Ảo mộng trần duyên thâm cung giấu hận sự
Phiêu linh gặp người một kiếm lên Tiên Hà
Đường Hiểu Lan thất kinh, sao người đàn bà này lại biết rõ ràng như thế. Chàng rung giọng nói: “Không cần cởi nữa, trên người tôi đúng là có ba nốt ruồi”. Người đàn bà nói: “Có phải nghĩa phụ của ngươi tên Châu Thanh không?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh, đáp: “Đúng thế”. Người đàn bà chợt khóc òa lên: “Con ơi, con lớn đến thế này sao!” Đường Hiểu Lan nhảy bật dậy: “Cha mẹ tôi đã chết sớm, bà... bà...” chàng vốn muốn nói: “Bà điên rồi sao?” nhưng nhìn ánh mắt thân thương của bà ta chàng không thể nói ra lời.
Người đàn bà chưng hửng, chợt lau nước mắt, cười thảm nói: “Chả trách gì con chẳng biết. Con ngồi xuống đây”. Đường Hiểu Lan lại ngồi xuống. Người đàn bà nói: “Con tưởng rằng cha ruột của con là Đường Vạn Anh sao?” Đường Hiểu Lan nói: “Không phải ông ta thì là ai?” người đàn bà nói: “Là đương kim Hoàng thượng!” Đường Hiểu Lan tựa như bị giáng một gậy, chàng chẳng thể nào nín nhịn nổi, nhảy bật dậy: “Bà nói bậy!” người đàn bà nói: “Con hãy ngồi xuống, nghe ta nói. Có một người cha làm Hoàng đế tuy không tốt lắm nhưng dẫu sao ông ta cũng là cha của con, ta không còn sống được bao lâu nữa. May mà ông trời cho chúng ta gặp lại, ta không thể để cho con mù mờ một đời. Con đừng nhìn ta, con hãy ngồi xuống đây!” nghe ta nói, nghe ta nói!” Đường Hiểu Lan ngồi xuống: “Được, bà hãy nói đi”.
Người đàn bà nói: “Hơn ba mươi năm trước, lúc đó ta chỉ mười sáu tuổi, cả nhà ta sống ở Tây Môn. Ta đã đính hôn, vị hôn phu tên Chúc Gia Thụ, là một quan sai nho nhỏ trong nội vụ, lúc đó Châu Thanh vẫn còn là vệ sĩ trong cung, ba người họ đều là bằng hữu tốt. Ta bị chọn làm tú nữ, nhà nghèo không có tiền đút lót, ta bị đẩy vào trong cung. Lúc đó ta chỉ muốn chết cho xong, nhưng Gia Thụ nói: “Cứ mười năm cung nga sẽ được đào thải một lần, chỉ cần giữ thân trong cung, mười năm sau lớn tuổi, Hoàng thượng sẽ khai ân cho về nhà lấy chồng. Ta nghĩ có nhiều tú nữ vào cung, chỉ cần ta không xuất đầu lộ diện, Hoàng đế cũng chưa chắc chú ý đến ta. Gia Thụ cũng nguyện cho ta mười năm. Nếu ta chết đi há chẳng phải phụ lòng ông ấy sao, thế là ta vào cung.
Vào cung được năm năm, ta chưa từng thấy mặt Hoàng đế, lúc rảnh rỗi ta học gãy đàn, có ngày nọ ta đàn tiểu điệu Giang Nam, nhà chúng ta từ Giang Nam di cư đến Bắc Kinh, từ nhỏ ta đã nghe quen tiểu điệu này. Trùng hợp ngay lúc đó Hoàng đế đi ngang qua nghe tiếng đàn của ta rất thích, đêm ấy đã triệu hành ta. Lúc ấy ta muốn chết cũng không thể chết nổi. Bởi vì phàm những cung nga hậu phi trong cung nếu tự sát thì sẽ liên lụy đến cửu tộc, ta chỉ đành gắng gượng sống cho qua. Lúc đó Châu Thanh đã làm phản, Hầu Tam Biến có lúc hầu hạ Hoàng đế, thường vào nội đình, ta nhờ ông ta báo với Gia Thụ tìm người con gái khác, đừng đợi ta nữa. Nào ngờ Gia Thụ vẫn si tình, hôm sau đã bỏ chức quan, sau đó mới biết ông ta đi tìm Châu Thanh, từ đó không biết ông ta đi đâu nữa, Châu Thanh cũng không gặp ông ta.
