinh miệng lưỡi lanh lẹ, chỉ mấy câu đã khiến Bản Vô đại sư cứng họng. Các tăng nhân trong chùa đều phẫn nộ. Hoằng Pháp đại sư chợt lớn giọng nói: “Ta chỉ biết ngươi là Vương Tôn Nhất môn đồ của phái Thiếu Lâm chứ không biết Tứ bối lạc gì cả. Ở đây không có phủ tông nhân, chỉ có môn quy của phái Thiếu Lâm!” Bản Vô đại sư được ông ta nhắc nhở, lạnh lùng nói: “Triều đình có quốc pháp, Thiếu Lâm cũng có môn quy, ngươi là môn đồ của Thiếu Lâm, dù cho ngươi là đương kim Hoàng đế cũng phải trừng trị theo quy củ giang hồ!” Liễu Ân quát lớn: “Phản rồi! Phản rồi!”
Thiên Diệp Tản Nhân đứng dậy nói: “Tuy nói các phái trong võ lâm đều có môn quy, nhưng việc này không phải tầm thường, phải xử lý quyền nghi. Tứ bối lạc chọn thiếu nữ trong dân gian làm sao có thể tính là thái hoa! Tự quy của Thiếu Lâm tuy nghiêm ngặt nhưng cũng phải tuân theo quốc pháp!” Vô Trú thiền sư im lặng không nói, Bản Vô đại sư trợn tròn mắt, quát lớn: “Nếu chùa Thiếu Lâm e sợ kẻ quyền quý, từ rày về sau làm sao có thể lãnh tụ võ lâm? Chuyện hôm nay chính là khảo nghiệm cho phái Thiếu Lâm chúng ta! Chùa Thiếu Lâm có môn đồ như thế chính là nỗi nhục, Chưởng hình tăng nhân, hãy bắt Vương Tôn Nhất!” Thiên Diệp Tản Nhân nhảy ra khỏi chỗ, lạnh lùng nói: “Chùa Thiếu Lâm có quy mô như thế thật không dễ dàng. Bản Vô đại sư không chịu nghe lời tốt chỉ muốn làm theo ý mình, chẳng lẽ không màng đến tâm huyết của tổ sư các đời, muốn hủy cơ nghiệp trăm năm trong một ngày sao?” y nói ra câu ấy, Vô Trú thiền sư và trưởng lão Lạt ma việc đều không khỏi chần chừ, có một số tăng nhân trẻ tuổi càng phẫn nộ hơn, năm trăm tăng nhân bàn tán ồn ào, vô hình trung đã chia thành hai phái, một phái tuy tức giận nhưng vì muốn giữ vững cơ nghiệp của chùa Thiếu Lâm, nên chủ trưởng xử lý khoan dung, không hỏi tội danh. Còn một phái kia thì cứng rắn thà hủy chùa vong thân cũng phải giữ danh dự cho chùa Thiếu Lâm.
Vô Trú thiền sư niệm một tiếng Phật hiệu, lớn giọng nói: “Các vị võ lâm tiền bối và mọi người hãy tạm thời im lặng. Chuyện hôm nay chẳng phải tầm thường, lão nạp cũng không dám tự tiện làm chủ. Xin mời chủ trì ba đường và trưởng lão Đạt Ma viện theo lão nạp đến Sơ tổ am bẩm cáo tổ sư, bàn bạc rồi sẽ tuyên bố. Xin mời các vị khách đợi một lát”. Rồi cùng mười hai nhà sư bước vào trong bàn bạc. Năm trăm tăng đồ cũng giới bị nghiêm ngặt. Dù Dận Trinh gan lớn bằng trời cũng phải hơi run sợ.
Bọn Vô Trú thiền sư lui ra một lúc khá lâu mà vẫn không thấy quay lại, Đường Hiểu Lan đưa mắt nhìn, chợt thấy một bóng người dợm chân bước vào nhưng lại quay ra, Thần Ma song lão chợt đứng dậy thò đầu nhìn ra ngoài, bóng người ấy chợt biến mất, nhưng trông rất quan mắt. Các nhà sư thấy Thần Ma song lão đứng dậy cũng chạy tới bao vây, Thần Ma song lão tiu nghỉu ngồi xuống. Trong lúc hỗn loạn, có một đứa trẻ bước vào nội điện, đó chính là đứa trẻ kỳ mà Đường Hiểu Lan đã gặp. Đường Hiểu Lan bất đồ bước gần tới vài bước, nghe một tăng nhân cười nói: “Canh Nghiêu, ngươi cũng muốn ra xem náo nhiệt ư? Sư phụ của ngươi sao không đến?” Đường Hiểu Lan giật mình, thầm nhủ: “Hình như mình đã nghe cái tên Canh Nghiêu này ở đâu đó!” đứa trẻ mỉm cười, nói: “Làm sao ta biết?” Đường Hiểu Lan định bước tới gần, Vô Trú thiền sư đã cùng mười hai cao tăng bước ra trở lại.
Vô Trú thiền sư rất cẩn thận già dặn, vốn không muốn gây phiền phức, bàn bạc một hồi mới nói: “Thiên Diệp Tản Nhân tuy có ý uy hiếp, nhưng nếu cơ nghiệp của Thiếu Lâm sụp đổ trong lúc này, chúng ta làm sao có thể ăn nói với tổ sư các đời?” Hoằng Pháp đại sư chợt nói: “Trụ trì, xin hỏi từ ngày Thiếu Lâm dựng nghiệp đã trải qua bao nhiêu năm?” Vô Trú thiền sư ngạc nhiên nói: “Sao huynh lại hỏi tôi? Thiếu Lâm Tung Sơn đã trải qua hơn một ngàn ba trăm năm, tăng nhân trong chùa ai mà không biết?” Hoằng Pháp đại sư nói: “Đúng thế! Thử hỏi một ngàn ba trăm năm qua, bao nhiêu triều đại đã thay đổi? Cái uy của bậc đế vương chỉ được nhất thời chứ không thể đến trăm đời. Triều đại có thể đổi nhưng tự quy của Thiếu Lâm chúng ta không thể thay, chả lẽ danh dự ngàn năm của chùa Thiếu Lâm chúng ta không thể so với một bối lạc hay sao?” Bản Vô đại sư cũng nói: “Hoằng Pháp nói có lý, nếu hôm nay chúng ta không chấp hành giới quy của tổ sư, dù chùa Thiếu Lâm có còn tồn tại nhưng danh dự đã tiêu tan, chẳng qua chỉ có danh còn mà thực sự đã mất. Nếu chúng ta kiên quyết trừng trị, giữ vững tôn nghiêm của chùa Thiếu Lâm, chùa Thiếu Lâm tuy danh mắt mà thực còn, mãi mãi là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, chúng ta phải có cái nhìn lâu dài. Sư đệ, đệ là chủ trì, cần phải kiên quyết mạnh dạn, dựng nghiệp tuy khó khăn, nhưng chùa bị hủy có thể xây dựng lại, người mất nhưng tuyệt kỹ có thể truyền lại. Với tiếng tăm và tinh thần đã vun bồi hàng ngàn năm qua, một khi hư hỏng sẽ không thể khôi phục được nữa”. Vô Trú thiền sư nhắm mắt trầm tư một lúc rất lâu mới thở dài đứng phắt dậy, cùng mọi người bước ra khỏi Sơ tổ am đi thẳng vào Đại Hùng bảo điện. Mọi người thấy ông ta sắc mặt nặng nề, không biết ông ta quyết định như thế nào, chẳng ai dám lên tiếng hỏi.
Vô Trú thiền sư bước vào điện, tăng nhân chấp sự lập tức khua chiêng gõ trống, tất cả mọi người đều im lặng, Hoằng Pháp đại sư chắp tay hỏi: “Vương Tôn Nhất có tội hay không?” Vô Trú thiền sư trầm giọng đáp: “Có tội!” bọn người đi theo Dận Trinh đều biến sắc. Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Mong được nghe lý lẽ của chủ trì!” Vô Trú thiền sư nói: “Vương Tôn Nhất tuy là hoàng tộc nhưng khi y vào chùa Thiếu Lâm lại lấy thân phận của người bình thường. Bản Không đại sư là sư phụ của y, không phải là giáo đầu trong cung của y. Thiếu Lâm là một phái trong võ lâm, môn đồ phạm vào đại giới thái hoa, cần phải xử phạt theo giới luật!”
Bốn nhà sư chưởng hình nói: “Lãnh chỉ!” rồi thong thả bước tới, Liễu Ân và Cáp Bố Đà đứng hai bên Dận Trinh, các tăng nhân chưởng hình tựa như chẳng hề nhìn thấy, vẻ mặt vẫn rất nghiêm nghị, tiếp tục tiến về phía trước. Dận Trinh chợt quát: “Hãy thong thả!” Vô Trú thiền sư nói: “Ngươi có gì muốn nói?” Dận Trinh lấy ra một tờ giấy, lớn giọng nói: “Sau khi ta nhập môn đã từng nói rõ thân phận với Bản Không sư phụ, ngày ta ra khỏi chùa, ông ta đã viết giấy nói rõ ràng, Chưởng môn Phương trượng, hãy xem rồi sẽ rõ”. Cáp Bố Đà cầm lấy tờ giấy đưa cho Vô Trú thiền sư. Vô Trú thiền sư đọc xong sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc, cúi đầu không nói. Bản Vô và Hoằng Pháp vội vàng ghé đầu qua xem, xem xong Bản Vô nổi cáu: “Bản Không sư huynh của ta tuyệt không phải là người như thế. Tờ giấy này chỉ là giả”. Té ra trên tờ giấy viết rằng: “Bản Không chủ môn Phương trượng đời thứ bốn mươi sáu của chùa Thiếu Lâm, báo cho Phương trượng đời sau biết, đệ tử đời thứ bốn mươi tám Vương Tôn Nhất là bối lạc Dận Trinh, mến danh của chùa Thiếu Lâm ta, không nề gian khổ vào chùa học võ công để sau này ra sức cho triều đình, hoàng dương võ nghệ của chùa Thiếu Lâm ta, mong làm hộ pháp, giữ vững trang nghiêm. Thiếu Lâm may mắn nên mới được bối lạc ghé đến, theo nghĩa quân thần, theo quy củ võ lâm, Dận Trinh là đệ tử của Thiếu Lâm, nhưng bỏ đi danh sư đồ, Dận Trinh vào chùa, cho phép miễn lễ quỳ bái đối với trưởng bối, không chịu ức thúc bởi giới luật của Thiếu Lâm. Giấy này do Dận Trinh cất giữ, sau khi ta viên tịch sẽ truyền cho Phương trượng đời tiếp theo. Bản Không dự”.
Bản Vô nhủ: “Bản Không sư huynh là người ngày thẳng, tuy thanh tu nhưng trong lòng vẫn mong nhớ Hán thất, nếu biết y là hòang tử chắc chắn đã chẳng chịu thu nhận là học trò. Dù thu nhận y là học trò, khi viên tịch cũng phải nói với chúng ta. Mảnh giấy này tuyệt đối là giả!” Vô Trú thiền sư lại nghĩ: “Sư huynh vì giữ cơ nghiệp, chắc là cũng vì bất đắc dĩ nên mới thu nhận Dận Trinh. Chuyện này là đại cơ mật, nên ông ta mới không nói cho chúng ta biết”. Hai người suy nghĩ khác nhau, Bản Vô trong lòng bồn chồn, Vô Trú lại im lặng không nói.
Dận Trinh cười lạnh: “Giám tự bảo tờ giấy này là giả, xin hỏi chủ trì, có phải đây là bút tích của Bản Không đại sư hay không?” Bản Vô cướp lời: “Bút tích không đủ làm bằng, ngươi có người làm chứng hay không?”
Nói chưa dứt lời, chợt giọng nói trẻ con vang lên: “Ta đến đây làm chứng!” đứa trẻ ấy chợt nhảy ra, Hoằng Pháp quát: “Niên Canh Nghiêu, ngươi còn nhỏ biết gì, không được nói càn”. Đường Hiểu Lan chợt nhớ ra, bằng hữu của có thể là Chung Vạn Đường đã từng nói, ông ta thâu nhận được một đứa trẻ nghịch ngợm nhất trên đời làm học trò, họ tên là Niên Canh Nghiêu, chả lẽ là đứa trẻ này? Tại sao đột nhiên nó lại xuất hiện ở chùa Thiếu Lâm, mà lại không thấy Chung Vạn Đường? Đường Hiểu Lan không biết rằng, Chung Vạn Đường vốn cũng ở trong chùa, té ra Chung Vạn Đường là đồ tôn của Phó Thanh Chủ, Phó Thanh Chủ và sư phụ của Bản Không, tức là Phương trượng đời thứ bốn mươi sáu của chùa Thiếu Lâm Thống Thiền thượng nhân giao tình rất tốt, nên hậu bối của họ cũng quen biết nhau, cứ mỗi một hai năm Chung Vạn Đường đều đến chùa Thiếu Lâm ở mấy tháng. Niên Canh Nghiêu ở huyện Trần Lưu tỉnh Hà Nam, cách Tung Sơn không xa, Chung Vạn Đường rất yêu thương Niên Canh Nghiêu nên cũng dắt nó lên núi du ngoạn. Thiếu Lâm tam lão Bản Không, Bản Vô, Vô Trú thấy Niên Canh Nghiêu thông minh tuyệt đỉnh, nghe một hiểu mười, bởi vậy cũng rất yêu thương nó, nhất là Bản Không phương trượng càng coi nó như bảo bối, thường giữ nó trong phòng truyền dạy võ công. Đêm qua Đường Hiểu Lan huơ chân múa tay trong La Hán đường chính là lúc nó đang luyện La Hán Phục Hổ quyền. Sau khi Bản Không chết đi, Niên Canh Nghiêu vẫn thường lên núi, lần này nó và Chung Vạn Đường đã được hơn một tháng.
Chung Vạn Đường không phải là người làm chứng nên Vô Trú thiền sư không mời ông ta. Sau đó Đại Hùng bảo điện ồn ào, Niên Canh Nghiêu không kìm được, đòi Chung Vạn Đường dắt tới, đứng bên ngoài điện quan sát, không ngờ Chung Vạn Đường vừa nhìn vào đã thấy Thần Ma song lão. Mười năm này, Chung Vạn Đường mai danh ẩn tích, trốn chạy khắp nơi, chính là vị sợ Thần Ma song lão, vì thế ông ta mới vội vàng tránh mặt, còn Niên Canh Nghiêu thì đã lẩn vào trong chùa.
Niên Canh Nghiêu nghe Hoằng Pháp quát như thế, cười hì hì nói: “Làm sao tôi không biết? Tôi biết Vương Tôn Nhất chính là Tứ bối lạc, Bản Không đại sư đã từng nói với tôi, khi người viết thư, tôi cũng ngồi bên cạnh! Người căn dặn tôi đừng nói ra, tôi mới kìm nén mấy năm nay. Lúc đó tôi vì hiếu kỳ, đứng một bên xem nên vẫn còn nhớ mảnh giấy viết gì!” Bản Vô và Vô Trú biết nó có bản lĩnh vừa nhìn đã nhớ ngay. Thế rồi Vô Trú nói: “Trẻ con không được nói càn, ngươi hãy đọc lại cho ta nghe”. Niên Canh Nghiêu đọc lớn một lần, quả nhiên chẳng sai một chữ, Bản Vô nghe thế chẳng nói gì, Niên Canh Nghiêu đọc xong rồi lại nói: “Hai ngày trước khi Bản Không đại sư qua đời, còn viết thư để lại cho tôi, bảo rằng nếu có việc gì lớn hãy đi tìm vị sư huynh bối lạc này. Trụ trì, mời ông hãy xem”. Rồi lấy ra một phong thư, Bản Vô ghé đầu qua xem, thấy nét chữ trên bì thư quả nhiên là của Bản Không. Bản Vô thở dài: “Thôi đi! Thôi đi!” rồi tiu nghỉu ngồi xuống, các nhà sư trong chùa chạy tới, Vương Tôn Nhất hiên ngang đứng dậy, chào Vô Trú thiền sư rồi xông ra ngoài. Bản Vô chợt quát lớn: “Ngươi còn muốn chạy?”
Chính là:
Phật môn Sư Tử Hống, trẻ con trêu thiền sư.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
Dốc hết tâm sức danh sư bị mưu hại
Lòng dạ ác độc hoàng thất có kiêu hùng
Dận Trinh ngạo mạn hỏi: “Thế nào?” Bản Vô đại sư quát: “Ngươi đã mời người ngoài lý luận cho, vậy từ rày về sau ngươi có còn là đệ tử của chùa Thiếu Lâm nữa không?” nếu theo quy củ võ lâm, sau trận này, Dận Trinh đã thoát ly môn hộ, đi theo phái khác. Dận Trinh nói: “Phải thì thế nào, không phải thì thế nào?” Bản Vô đại sư cười lạnh nói: “Nếu ngươi đã không phải là đệ tử của Thiếu Lâm, vậy hãy trả lại võ nghệ của Thiếu Lâm!” rồi vung chỉ điểm tới vai của Dận Trinh. Đó là tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm tên gọi Thiết chỉ thiền, chỉ cần bị ông ta điểm trúng, võ công sẽ hoàn toàn mất hết. Cam Thiên Long và Đổng Cự Xuyên đều ra tay, chỉ thấy chưởng phong quét tới, bóng người thấp thoáng, hai người Đổng, Cam lách vai thối lui bảy tám bước. Dận Trinh biết Bản Vô rất nóng nảy, nếu chọc giận ông ta thì ông ta sẽ làm liều, thế rồi vàng kêu lên: “Đương nhiên tôi vẫn là đệ tử của Thiếu Lâm, sư phụ đã viết rất rõ ràng, chỉ bỏ danh nghĩa sư đồ, vẫn coi tôi là đệ tử của Thiếu Lâm!” Vô Trú thiền sư vội vàng bước tới nói: “Sư huynh, cứ để cho hắn đi thôi”. Bản Vô vẫn quát: “Đã là đệ tử của Thiếu Lâm, tại sao vô lễ với trưởng bối?” Dận Trinh vội vàng cúi người thi lễ, Bản Vô đại sư trừng mắt, Dận Trinh thấy hai chân mềm nhũn, bất đồ quỳ xuống đất, đang định dập đầu, Liễu Ân, Cáp Bố Đà biến sắc, vội vàng chạy tới đỡ, Dận Trinh đã lộ thân phận, bối lạc làm sao có thể quỳ trước thứ dân. Vô Trú thiền sư quét cây phất trần lên vai kéo y dậy, mỉm cười nói: “Phương trượng đời trước đã miễn lễ quỳ bái cho ngươi, vậy ngươi cứ tùy tiện”. Dận Trinh nghe thế, vội vàng lui ra cửa.
Sau một hồi rối loạn, Lữ Tứ Nương chợt nói: “Đường Hiểu Lan đâu?” Dịch Lan Châu đưa mắt nhìn xung quanh quả nhiên không thấy, ngạc nhiên nói: “Không biết thằng bé này lại đi đâu rồi?” Vô Trú thiền sư cũng hỏi: “Chung sư phụ đâu?” các nhà sư trong chùa tìm một lượt rồi quay về báo: “Chung sư phụ đã biến mất!” Lữ Tứ Nương hỏi: “Chung sư phụ là ai?” Bản Vô đại sư đáp: “Chính là Chung Vạn Đường truyền nhân của Vô Cực kiếm”. Dịch Lan Châu kêu ồ một tiếng: “Y là sư điệt của tôi. Năm xưa tôi và Phó Thanh Chủ đã từng đến Hồi Cương, không biết sao y lại ở đây?” Vô Trú thiền sư đáp: “Y dạy học ở Trần Lưu, đứa trẻ vừa rồi chính là đồ đệ của y”. Dịch Lan Châu nói: “Đứa trẻ này thật lợi hại, vậy hắn tên gì?” Bản Vô đại sư nói: “Niên Canh Nghiêu”. Rồi nhíu mày hỏi: “Còn Niên Canh Nghiêu đâu?” các nhà sư trả lời: “Niên Canh Nghiêu đã chạy ra ngoài”. Bản Vô đại sư ngạc nhiên nói: “Sao thầy trò họ không từ mà biệt?” Dịch Lan Châu giật mình, nhưng im lặng không nói.
Lại nói Chung Vạn Đường chợt gặp Thần Ma song lão nên vội vàng bỏ trốn về Trần Lưu. Cha của Niên Canh Nghiêu là Niên Hà Linh là cự phú ở một phương, hoa viên rất lớn, có tường cao bao quanh, Chung Vạn Đường nhảy vọt vào trong vườn, thấy bốn bên không có người vội vàng lẻn về phòng mình, lão bọc Đinh Phúc vẫn chưa ngủ say, trong phòng có đứa bé gái bảy tám tuổi cực kỳ lanh lẹ, nghe tiếng động nên mở mắt, kéo Chung Vạn Đường lại hỏi: “Chung bá bá, người đã trở về rôi ư? Canh Nghiêu ca ca đâu? Con nhớ hai người đến khổ!” Chung Vạn Đường vội khẽ nói: “Lâm nhi, im nào! Vào phòng rồi nói!”