Một năm sau con ra đời. Lúc đó Hoàng thượng đã có mười bốn bối lạc, việc lập bị quân đã bắt đầu nổi lên. Theo quy định trong cung, vốn là không cho phép lập Hán nữ làm phi, từ sau khi xảy ra chuyện giữa tiên đế với Đổng Ngạc phi, quy củ càng ngặt nghèo hơn. Các quý phi khác ghen tị với ta, đã nói lời dèm pha trước mặt Hoàng hậu, đầy ta vào lãnh cung, lại còn mưu sát con!”
Đường Hiểu Lan kinh hãi, kêu ồ một tiếng hỏi: “Vậy Hoàng đế có biết không?” người đàn bà cười thảm nói: “Trong cung phi tần đâu chỉ ngàn người, những người được ông ta triệu hạnh cũng chẳng biết bao nhiêu, Hoàng đế nào nhớ đến ta. Ta cũng chẳng rõ ông ta có biết Hoàng hậu đày ta vào lãnh cung hay không”. Đường Hiểu Lan chỉ thấy cõi lòng lạnh như băng, chàng rùng mình khẽ nói: “Thế là người ở lãnh cung hơn hai mươi năm”. Người đàn bà gật đầu: “Ta cũng đã quen. Lúc đầu có người canh giữ, không cho ta bước ra khỏi gian nhà đá này, lâu ngày Hoàng hậu chết đi, ta cũng già, chẳng ai để ý đến ta nữa. Vì thế họ để cho ta tự sinh tự diệt, mỗi ngày đều có người đưa hai bữa cơm, ngoài ra chẳng ai để ý đến ta, ta có thể đi lại tự do trong vườn, nhưng ta đã quen ở lãnh cung. Hàng ngày ta cứ ngồi trong căn nhà này chờ chết!” Đường Hiểu Lan không kìm được nữa, ôm chặt lấy mẹ, khẽ nói: “Khổ thân cho mẹ!”
Người đàn bà thở dài, khẽ vuốt tóc con trai, từ tốn nói: “Quen rồi, quen rồi, nước mắt cũng cạn khô. Không biết là có phải vì nhớ đến con hay không mà mẹ sợ mình chết sớm”. Đường Hiểu Lan khóc lạc cả giọng, người đàn bà nói: “Đừng khóc, cảm tạ trời đất, cuối cùng con đã tới. Nhớ lúc mẹ nhờ Hầu Tam Biến âm thầm đưa con ra khỏi cung, con vẫn chưa tròn tháng, ồ, để tính xem, mẹ cũng không rõ nữa, năm nay con được bao nhiêu tuổi?” Đường Hiểu Lan nói: “Đã hai mươi tám tuổi”. Người đàn bà nói: “Vậy mẹ ở lãnh cung cũng được hai mươi tám năm. Ngày tháng thật dài! Ta cũng không biết mình vượt qua thế nào, sau khi con ra đời, ta đã nhờ thái giám phòng kín sự báo với Hoàng đế, nhưng thái giám lại báo với Hoàng hậu. Ta đợi được vài ngày, không thấy ông ta đến, cũng không thấy người của tông nhân phủ tới, ta biết sự việc không xong, ta cũng hiểu trong hoàng thất có việc cốt nhục tương tàn. Ta rất sợ, vì thế ta lấy món trang sức tặng cho một tiểu thái giám, bảo y bế con ra khỏi cung giao cho Hầu Tam Biến, còn ta thì nói dối rằng con đã chết ỉu. Dù sao Hoàng đế cũng chẳng biết, cũng chẳng có người tra hỏi, ba ngày sau ta đã bị Hoàng hậu đày vào lãnh cung. Người ta gán cho ta cái tội quyến rũ Hoàng đế, làm loạn pháp kỷ tổ tông, thế là hai mươi tám năm đã trôi qua!” Đường Hiểu Lan nghẹn ngào hỏi: “Sau đó thì thế nào? Làm sao con đến được Đường gia?” người đàn bà ngập ngừng nói: “Mẹ quên nói với con, mẹ còn có một muội muội, được Châu Thanh làm mai, lấy một tiêu sư họ Đường. Hầu Tam Biến đưa con đến Đường gia, muội của ta chưa có con cái, bởi vậy coi con như con ruột”. Lúc này Đường Hiểu Lan tựa như mới thoát khỏi cơn ác mộng, lạc giọng kêu: “Té ra di phụ và di mẫu con đã chết thảm”.