Đứa trẻ này chính là Phùng Lâm. Trong đêm tròn tuổi, cô bé đã được Chung Vạn Đường cứu ra, dắt đến nhà họ Niên ở được hơn sáu năm, giờ đây đã là một bé gái tám tuổi. Chung Vạn Đường tinh thông y thuật, mỗi ngày đều dùng thuốc nước tắm rửa, truyền võ nghệ, bởi vậy xương cốt cô bé cứng cáp, tai thính mắt tinh, tay chân lanh lẹ, học được môn Đồng tử công chính tông. Lúc này, cô bé thấy Chung Vạn Đường lo lắng, mở to mắt hỏi: “Bá bá, chuyện gì đã xảy ra?” Chung Vạn Đường nói: “Có người xấu đến, lát nữa ta đánh nhau với người xấu, dù thắng hay thua, nếu kẻ xấu chưa đi con không được ra ngoài”. Phùng Lâm mò xuống gối lấy ra hai thanh tiểu đao dài ba tấc, nói: “Nếu có kẻ xấu, con sẽ đánh y”. Chung Vạn Đường mặt biến sắc, trầm giọng nói: “Con không nghe lời bá bá, từ rày về sau bá bá không màng đến con”. Phùng Lâm chưa bao giờ thấy ông ta nổi cáu, nghe thế nước mắt rân rấn, Chung Vạn Đường khẽ nói bên tai: “Ngoan ngoãn nào, đừng lên tiếng”. Rồi đẩy cô bé vào phòng. Trong mắt Phùng Lâm chứa đầy vẻ nghi hoặc và thắc mắc, cô bé mở to mắt nhìn Chung Vạn Đường, Chung Vạn Đường nghiêng tai lắng nghe, thở dài rồi chợt kéo Phùng Lâm ra, khẽ nói: “Vốn là ta chưa muốn cho con biết lai lịch quá sớm, giờ đây buộc phải nói cho con nghe. Con vốn không phải họ Niên, con họ Phùng. Cha của con đã chết rất thảm thiết, còn mẹ của con thì sống chết chưa biết, con còn một...” nói chưa dứt lời, trong đêm tối chợt vọng lại một tiếng hú quái dị, Chung Vạn Đường hoảng sợ đến nỗi im lặng, đẩy Phùng Lâm vào trong phòng.
Âm thanh quái dị ấy xé không trung từ xa vọng tới. Chung Vạn Đường nai nịt cẩn thận, đã nghe bên ngoài cửa có giọng nói trầm trầm: “Chung Vạn Đường, sao ngươi còn chưa ra?” Chung Vạn Đường cười lạnh, chợt rút then cài cửa, phóng hai mũi phi đao ra, nấp sau cánh cửa. Bên ngoài có một tiếng cười lạnh, phi đao bây ngược trở vào cắm trên vách tường, Bát Tý Thần Ma Tát Thiên Thích và Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đã nhảy vào phòng.
Tát Thiên Thích cười ha hả: “Gần hai mươi năm xa cách, không ngờ hôm nay gặp lại”. Chung Vạn Đường trầm giọng nói: “Chung mỗ chờ đợi đã lâu, ở đây không thể thi triển võ công, xin mời ra vườn hoa”. Tát Thiên Thích cười một tiếng quái dị, quát: “Ngươi còn muốn chọn chỗ chết?” rồi hai tay vung lên, mười móng tay dài cả thước bật ra như mười mũi đao đâm thẳng vào Chung Vạn Đường. Chung Vạn Đường xoay người né tránh, cây kiếm thép chặn lên phía trên, rồi quét vào eo của kẻ địch. Tát Thiên Thích tung người lộn ra cửa, quát rằng: “Chiêu này cũng không tệ, tiếp nào!” Chung Vạn Đường thấy đêm nay khó thoát, nên cũng đánh liều phóng vọt ra cửa sổ. Tát Thiên Đô gầm lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra một chiêu Bài Sơn Đảo Hải, chưởng phong mười phần mạnh mẽ, Chung Vạn Đường đẩy thanh kiếm về phía trước, tay trái điểm vào huyệt Quan Nguyên của Tát Thiên Đô. Tát Thiên Đô cười nói: “Ta sợ ngươi điểm huyệt?” rồi chưởng trái biến thành quyền, vẫn tiếp tục bổ xuống, nào ngờ Chung Vạn Đường hai mươi năm khổ luyện, công lực đã tăng tiến rất nhiều, huyệt Quan Nguyên là một trong ba mươi sáu đại huyệt, Tát Thiên Đô bị ông ta điểm một cái, chợt thấy đau nhói, quyền phong hạ xuống lực đã mất, kiếm chiêu của Chung Vạn Đường rất nhanh nhạy, lập tức vặt mũi kiếm vào mặt Tát Thiên Đô.
Thân pháp của Tát Thiên Thích rất nhanh, thấy em trai gặp nguy thì lập tức nhảy vọt tới như tên bắn, tay trái kéo Tát Thiên Đô ra, tay phải vạch vào mạch môn tay cầm kiếm của Chung Vạn Đường. Hai người đều nhanh như lửa xẹt, Chung Vạn Đường thấy không thể đả thương được kẻ địch, lập tức thâu thanh kiếm về, hộ ở trước thân, nhảy ngang ra năm sáu bước. Tát Thiên Thích vỗ vào huyệt Khí Du của Tát Thiên Đô, nói: “Đệ đệ, nghỉ ngơi một lát, đừng nôn nóng”. Tát Thiên Đô bị Chung Vạn Đường điểm trúng, may mà y đã luyện mình đồng da sắt, chứ nếu không đã mất mạng ngay tại trận. Thế rồi cũng không dám làm hung, ngồi dựa vào vách tường điều hòa hơi thở hành huyết giải huyệt.
Chung Vạn Đường đả thương được một người, không còn nguy hiểm nữa, cây kiếm thép múa lên như điện chớp, đâm soạt soạt liên tục, Tát Thiên Thích tung mình vọt một cái phóng lên trên không trung, lướt ra hơn hai trượng, Chung Vạn Đường gằng giọng quát: “Chạy đi đâu!” rồi vung kiếm đuổi theo. Nào ngờ đó chính là thuật Miêu Ưng Phốc Kích của Tát Thiên Thích, y lập tức lộn người trên không trung, mười móng tay nhọn từ trên không đâm xuống, chỉ nghe soạt một tiếng, ống tay áo của Tát Thiên Thích bị Chung Vạn Đường chém trúng, vai trái của Chung Vạn Đường đã bị trúng một trảo, may mà ông ta né tránh lanh lẹ chứ nếu không đã bị chụp trúng xương. Tát Thiên Thích cười ha hả: “Một kiếm đổi một trảo, coi như chúng ta hòa”. Y vừa hạ xuống đất thì lập tức phóng lên trở lại nhảy bổ về phía Chung Vạn Đường.
Khoảng hai mươi năm trước, Chung Vạn Đường từ Tây Vực trở về, đến ven hồ Ô Tạng Khách Thập ở Thanh Hải, đã từng gặp Tát Thiên Thích, lúc đó Chung Vạn Đường tuổi trẻ khí thịnh, biết y là đại ma đầu trên giang hồ, bởi vậy mới rút kiếm tỉ thí, quần thảo nhau nửa ngày, Tát Thiên Thích trúng một kiếm nên giờ đây y mới bảo một kiếm đổi một trảo.
Hai mươi năm sau gặp lại, hai phen ác đấu, Tát Thiên Thích đã luyện xong môn võ công độc môn Miêu Ưng trảo, loại võ công này hiểm hóc vô cùng, Chung Vạn Đường đấu với y hơn năm mươi chiêu, lấy nhanh chọi nhanh, đã dần dần không cầm cự nổi nữa, Tát Thiên Thích đắc ý dương dương, càng đánh càng hung hăng, Chung Vạn Đường bình tĩnh ứng phó, chợt kiếm chiêu thay đổi, Đông chỉ Tây vạch, trên tay tựa như cầm một vật nặng ngàn cân, rõ ràng rất vất vả, kiếm chiêu đã chậm hơn trước nhưng kiếm quang loang loáng tựa như dựng một bức tường sắt xung quanh mình. Chung Vạn Đường là hậu duệ của Vô Cực kiếm Phó Thanh Chủ, loại kiếm pháp này công thủ đều có lợi, khi thu về có thể hộ toàn thân, khi đánh ra có thể tấn công ở bốn phương tám hướng, Miêu Ưng trảo của Tát Thiên Thích tuy lợi hại lạ thường nhưng cũng không thể nào xông tới nổi.
Hai người càng đấu càng hăng, khoảng nửa canh giờ sau mà vẫn chưa phân thắng bại. đang lúc kịch đấu, Chung Vạn Đường chợt thấy vai ngứa ngáy thì thất kinh, biết rằng trảo của Tát Thiên Thích có độc. Thế là ông ta vội dùng nội công vận khí chống cự, đồng thời kiếm chiêu từ thủ chuyển sang công, định rằng đuổi Bát Tý Thần Ma rồi sẽ dùng thuốc cứu giải. Nào ngờ Tát Thiên Thích tuy bị đẩy lùi ra phía sau nhưng lại cố tấn công lên, gằng giọng quát: “Nhà ngươi đã trúng độc trảo, đừng hòng thoát chết!”
Chung Vạn Đường cả giận, triển khai loại kiếm pháp Bát phương phong vũ hội trung châu, chỉ thấy ánh ngân quang tỏa ra, bốn phương tám hướng đều là kiếm quang nhân ảnh. Tát Thiên Thích biết ông ta liều mạng nên vội vàng thối lui. Chung Vạn Đường thét một tiếng, xém mũi kiếm tới, Tát Thiên Thích thối lui không kịp, cổ tay đã bị vạch một vết thương. Chung Vạn Đường thừa thắng truy kích, nào ngờ Đại Lực Thần Ma Tát Thiên Đô đột nhiên nhảy vọt dậy, quát lớn một tiếng đến nỗi cát chạy đá bay, té ra y đã nghỉ ngơi nửa canh giờ, khí lực đã hồi phục, y đã nhảy vọt lên lao tới như hung thần ác sát, Chung Vạn Đường kinh hãi. Chỉ thấy y cởi áo lộ ra bộ ngực đầy lông lá, nhảy ra giữa sân, hai tay ôm một gốc cây lớn, quát: “Lên!” rồi nhổ cả gốc quét về phía Chung Vạn Đường. Chung Vạn Đường phóng vọt người lên, chân điểm vào thân cây, đâm kiếm về phía Đại Lực Thần Ma, nào ngờ phía sau có tiếng gió quét tới, Tát Thiên Thích đã thừa cơ tấn công tới.
Thân cây này dài đến ba trượng, có thể quét từ bên này qua bên kia sân, Chung Vạn Đường nhờ có thân pháp khéo léo, nhảy nhót né tránh, may mà thân cây to lớn, xoay chuyển không tiện chứ nếu không đã trúng đòn.
Thế là tình thế thay đổi, Tát Thiên Thích nhảy bổ tới, bám sát Chung Vạn Đường chẳng hề rời, đánh một hồi nữa, cánh tay của Chung Vạn Đường lại trúng thêm một trảo, sâu vào đến tận thịt, máu đen chảy ròng ròng, đồng thời vai càng lúc càng ngứa ngáy khó chịu. Tát Thiên Thích kêu lên: “Chung Vạn Đường, sao ngươi chưa mau buông kiếm đầu hàng!” Chung Vạn Đường chợt nghiến răng, đột nhiên đút kiếm vào bao, nhân lúc cái cây quét tới, hai chân điểm vào cành cây phóng vọt người ra, hạ xuống bậc thềm, Tát Thiên Thích quát: “Chạy đi đâu!” rồi nhảy bổ tới nhanh như điện chớp, Chung Vạn Đường quay đầu lại quát: “Trúng!” hai tay vung lên, sáu mũi phi đao trên tay phải bay về phía Tát Thiên Thích, sáu mũi trên tay trái bay về phía Tát Thiên Đô. Loại Đoạt Mệnh thần đao này có tẩm độc, đây là tuyệt kỹ cả đời của Chung Vạn Đường, chỉ lúc nguy hiểm nhất mới sử dụng. Tát Thiên Thích phóng vọt người lên, xoay người trên không trung, hai mũi phi đao lướt qua đế giày, hai mũi lướt qua hông, còn hai mũi bay thẳng vào mặt, bị y phất ống tay áo đánh rơi xuống đất. Tát Thiên Thích dốc ra tuyệt kỹ cả đời mới tránh được phi đao, hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, lộn ngược trở về chỗ cũ. Phía bên kia Tát Thiên Đô múa cái cây, bốn mũi phi đao đều cắm vào trong thân cây lút đến cán. Hai mũi phi đao còn lại thì tựa như rẽ hướng lướt qua thân cây rồi đột nhiên bắn ra hai bên. Tát Thiên Đô hai tay đang ôm cây, né tránh không kịp, hai mũi phi đao đã cắm vào hai bên be sườn, dù y mình đồng da sắt cũng không chống chọi nổi, y thét lớn một tiếng, hai tay vung lên ném cái cây về phía trước, khi Chung Vạn Đường vội vàng né tránh thì ầm một tiếng, cái cây cắm thẳng vào trong nhà, chắc là va phải bàn trà nên nghe đồ vỡ kêu loảng xoảng. Lúc này một đứa bé gái đột nhiên chạy ra.
Chung Vạn Đường kinh hãi, định nhảy vào trong nhà, nào ngờ tay phải đã bị trúng trảo vì vận động quá sức lại thất kinh nên chân khí tản mát chẳng thể nào giở lên nổi. Tát Thiên Đô trúng hai đao, hung tính phát tác, y đưa tay rút phăng hai mũi Đoạt Mệnh thần đao ra nhảy vọt tới ôm Chung Vạn Đường vật ngã lăn xuống bậc thềm, còn Tát Thiên Thích lại cười gằn nhảy vào trong nhà. Y chợt thấy một đứa bé gái đang ngồi dưới đất trông rất dễ thương. Y vội vàng kêu: “Ồ, Yến nhi, té ra ngươi ở đây, các nghĩa phụ đang tìm ngươi! Ngươi bị người xấu bắt đi, có sợ không?” Phùng Lâm mở to hai mắt rất ngạc nhiên, không biết y nói gì, Chung Vạn Đường nghe thế càng kinh ngạc hơn, Tát Thiên Thích lại nói: “Thật đáng thương, không ngờ ngươi bị hành hạ như thế này, không đầy một năm mà đã quên hết tất cả, cả ta mà cũng không nhớ sao?” rồi đưa tay toan bế, Phùng Lâm đột nhiên vung tay lên, hai mũi phi đao bắn ra, Tát Thiên Thích cũng không ngờ rằng cô bé lại làm thế, vả lại khoảng cách lại rất gần, chẳng thể đề phòng nổi, hai mũi phi đao cắm vào ngực, may mà Phùng Lâm tuổi nhỏ sức yếu, chứ nếu không đã đâm thẳng vào tim. Tát Thiên Thích vận lực bắn một cái, hai mũi phi đao bật ra, quơ cánh tay về phía trước kéo Phùng Lâm lên lưng, Phùng Lâm kêu to, cố gắng vùng vẫy.
Chung Vạn Đường và Tát Thiên Đô đang lăn lộn dưới đất, Tát Thiên Đô sức mạnh như hổ, nhưng Chung Vạn Đường nội công tinh thâm, lúc đầu tuy Tát Thiên Đô chiếm thượng phong đè lên người ông ta vung quyền đánh xuống, mới đánh được hai quyền thì độc khí trong phi đao đã tản mát, chỉ cảm thấy trong miệng khát khô, đầu óc như muốn hôn mê, kêu lên một câu: “Ca ca đến đây!” thì đã ngất đi!
Chung Vạn Đường bị trúng độc cũng không nhẹ, nhờ vào nội công tinh thâm nên mới cầm cự được đến lúc này, nhưng cũng đã đèn khô dầu cạn, toàn thân đã mềm nhũn. Tát Thiên Thích cõng Phùng Lâm chạy ra. Chung Vạn Đường thầm kêu: “Mạng ta đã xong!” rồi lăn ra hai trượng, Tát Thiên Thích thấy sắc mặt em bầm đen, biết rằng trúng độc đã quá nặng, mà mình cũng cảm thấy đau nhói, vừa giận vừa lo, y trợn mắt bước từng bước về phía Chung Vạn Đường. Chung Vạn Đường nắm hai tay, trầm giọng quát: “Ngươi tiến tới ba bước nữa, ta dùng đao tẩm độc lấy mạng hắn!” Tát Thiên Đô nghe tiếng bước chân, y lăn lộn gào lên: “Ta muốn uống nước, nước... nước...” Tát Thiên Thích đã bị thương ở ngực, càng sợ phi đao của Chung Vạn Đường hơn, y nghiến răng vận khí ngăn chặn chất độc, tay trái kẹp Tát Thiên Đô phóng vọt lên vách tường nhảy ra hoa viên.
Chung Vạn Đường mở hai tay ra, thở phào, lúc nãy ông ta chỉ sử dụng kế phong thành, trong tay ông ta làm gì có phi đao, dù có phi đao cũng chẳng thể phóng nổi. Lúc này hai tên ma đầu cũng bỏ đi, ông ta cố gắng bò vào trong phòng, leo lên giường rồi khẽ gọi mấy tiếng: “Đinh Phúc! Đinh Phúc!” trong vườn yên ắng, chỉ có tiếng côn trùng kêu rả rích, vị danh gia kiếm thuật của miền Giang Nam, đệ tử của phái Vô Cực đang rơi nước mắt, khẽ gọi: “Lâm nhi, Lâm nhi!” một hồi sau lại kêu: “Canh Nghiêu, Canh Nghiêu, cả con mà cũng không đến đưa tiễn ta sao?” ông ta cố gắng muốn trích máu mình ra nhưng lực bất tòng tâm, lúc này độc khí đã xông lên, suýt nữa đã muốn ngất đi. Một ý nghĩ lướt qua trong đầu ông ta: “Quyền kinh kiếm quyết binh pháp y thư của mình vẫn chưa truyền cho Niên Canh Nghiêu, không được, mình phải gắng gượng đợi nó trở về”. Ý chỉ cầu sinh nổi lên trong lòng, ông ta há miệng cắn vào tay, hút ra mấy ngụm máu độc, thần trí đã hơi tỉnh táo hơn, khẽ kêu: “Canh Nghiêu, hãy về đây! Sao ngươi vẫn chưa về!”
Khu vườn rộng mênh mông vẫn yên lặng như tờ, chỉ nghe tiếng nói yếu ớt của Chung Vạn Đường. Chung Vạn Đường thở dài, bóng dáng của Niên Canh Nghiêu chợt hiện ra trong làn nước mắt, “đứa trẻ này thật nghịch ngợm và đáng yêu!” ông nhớ lại việc mình đã dốc hết tâm huyết để thuần phục con ngựa hoang này, đã không màng đến lời khuyên của bằng hữu, mạo hiểm vun bồi thành một bậc kiêu hùng, một viên tướng văn võ toàn tài. Căn vườn rộng lớn này cũng do ông ta thiết kế, nay ông ta đã trúng độc mà không có người đến giúp đỡ giải cứu, đó là điều ông ta chưa từng ngờ tới. Trong nỗi đau đớn và tĩnh lặng đến cực độ, Chung Vạn Đường bất đồ nhớ đến chuyện xưa: Năm xưa mình cải trang thành một lang trung lang bạc giang hồ, đến nhà họ Niên, gặp cậu bé Niên Canh Nghiêu với tính cách kỳ lạ và trí thông minh hơn người đã quyết ý thâu cậu bé làm đồ đệ, không những muốn phái Vô Cực có một truyền nhân mà còn muốn vun bồi một bậc hào kiệt đủ sức xua đuổi Hồ lỗ cho Hán tộc. Niên Hà Linh đang lo cho con mình, bởi vì nhiều vị lão sư đã bị nó đuổi đi, không ai dám dạy nó nữa. Chung Vạn Đường đã lộ chút bản lĩnh, đàm đạo suốt một đêm với Niên Hà Linh, nhưng Hà Linh cũng rất hào sản, bảo: “Được, tôi giao khuyển tử cho ngài. Tất cả đều nghe theo chủ ý của ngài, muốn bao nhiêu tiền cũng được”. Đêm ấy hai người đã ký một hiệp định gồm hai điều, điều thứ nhất là ông ta bỏ ra năm vạn lượng bạc, điều thứ hai là ngày Niên Canh Nghiêu thành tài mới cho phép nó được gặp cha mẹ. Niên Hà Linh chấp nhận điều thứ nhất, lập tức bỏ ra năm vạn lượng bạc đưa cho ông ta sử dụng. Nhưng Niên Hà Linh lại chần chừ ở điều thứ hai, ông ta hỏi: “Vậy phải bao nhiêu năm?” Chung Vạn Đường thầm nhủ đó là điều mấu chốt, dù cha mẹ Niên Canh Nghiêu thương yêu nó thế nào ông ta cũng phải giữ ý kiến của mình. Vì thế Chung Vạn Đường nói: “Có thể là mười tám năm sau, nếu ông lưu luyến, tôi chẳng thể nào dạy nó thành tài”. Niên Hà Linh nghĩ ngợi, cuối cùng đã chấp nhận.
Nghĩ đến đây, Chung Vạn Đường nở nụ cười, ông ta đã phí biết bao công sức vì đứa trẻ này! Sau khi ông ta có tiền bạc, đã mua một mảnh đất trống ở sau nhà họ Niên, thuê nhiều thợ mộc xây nên hoa viên này, trong hoa viên có một tòa nhà chứa sách, chỉ có Chung Vạn Đường và lão bọc Đinh Phúc của nhà họ Niên sống ở đây. Hôm đó là ngày mưởi sáu tháng Giêng, đó là ngày Niên Canh Nghiêu bắt đầu học, Niên Hà Linh bày tiệc rượu, mời rất nhiều bằng hữu đến uống rượu cùng Chung Vạn Đường, tiệc tàn Niên Hà Linh đích thân đưa con trai đến học, lại còn vái Chung Vạn Đường ba lạy, nói những lời nhờ vả, rồi Chung Vạn Đường đưa ông ta ra khỏi vườn, sau đó sai thợ mộc bít kín cửa vườn lại, chỉ giữ một cửa sổ nhỏ để đưa thức ăn. Từ đó ba người cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Suốt ngày Chung Vạn Đường ngồi trong thư phòng, đọc binh pháp y thư, luyện nội công kiếm thuật, chẳng hề hỏi đến Niên Canh Nghiêu, cậu bé cũng tự do tự tại, vui chơi trong vườn, chưa bao giờ bước vào phòng, cũng chưa bao giờ nói với ông ta một câu, khi vui thì cởi phăng quần áo nhảy xuống hồ bơi một vòng hoặc trèo cây bắt chim, mùa đông thả diều, mùa hạ câu cá, mùa thu bắt dế, mùa đông vò tuyết ném chơi, có lúc chơi chán lại đào đất nhổ hoa, chơi bời suốt một năm, cả một khu vườn rộng lớn mệnh mông bị cậu bé xới tung lên chỉ trừ phòng sách của Chung Vạn Đường. Một ngày nọ Chung Vạn Đường đang trầm tư, chợt thấy Niên Canh Nghiêu cầm một cây gậy đánh về phía mình!
Chung Vạn Đường giật mình “Đây có phải là ảo giác không? Không phải!” Niên Canh Nghiêu đã chơi chán, lão bọc Đinh Phúc cũng chẳng rỗi hơi chơi với cậu bé, Chung Vạn Đường chẳng hề lên tiếng, nhưng cậu bé đã tìm đến chỗ ông ta. Cậu bé đã chạy vào thư phòng nói: “Trong số các lão sư, coi như ông là tốt nhất, chưa bao giờ dám la mắng tôi. Nhưng giờ đây tôi chơi đã chán, tôi muốn ra ngoài”. Chung Vạn Đường lạnh lùng nói: “Hoa viên này không có cửa, ngươi muốn ra ngoài cứ việc trèo tường mà ra”. Bức tường này cao đến hơn ba trượng, người không giỏi khinh công chẳng thể nào nhảy ra được. Cậu bé thấy Chung Vạn Đường không chịu đục cửa, cười lạnh một tiếng rồi cầm cây gậy đánh về phía ông ta, Chung Vạn Đường đưa tay gạt qua, cây gậy gãy làm đôi. Chung Vạn Đường chỉ đè nhẹ vào cánh tay, cậu bé đau quá kêu lên, ông ta bảo cậu quỳ xuống, cậu bé đành phải nghe lời nhưng vừa buông tay, cậu đã chạy ra khỏi phòng sách. Suốt hai ba tháng trời sau đó, cậu chẳng hề dám bước chân vào phòng sách, chớp mắt hạ đi thu đến, cảnh tượng tiu điều, cậu bé chẳng còn trò gì mới mẻ nữa, thế là lẳng lặng bước vào phòng sách, lúc đó Chung Vạn Đường đang vùi đầu xem Tôn Tử binh pháp, cậu bé cứ đứng đấy nhìn nửa ngày, rốt cuộc cũng lên tiếng: “Cả khu vườn rộng lớn mà tôi chơi cũng chán. Ông chỉ có một quyển sách nhỏ mà đọc từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, có gì hay ho?” Chung Vạn Đường cười khà khà: “Cậu bé, cậu hiểu gì? Trong quyển sách này có một thế giới rộng hơn cả khu vườn hàng ngàn lần, chơi đến suốt đời suốt kiếp cũng không hết”. Cậu bé lắc đầu nói: “Tôi không tin, ông nói tôi nghe thử, có gì đáng vui?” Chung Vạn Đường cũng lắc đầu nói: “Ngươi không chịu bái ta làm thầy, làm sao ta giảng cho ngươi nghe”. Cậu bé trợn mắt, vỗ bàn nói: “Bái cái quái gì, ta không thèm”. Chung Vạn Đường cũng trừng mắt, cậu bé hoảng sợ chuồn ra ngoài. Rồi mười ngày nữa, cậu bé không kìm được, chạy vào thư phòng nói: “Ông chỉ gạt một cái mà cây gậy gỗ đã gãy đôi, có phải cũng học được từ trong sách không?” Chung Vạn Đường trả lời: “Sách cũng có nhiều loại, sách dạy đánh gãy gậy gỗ chỉ là bình thường, sách hữu dựng nhất có thể dạy cho ngươi trị quốc bình thiên hạ!” cậu bé thè lưỡi rồi lại lắc đầu: “Ta không tin đọc sách có lợi như thế”. Chung Vạn Đường cười rằng: “Tại sao lại không thể, học được bản lĩnh, muốn ra ngoài lúc nào cũng được”. Chung Vạn Đường dắt tay cậu bé ra vườn, nhẹ nhàng vọt một cái lên tường, sau đó lại nhảy xuống: “Ngươi xem, chẳng phải lúc nào ta cũng có thể ra ngoài được sao? Đọc sách, luyện bản lĩnh, đừng nói là bức tường này, dù có thiên quân vạn mã cũng không chặn nổi ngươi”. Cậu bé dập đầu xuống bái, nói: “Tôi đã phục, xin tiên sinh hãy dạy cho tôi!” Chung Vạn Đường đỡ cậu bé dậy, đầu tiên ông ta giảng cho cậu bé nghe chuyện Thủy Hử, cậu bé thích thú đến nỗi huơ chân múa tay, tiếp theo lại giảng Tam Quốc Chí, Nhạc truyện và các sự tích anh hùng từ xưa đến nay, những câu chuyện về các hiệp khách, tiếp theo là giảng binh thư, sử ký, thế rồi lại dạy cậu bé ám khí, quyền cước, cậu bé cũng rất thông minh, chỉ cần liếc qua quyển sách đã hiểu, giảng qua một lần đã học được. Đến mùa thu năm thứ ba, Chung Vạn Đường vì có hẹn với Châu Thanh, bảo cậu bé tự tu luyện, ông ta lẻn ra ngoài đi đến Nhữ Châu, không ngờ gặp phải bọn Huyết Trích Tử, Châu Thanh chết đi, Chung Vạn Đường dắt Phùng Lâm trở về. Lúc đó Phùng Lâm chỉ mới được tròn một tuổi, cô bé dần dần biết nói, Niên Canh Nghiêu khi rảnh rỗi lại chơi đùa cùng cô bé, thân thiết hơn cả huynh muội, Chung Vạn Đường bảo rằng Phùng Lâm là con gái của một bằng hữu, cậu bé không hề biết Chung Vạn Đường có chủ y đặc biệt khác.
Nhớ đến đây, trên mặt Chung Vạn Đường nở nụ cười, cảm thấy phấn chấn, dần dần quên cả cơn đau. Ông ta thầm nhủ: “Phùng Lâm cũng là đứa trẻ thông minh, ngay từ năm một tuổi đã có căn cơ, còn vững chắc hơn cả Niên Canh Nghiêu. Hai đứa trẻ này đúng là trời sinh một đôi, sau này kết thành phu thê, mình cũng cảm thấy an ủi. Nhưng hiện nay lại gặp tai họa, Lâm nhi bị tên ma đầu cướp đi, còn mình dù tinh thông y lý nhưng không ai giúp đỡ. Chao ôi, Canh Nghiêu, sao ngươi vẫn chưa trở về?”
Chung Vạn Đường nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy bức tường cao ngất, cây hòe tám năm trước vẫn chưa cao quá bức tướng, thầm nhủ: “Dù Canh Nghiêu trở về, hắn cũng không thể nhảy qua bức tường. Chao ôi, không biết chuyện ở chùa Thiếu Lâm thế nào rồi? Canh Nghiêu thông minh như thế, nếu không gặp mình có lẽ hắn cũng nhờ người trong chùa Thiếu Lâm đứa hắn về”. Nhắc đến chùa Thiếu Lâm, ông ta lại thấy dễ chịu, lòng thầm nhủ: “Canh Nghiêu cũng thật là may mắn, Thiếu Lâm tam lão đều thương yêu, coi hắn như bảo bối. Hắn học võ được ba năm, mình mới len lén dắt ra ngoài. Mỗi khi ra ngoài mình giao Phùng Lâm cho Đinh Phúc coi sóc. Nhưng không biết Đinh Phúc đã đi đâu rồi? Đánh nhau đến trời long đất lở như thế này mà sao lão ta vẫn chưa thức dậy? Năm ngoái, có lúc mình đưa Canh Nghiêu ra ngoài, cứ để mặc cho hắn đi đâu thì đi. Tháng ba năm nay, hắn một mình ra ngoài đến nửa tháng mới trở về, thật là kỳ lạ! Mình nghĩ đi đâu thế này!” Chung Vạn Đường định thần, chợt thấy rung rẩy, ông ta nhớ lại lần đó Niên Canh Nghiêu đã nói rằng: “Sư phụ, năm mười hai tuổi Cam La trở thành Thừa tướng, năm nay con đã mười bốn tuổi, lớn hơn Cam La hai tuổi, con không thèm làm Thừa tướng, tốt nhất là nên làm Đại tướng quân, thống suất binh mã trong cả nước, Thừa tướng cũng phải sợ Đại tướng quân. Sư phụ, người bảo thử xem, con có thể làm Đại tướng quân không?” Chung Vạn Đường nói: “Cũng có thể lắm, nhưng phải trải qua thời gian rất lâu...” Chung Vạn Đường vốn muốn bảo cậu bé phải học binh pháp cho xong, luyện võ công cho giỏi, sau này kêu gọi anh hùng cùng dựng cờ khởi nghĩa, xua đuổi Thát lỗ quang phục Trung Hoa, lúc đó đâu chỉ là một đại tướng quân mà còn là một khai quốc công thần! Nhưng cậu bé tuổi vẫn còn nhỏ, sợ rằng cậu lỡ dại miệng nói ra, bởi vậy Chung Vạn Đường mới không nói. Không ngờ cậu bé hiểu nhầm ý của Chung Vạn Đường, bảo rằng: “Có phải sư phụ bảo là phải đợi đến khoa thi lên kinh ứng thí, rồi sau đó tòng quân mới có thể làm đại tướng quân hay không?” Chung Vạn Đường bảo không cần. Cậu bé nói: “Năm mười hai tuổi Cam La làm Thừa tướng, chỉ vì Hoàng đế biết ông ta thông minh tuyệt đỉnh, có tài cán, nên mới lập tức nâng đỡ. Giả sử có một Hoàng đế, hoặc một bối lạc cũng được, y biết bản lĩnh của con, có thể không cần kinh qua thi cử, con đã làm đại tướng quân!” Chung Vạn Đường nghe thế vừa kinh vừa giận, tám năm qua, cậu bé không luyện công trong vườn thì đến chùa Thiếu Lâm, sao lại biết những chuyện này? Tại sao lại nghĩ như thế? Lúc đó Chung Vạn Đường mắng cho cậu một trận, cho đến khi cậu quỳ xuống nhận lỗi mới thôi.
Lúc này chất độc trong mình đã lan đến tim, Chung Vạn Đường hít một hơi cố vận nội lực kìm chế, trong miệng thấy khát khô, trong lúc hôn mê chợt nghe bên ngoài có người kêu thảm một tiếng ối chao, tiếp theo người ấy nói: “Sư phụ, con đã bị thương, có người cắm đao có độc dưới đất?” giọng nói ấy chín là Niên Canh Nghiêu.
Trong lúc nguy cấp, Chung Vạn Đường chợt nghe giọng nói của Niên Canh Nghiêu cũng giống như người đi trong sa mạc chợt vớ được một bình nước, tinh thần chợt phấn chấn, ông ta kêu lên: “Canh Nghiêu, mau vào đây!” nước mắt ông ta rơi lả chả xuống đất, quả nhiên Niên Canh Nghiêu đang loạng choạng bước vào, không khỏi lẩm bẩm, “Tạ ơn trời đất, thằng bé quả nhiên quay trở về”. Chung Vạn Đường vốn rất thông minh, nhưng vì quá mừng rỡ nên quên nghĩ rằng tại sao Niên Canh Nghiêu lại có thể vượt qua bức tường cao hơn ba trượng.
Niên Canh Nghiêu nhảy vào, ôm sư phụ khóc rằng: “Sư phụ, chân của con vừa đau vừa ngứa, đã dẫm trúng Đoạt Mệnh thần đao”. Chung Vạn Đường cố gắng đưa tay vuốt đầu cậu bé, trìu mến nói: “Đừng lo, con vào trong phòng lấy túi thuốc ra đây”. Niên Canh Nghiêu kêu ừ một tiếng, lúc này mới chú ý đến sư phụ, hỏi: “Sư phụ, người làm sao thế?” Chung Vạn Đường đâu còn hơi sức kể rõ tường tận mọi chuyện, chỉ thúc cậu bé đi cho nhanh.
Một lát sau, Niên Canh Nghiêu kêu hoảng: “Lâm muội đâu?” Chung Vạn Đường lại thấy đau nhói lòng, Niên Canh Nghiêu cầm túi thuốc bước ra, Chung Vạn Đường khẽ gật đầu, Niên Canh Nghiêu quỳ phục bên cạnh ông, Chung Vạn Đường khẽ nói: “Lấy bình ngọc trong túi thuốc ra, trong bình có hai viên thuốc, một viên màu đỏ, một viên màu xanh, viên màu đỏ uống với nước, viên màu xanh nhai nát đắp bên ngoài, đó là thuốc giải độc Đoạt Mệnh thần đao”. Nói xông thì thở phì phò, thấy Niên Canh Nghiêu đã uống thuốc xong mới thều thào nói: “Con hãy dùng dao nhỏ rạch một vết thương ở nơi cách huyệt Kiên Tỉnh nửa tấc trên vai trái của ta, nặn máu độc ra ngoài sau đó mở hộp màu vàng trong túi thuốc ra”. Niên Canh Nghiêu kêu ừ một tiếng, nhưng không lập tức ra tay, cậu bé đưa mắt nhìn xung quanh, chợt thấy bên ngoài có bóng người thấp thoáng, một chàng công tử thiếu niên và một hán tử cao lớn tuổi khoảng hơn bốn mươi mặc y phục người Hồi bước vào. Chung Vạn Đường thất kinh, chàng công tử thiếu niên ấy chính là phản đồ Vương Tôn Nhất của chùa Thiếu Lâm, làm sao y có thể vào được đây?
Vương Tôn Nhất mỉm cười nói: “May mắn được gặp Chung đại hiệp!” Chung Vạn Đường trầm giọng nói: “Ngươi đến đây làm gì?” Vương Tôn Nhất nói: “Tôi có cuộc hẹn nhỏ với lệnh đồ”. Niên Canh Nghiêu cười hì hì nhảy vọt lên phía trước, đưa bình thuốc cho người Hồi, Chung Vạn Đường kinh hãi, quát: “Ngươi làm gì thế?” người Hồi ấy cười rằng: “Chung đại hiệp, ông bị thương rất nặng, muôn vạn lần đừng nổi nóng, ta là tổng quản của Huyết Trích Tử Bắc Kinh, nay đến bái phỏng ông!” Chung Vạn Đường hừ một tiếng, ngất đi. Cáp Bố Đà cất bình thuốc, cười rằng: “Thần Ma song lão đang nôn nóng chờ đợi, tôi đem về cứu tỉnh họ trước”. Rồi giơ ngón tay cái về phía Niên Canh Nghiêu, khen rằng: “Tiểu ca, ngươi rất giỏi! Ta đành chịu thua!”
Một hồi sau, Chung Vạn Đường dần dần tỉnh lại, Niên Canh Nghiêu dùng nước lạnh tạt vào mặt ông ta. Chung Vạn Đường như nằm trong ác mộng, thử dùng lực cắn lưỡi, cảm thấy đau đến nhói tim mới tin rằng không phải mình nằm ác mộng. Niên Canh Nghiêu mỉm cười nói: “Sư phụ, công tử này chính là Tứ bối lạc đương kim, tôi đã kết nghĩa huynh đệ với ông ta”. Chung Vạn Đường nổi cáu đến cùng cực.
Niên Canh Nghiêu cười hì hì nói: “Sư phụ, Tứ bối lạc mời người đến Bắc Kinh. Ở Bắc Kinh rất vui, được ăn được chơi, thứ gì cũng có”. Chung Vạn Đường tức đến nỗi nghẹn lời, trong lòng mắng mấy câu “súc sinh”.
Té ra lần này việc ngụy tạo bức thư, giả truyền di lệnh của Bản Không cứu Dận Trinh đều cho Niên Canh Nghiêu sắp đặt. Ba năm trước Dận Trinh học võ ở chùa Thiếu Lâm đã quen Niên Canh Nghiêu, y thấy đứa trẻ này chẳng phải nhân vật tầm thường, cũng âm thầm kết nạp nó, xem nó như người lớn. Đầu năm nay Niên Canh Nghiêu lên Tung Sơn một mình, nửa đường lại gặp Dận Trinh, Dận Trinh giới thiệu cho nó gặp các tiền bối võ lâm như Thiên Diệp Tản Nhân, Liễu Ân hòa thượng, bọn người này thấy nó chẳng phải trẻ con tầm thường, đều khen ngợi không ngớt. Niên Canh Nghiêu thấy Liễu Ân có võ công cao hơn cả sư phụ của mình, cũng rất khâm phục! Càng hợp ý hơn đối với khí độ đế vương, đại chí hùng đồ của Dận Trinh. Sau đó Dận Trinh nói ra lai lịch, kết thành huynh đệ với Niên Canh Nghiêu. Nên sau khi Niên Canh Nghiêu trở về mới dọ ý Chung Vạn Đường. Một tháng trước, Dận Trinh sắp lên chùa Thiếu Lâm đối chất với Bản Vô, đang suy nghĩ kế sách lưỡng toàn, chợt nhớ rằng Niên Canh Nghiêu tuy chỉ là một đứa trẻ mười bốn tuổi nhưng đã cực kỳ túc trí đa mưu, lại được Thiếu Lâm tam lão thương mến, nên đã phái Thiên Diệp Tản Nhân tìm nó, Niên Canh Nghiêu nghĩ ra mưu kế, giả nét chữ viết của Bản Không đại sư, ngụy tạo một bức thư, cả Vô Trú thiền sư mà cũng bị nó lừa.
Lại nói Dận Trinh thấy hai mắt Chung Vạn Đường trắng dã, gân xanh nổi lên mới dùng thuật Thôi Nã học được ở chùa Thiếu Lâm xoa lên người ông ta, mỉm cười nói: “Chung tiên sinh cần gì phải tức tối cho mệt? Lệnh đồ là kỳ tài trăm năm khó gặp, tiên sinh cũng là bậc cao sĩ đương thế, trời sinh người tài tất hữu dụng, nương thân ở chốn thôn dã chi bằng về với triều đình”. Chung Vạn Đường nghẹn lời, ngưng thần, nghiến răng vẫy tay: “Canh Nghiêu, ngươi đến đây”.
Niên Canh Nghiêu cậy được sư phụ thương yêu, cười hì hì nói: “Sư phụ, người đã nhận lời mời của bối lạc ca ca rồi chứ? Độc thương của người rất nặng, đã hứa rồi, con sẽ trị cho người!” Chung Vạn Đường càng tức hơn, không ngờ Niên Canh Nghiêu lại xấu xa đến thế, dám uy hiếp tánh mạng của mình! Mấy mươi năm công phu của Chung Vạn Đường đâu phải tầm thường, lúc này tuy đã nguy cấp nhưng vẫn còn công lực. Ông ta liều hơi thở cuối cùng, đợi Niên Canh Nghiêu đến gần, đột nhiên vung tay chụp lấy mạch môn, gằng giọng quát: “Nghiệt đồ, ngươi bán đứng sư phụ, ta giết ngươi!” đây chính là tuyệt chiêu Cầm Nã đoạt mệnh thủ của phái Vô Cực, Niên Canh Nghiêu bị ông ta chụp trúng, toàn thân mềm nhũn, chẳng thể nhào nhúc nhích được nữa.
Điều này khiến Dận Trinh và Cáp Bố Đà đều bất ngờ, muốn cứu cũng không kịp nữa. Chung Vạn Đường chợt nhớ đến lời Châu Thanh: “Nếu tên đồ đệ này tâm thuật bất chính ông phải làm cho nó tàn phế, đừng nuối tiếc!” trong lòng thầm than: “Rốt cuộc thì Châu Thanh vẫn sáng suốt hơn mình”. Thế là ba ngón tay dùng lực chầm chậm bóp chặt!
Niên Canh Nghiêu sắc mặt trắng bệt, run giọng nói: “Sư phụ, xin người nghĩ đến tình thầy trò bảy năm, tha mạng cho con!” Chung Vạn Đường giật mình, việc bảy năm lướt qua trong đầu nhanh như điện chớp, một nhân tài mình đã dốc hết sức ra vun bồi, một đứa đồ đệ mình đã thương hơn con ruột, chả lẽ chính tay mình phải giết nó hay sao? Niên Canh Nghiêu lại nói: “Sư phụ, phái Vô Cực đơn truyền, đến đời con thì dứt, sư phụ nỡ lòng ra tay sao?” Chung Vạn Đường lại giật mình, ông ta đã truyền hết võ công của phái Vô Cực cho Niên Canh Nghiêu, nếu giết nó đi thì chẳng còn ai tái truyền y bát. Niên Canh Nghiêu lại nói: “Sư phụ, từ rày về sau con sẽ nghe lời người, buổi tối đi ngủ đúng giờ, buổi sáng dạy đúng giờ”. Té ra từ nhỏ Niên Canh Nghiêu đã nghịch ngợm, sau khi bị Chung Vạn Đường thâu phục, những điều khác thì tốt nhưng tính tình của nó lại rất ngang ngạnh, không hoàn toàn thay đổi, đến đêm khuya mà vẫn chưa đi ngủ, sáng sớm còn nằm nướng. Chung Vạn Đường vẫn thường khuyên răn nó như người cha hiền đối với đứa con. Lúc này nghe nó nói như thế, bất giác nước mắt trào ra, lời nói của Niên Canh Nghiêu khiến ông ta xiêu lòng, không màng đến lời khuyên của Châu Thanh nữa, tay vừa buông ra đã kêu thảm: “Canh Nghiêu, ngươi giỏi lắm!” rồi miệng phun ra một búng máu tươi, nằm ngay đơ chẳng hề nhúc nhích. Cáp Bố Đà chạy đến bắt mạch, mạch của Chung Vạn Đường đã ngừng, Cáp Bố Đà cười nói: “Lão già ngoan cố đã chết!” Niên Canh Nghiêu tuy hả hê nhưng bất giác cũng rơi mấy giọt nước mắt.
Dận Trinh nói: “Việc đã xong, chúng ta đi thôi!” Niên Canh Nghiêu lau nước mắt, chợt nhớ vẫn chưa lấy quyền kinh kiếm quyết y thư binh pháp của sư phụ, nói với Dận Trinh: “Bối lạc ca ca, đợi đệ một lát”. Đang định vào lục soát, chợt nghe bên ngoài có tiếng hú dài, một luồng ánh sáng màu đỏ phóng lên trời. Cáp Bố Đà nói: “Không xong, đi thôi!” rồi kéo Niên Canh Nghiêu chạy gấp ra ngoài.
Lại nói hôm ấy sau một hồi hỗn loạn trong chùa Thiếu Lâm, Dịch Lan Châu thấy Đường Hiểu Lan, Chung Vạn Đường và Niên Canh Nghiêu lần lượt biến mất, vội vàng cáo từ Vô Trú thiền sư cùng Lữ Tứ Nương và Bạch Thái Quan đến Trần Lưu. Cước trình của ba người rất nhanh, buổi sáng lên đường, ngoại trừ dừng lại ăn uống nghỉ ngơi chốc lát, đến canh ba đã vào huyện Trần Lưu được hai ba mươi dặm. Dịch Lan Châu nói: “Tìm đến nhà Niên Canh Nghiêu có thể gặp sư điệt của ta, ta đoán Hiểu Lan đã đi tìm y”. Lữ Tứ Nương nói: “Niên gia là triệu phú ở Hà Nam, tìm đến đấy chẳng khó gì”. Nhưng lúc này đã canh ba, trên đường hiếm người qua lại. đang lo lắng chợt thấy ở đám rừng phía xa có ánh lửa, Dịch Lan Châu ngạc nhiên nói: “Lạ thật, lúc này còn có người tụ tập trong rừng làm gì?” chạy tới, một luồng gió từ trong rừng thổi ra, Dịch Lan Châu hít hơi gió, thấy trong gió có mùi thuốc, Dịch Lan Châu vẫy tay với Lữ Tứ Nương, Bạch Thái Quan rồi tung mình vọt vào trong rừng.
Bên trong tối đen, cây rừng rậm rạp, Dịch Lan Châu vọt lên cây đưa mắt tìm nơi có ánh lửa. Chợt nghe bên cạnh có người cười lạnh: “Mụ ăn mày già, mụ gan thật dám từ chùa Thiếu Lâm đuổi đến đây, bọn ta chọn một nơi có phong thủy tốt làm nơi chôn thân cho mụ. Mụ không cần trở về Thiên Sơn chi cho xa xôi!”
Dịch Lan Châu tức giận nói: “Hay lắm, bà già này phải xem bọn tiểu bối các ngươi có bao nhiêu bản lĩnh?” rồi ba ta lách người phóng tọt vào trong rừng nhanh như mũi tên, người ấy định lên tiếng thì chợt thấy chưởng phong quét tới! Người ấy tuy thất kinh nhưng cũng lanh lẹ lạ thường, thì biết dù có xoay người nghênh địch hai tay lướt người về phía trước né tránh cũng không thoát nổi chưởng kình của Dịch Lan Châu, y lợi dụng địa hình, xoay người nhanh như cơn gió ra sau một gốc cây, phân tán chưởng lực của Dịch Lan Châu, rồi y xoay tiếp mấy vòng lẩn vào chỗ tối. Dịch Lan Châu hơi ngạc nhiên, thân pháp của người này thật kỳ lạ! Đang định đuổi theo chợt nghe tiếng vù vù, một vật đen thui từ phía sau bay tới, Dịch Lan Châu lách người, vật ấy bay lướt qua đỉnh đầu bà ta rồi bẻ ngoặt trở lại Dịch Lan Châu cả kinh phóng vọt người lên cây. Món ám khí ấy trông giống như một cái thước gắp, có thể bay vòng vèo tựa như có linh tính. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Dịch Lan Châu đã sớm rút kiếm trong tay, hất về phía món ám khí, món ám khí rơi ngay xuống đất, Dịch Lan Châu nhảy vọt xuống, không ngờ món ám khí lăn một vòng dưới đất rồi đột nhiên bay lên, quét ngang xuống hạ bàn của Dịch Lan Châu, Dịch Lan Châu kinh hãi, đột nhiên xỉa hai ngón tay về phía trước bằng Kim cương chỉ lực kẹp lấy món ám khí trong tay, miệng quát lớn: “Tên quái vật Hàn Trọng Sơn kia, dám đến hí lộng lão nương!” rồi vung kiếm Du Long đâm mấy nhát về phía người ấy!
Té ra kẻ này là Hàn Trọng Sơn, sư đệ đồng môn của Thiên Diệp Tản Nhân, y luyện được một món ám khí cực kỳ độc địa ở núi Côn Luân tên gọi là Hồi hoàn câu, hình dạng như cái thước gắp, hai đầu nhọn, dài hơn hai thước, ở giữa có chỗ nắm dài ba tấc, những chỗ khác đều lắp móc câu sáng quắc, lợi hại hơn là nó có thể bay tới bay lui. Khi ở núi Côn Luân, Hàn Trọng Sơn đã từng thấy người dân ở dưới chân núi dùng vật này bắt chim, thế là tạo ra một món ám khí độc môn, trải qua hơn ba mươi năm luyện tập và cải tiến, y đã đạt đến mức xuất thần nhận quỷ, không ngờ đã bị Dịch Lan Châu dùng kim cương chỉ lực kẹp lại!
Công lực của Hàn Trọng Sơn cao hơn Thiên Diệp Tản Nhân một chút, Thiên Diệp Tản Nhân bị Dịch Lan Châu làm nhục ở đảo Điền Hoành đã mời y đến đây. Cả hai huynh đệ quyết phải hạ cho bằng được bà ta. Lúc này Dịch Lan Châu vung kiếm nhanh như gió, Hàn Trọng Sơn đã cầm cây chày giã thuốc trong tay chặn được ba kiếm nhưng rất vất vả. Dịch Lan Châu từng bước tiến tới, chợt nghe Lữ Tứ Nương kêu lên: “Đường Hiểu Lan ở đây!”
Té ra khi Dịch Lan Châu bị Hàn Trọng Sơn phục kích, Lữ Tứ Nương đã phóng tới, chợt thấy có một người nhảy tọt ra vung chưởng đánh lệch kiếm của Lữ Tứ Nương sang một bên, Lữ Tứ Nương thâu kiếm lướt người, khi nhìn kỹ lại mới thấy đó chính là Thiên Diệp Tản Nhân, phía xa còn có một đống lửa, Liễu Ân hòa thượng canh bên đống lửa, Thần Ma song lão ngồi xếp bằng nhắm mắt chẳng hề nhúc nhích, Đường Hiểu Lan bị trói trên cây.
Lữ Tứ Nương múa kiếm như gió, thi triển tuyệt chiêu trong Huyền Nữ kiếm pháp đâm về phía Thiên Diệp Tản Nhân, chỉ lực của y tuy lợi hại nhưng chẳng chạm được vào người nàng, Thiên Diệp Tản Nhân thấy kiếm pháp của nàng quá lợi hại, tuy không đến nỗi bại trận nhưng thắng cũng rất khó, đang định gọi Liễu Ân đến giúp, chợt thấy Dịch Lan Châu đang tấn công tới tấp Hàn Trọng Sơn, y cả kinh chợt kêu lên: “Liễu Ân đại sư, cứu người của chúng ta chạy trước!” Liễu Ân thấy Dịch Lan Châu và Lữ Tứ Nương đã phóng tới, trong bụng cũng phát hoảng, vội vàng cắp Thần Ma song lão phóng ra khỏi rừng. Lữ Tứ Nương bị Thiên Diệp Tản Nhân chặn lại, chẳng thể nào đuổi theo.
Dịch Lan Châu thấy Liễu Ân đã chạy ra, nghĩ bụng không thể đuổi theo kịp, kêu: “Tứ Nương, cứu Hiểu Lan trước, ta phải đánh hai tên yêu nghiệt này”. Rồi bà ta xỉa cây kiếm Du Long tới, nhốt Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân vào màn kiếm quang, Bạch Thái Quan rút đao tương trợ, bị Hàn Trọng Sơn gạt ngang một gậy, chấn động đến nỗi tê rần cả cánh tay, Thiên Diệp Tản Nhân bị kiếm chiêu của Dịch Lan Châu đánh cho luống cuống tay chân, thấy Bạch Thái Quan tiến tới thì chợt nảy ra một kế, liên tục đánh ra hai chưởng, buộc Bạch Thái Quan mở ra chỗ trống ở bên trái của mình, chặn được chiêu kiếm của Dịch Lan Châu. Dịch Lan Châu vừa bị chặn, Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân đã phóng ra. Dịch Lan Châu kéo Bạch Thái Quan lại, nói: “Hãy giúp sư muội cứu người trước!” Bạch Thái Quan mặt đỏ ửng, chỉ đành lui xuống.
Lữ Tứ Nương tháo Đường Hiểu Lan xuống, thấy chàng đang mơ màng thì biết đã bị điểm huyệt đạo, thế là vội vàng cứu chàng tỉnh dậy. Đường Hiểu Lan chợt thấy Lữ Tứ Nương đang đứng trước mặt mình, vừa kinh vừa mừng, cảm kích nói: “Lữ Oanh tỷ tỷ, đa tạ cứu mạng”. Lữ Tứ Nương cười: “Chính là Dịch nữ hiệp đã cứu đệ, đâu có liên quan đến ta”. Đường Hiểu Lan định thần, nhớ lại một việc, kêu lên: “Lữ tỷ tỷ, mau cứu Chung đại hiệp!”
Té ra Đường Hiểu Lan một mình từ Thiếu Lâm đuổi theo, xông vào trong rừng, bị Liễu Ân chặn lại. Lúc đó Thần Ma song lão đã trúng Đoạt Mệnh thần đao, nấp trong rừng dưỡng thương. Không lâu sau, Niên Canh Nghiêu đã lừa lấy được thuốc về cứu Song ma, Dận Trinh khen ngợi Niên Canh Nghiêu một phen, rồi dắt Cáp Bố Đà cùng hắn bỏ đi. Đường Hiểu Lan nghe rất rõ ràng, vừa kinh vừa sợ, miệng kêu hoảng lên bị Liễu Ân dùng thủ pháp điểm huyệt đánh ngất, trong mờ màng chàng thấy có một bà già cõng một đứa trẻ bỏ chạy, sau đó thì chàng bất tỉnh nhân sự. Giờ đây thì Lữ Tứ Nương cứu tỉnh chàng, khi nghĩ lại chàng mới đoán chắc rằng đứa trẻ ấy chính là Phùng Lâm, Đường Hiểu Lan chịu ơn lớn của Phùng Quảng Triều, bởi vậy mới thúc giục Lữ Tứ Nương mau đi cứu. Chàng không ngờ rằng lúc này Phùng Lâm đã bị vợ của Hàn Trọng Sơn bắt đi được ba mươi dặm.
Dịch Lan Châu đã nghe tất cả những lời Đường Hiểu Lan nói, bà ta đánh gấp kiếm chiêu, đẩy bọn Thiên Diệp Tản Nhân thối lui mấy bước, kêu lớn: “Chắc chắn Niên gia ở gần đây, các ngươi hãy dắt Hiểu Lan đi, ta sẽ đuổi theo sau”. Lữ Tứ Nương đoán Dịch Lan Châu chắc chắn có thể hạ được hai tên ma đầu này nên vâng một tiếng, cùng hai người Đường, Bạch chạy ra khỏi rừng. Dịch Lan Châu đại triển thần oai, thế kiếm như cầu vồng kỳ ảo vô cùng, một mình quần thảo với Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân.
Phép đánh chày của Hàn Trọng Sơn gồm một trăm lẻ tám lộ tuy không bằng Thiên Sơn kiếm pháp nhưng nhờ có thêm chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân, trong nhất thời Dịch Lan Châu cũng không hạ được bọn họ. Lại được một lúc nữa, Dịch Lan Châu tay trái nắm kiếm quyết chỉa thẳng tới, tay phải vung kiếm đánh một chiêu Thám Lệ Thủ Châu, điểm mũi kiếm vào yết hầu của Thiên Diệp Tản Nhân, Hàn Trọng Sơn bổ xuống một chày, bà ta nghiêng mình thâu chiêu, chuyển đâm thẳng thành chém ngang, Hàn Trọng Sơn hạ chày chặn xuống, đánh một chiêu Hoành Vân Đoạn Phong quét vào be sườn của Dịch Lan Châu để cứu Thiên Diệp Tản Nhân. Dịch Lan Châu vẫn không thay đổi kiếm thức, người hơi lách qua, lại đánh ra chiêu Xảo Nữ Xuyên Châm, tay trái phụ lên cánh tay phải chợt tiến mạnh tới một bước, trở lại hất xuống cổ tay của kẻ địch, liên tục đâm ra soạt soạt mấy kiếm, mũi kiếm phóng tới rút lui tựa như độc xà phun nọc, hết chiêu này tới chiêu khác, trong lúc kịch chiến chợt nghe soạt một tiếng ống tay áo của Thiên Diệp Tản Nhân bị cắt mất một mảng. Hàn Trọng Sơn thấy thế, lấy ra một mảnh đạn lưu huỳnh, ném vù một tiếng lên không trung, nhất thời phát ra một màn pháo hoa màu xanh lè, quát lớn: “Sao còn không mau đến!” rồi y vung cây chày chặn cây Du Long kiếm lại, rồi cùng Thiên Diệp Tản Nhân sánh vai rút lui. Dịch Lan Châu chợt nhớ lại, vợ của Hàn Trọng Sơn là Diệp Hoành Ba võ công cũng rất lợi hại. Lòng thầm nhủ, nếu lại thêm một cao thủ, một mình chọi với ba người thắng bại khó đoán. Lại nhớ Thiên Diệp Tản Nhân và bọn Liễu Ân đã có mặt ở đây, vậy tất cả bọn cao thủ của Dận Trinh chắc cũng kéo đến, sợ Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan gặp chuyện bất trắc bởi vậy không tiếp tục đuổi mà để cho Thiên Diệp Tản Nhân cùng Hàn Trọng Sơn chạy ra khỏi rừng.
Lại nói bọn Lữ Tứ Nương chạy ra khỏi rừng được hai ba mươi dặm, quả nhiên thấy có một tòa nhà sừng sững, bức tường xung quanh cao ngất, Lữ Tứ Nương chợt thấy có mấy bóng đen từ sau hoa viên nhảy vọt ra, nói: “Chắc chắn Chung đại hiệp ở trong hoa viên”. Rồi cùng Bạch Thái Quan tung mình nhảy vào tường. Đường Hiểu Lan cũng dùng công phu Hoán chưởng di bộ vọt lên bức tường cao ba trượng. Ba người nhảy vào trong vườn, chỉ thấy gạch đá ngổn ngang, cây cối ngã rạp, rõ ràng ở đây vừa trải qua một trận ác đấu vì thế mới lần tìm theo dấu vết, đến thư phòng của Chung Vạn Đường, cửa phòng đã bị phá tung, Đường Hiểu Lan vừa nhìn vào thì thấy Chung Vạn Đường nằm dưới đất, chàng ta vội vàng chạy vào, cúi xuống kêu: “Chung đại hiệp, Chung đại hiệp!” chàng không thấy trả lời, dùng tay sờ thì người Chung Vạn Đường đã lạnh ngắt, Đường Hiểu Lan bất giác trào nước mắt khóc òa lên!
Một lúc sau Dịch Lan Châu cũng chạy tới, thấy thế kinh hãi, Đường Hiểu Lan mắng: “Cũng tại tên tiểu tặc Niên Canh Nghiêu!” Dịch Lan Châu hỏi: “Sao? Đứa trẻ ấy dám giết cả sư phụ ư?” Đường Hiểu Lan nói: “Đâu chỉ có thế”. Rồi kể lại những chuyện đã nghe trong rừng. Dịch Lan Châu không khỏi thở dài, thầm nhủ: “Thu nhận đồ đệ không thể không cẩn thận, Hối Minh thiền sư nhận nhầm Sở Chiêu Nam, Độc tý thần ni nhận nhầm Liễu Ân đều gây ra sóng gió, Niên Canh Nghiêu tuổi còn nhỏ mà đã lợi hại như thế, sau này chắc chắn sẽ làm nhiều chuyện ác hơn cả Sở Chiêu Nam và Liễu Ân”. Đường Hiểu Lan lại tìm khắp nơi một lượt, không thấy Phùng Lâm, chàng buồn bã nói: “Điệt nữ của tôi đã bị kẻ giặc bắt mất”. Dịch Lan Châu nói: “Ngươi có điệt nữ?” Đường Hiểu Lan kể lại chuyện xưa một lượt, Dịch Lan Châu chợt liền miệng kêu lạ. Đột nhiên bà ta nói với Đường Hiểu Lan: “Ngươi hãy đến Thiên Sơn, ta trả cho ngươi một điệt nữ”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên. Ngay lúc này, chợt nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào, có người dùng búa đập tường.
Chính là:
Thiếu khách trải kỳ biến, kiêu hùng mới ra tay.
Muốn biết sau đó thế nào mời xem hồi sau sẽ rõ.