Người đàn bà nói: “Đúng thế, mẹ ở trong lãnh cung được hai mươi tám năm Hầu Tam Biến đã âm thầm đến thăm mẹ bốn năm lần, mẹ mới biết có kẻ dò ra con đang sống ở Đường gia, phái người đến bắt nên, giết cả nhà họ Đường. Lần đó Hầu Tam Biến ra ngoài gặp Châu Thanh, Châu Thanh nói đã nhận con làm nghĩa tử, định trao Du Long kiếm cho con sử dụng, bảo rằng Hầu Tam Biến để ý, nếu sau này gặp một thiếu niên sử dụng Du Long kiếm thì chính là con”. Lúc này Đường Hiểu Lan mới hiểu ra toàn bộ sự việc. Té ra khi chàng múa kiếm trên Vạn Lý Trường Thành, Hầu Tam Biến đã nhận ra chàng. Người đàn bà hỏi: “Châu Thanh đâu? Có còn sống không?” Đường Hiểu Lan nói: “Thưa, đã chết được mười hai năm”. Rồi kể rằng mình và di mẫu bị đuổi đến miền tái ngoại, di mẫu chết thảm, Châu Thanh cứu được mình, sau đó đem đến nhà họ Phùng, lại bị bọn Huyết Trích Tử truy bắt, cha con họ Phùng và Châu Thanh đều chết. Người đàn bà rơi nước mắt, nghẹn ngào nói: “Đã bao nhiêu năm nay mẹ không rơi nước mắt, hôm nay phải khóc một trận cho thỏa thuê”. Đường Hiểu Lan nhìn mẹ mà lòng rối bời. Đã bao năm qua chàng căm hận người Mãn đến thấu xương. Từ đầu đến cuối Châu Thanh đều giấu thân thế của chàng, nên chàng cứ tưởng rằng mình là một người Hán, từ lâu đã có chí phản Thanh phục Minh. Không ngờ mình là một bối lạc Mãn Châu, sự việc này tựa như một cái búa tạ đánh vỡ nát con tim chàng, chàng hy vọng đó chỉ là một cơn ác mộng nhưng đáng tiếc lại không phải. Thù hận chủng tộc, thù hận thân thế giằng xé lòng chàng, chàng ngỡ ngàng hỏi: “Mẹ, con tên là gì?” người đàn bà lại vuốt tóc Đường Hiểu Lan, rất lâu mới nói: “Bị nhốt trong lãnh cung nhiều năm, mẹ rất đau lòng, cũng rất căm hận Hoàng đế. Sau đó mẹ ngồi ở đây chờ chết từng ngày, chẳng nghĩ ngợi gì nữa. Ôi, lạnh quá! Nỗi ái hận ngưng kết trong lòng mẹ. Con hãy để cho mẹ suy nghĩ. Con nên là một bối lạc, nhưng mẹ không muốn”. Đường Hiểu Lan đau đớn kêu lên: “Không phải chuyện này, thưa mẹ, con không thể làm một bối lạc. Con không chịu. Không phải việc này”. Người đàn bà nói: “Vậy con muốn gì?” bà ngẩng đầu lên, nhìn thấy ánh mắt đay khổ của con trai, cõi lòng bà rung lên, bà biết con mình đang nghĩ gì. Bà lo lắng con mình sẽ mất mạng trong biển đời. Bà buồn rầu nói: “Thôi, khóc cũng đã đủ, rốt cuộc mẹ con chúng ta cũng gặp lại”.
Bà ôm Đường Hiểu Lan rất lâu mới nói: “Con hãy nghe mẹ đàn, con chưa bao giờ nghe tiểu điệu của quê hương”. Rồi bà bắt đầu khảy đàn, đó là một tiểu điệu rất vui, nhưng tiếng đàn nghe sao đau khổ, Đường Hiểu Lan ngẩn người ra nghe, chợt thấy có một ông già râu tóc bạc phơ bước vào.
Ông già này chính là Hoàng đế Khang Hy. Năm tám tuổi Khang Hy lên ngôi, ở ngôi hơn sáu mươi năm, lúc này cũng gần bảy mươi tuổi. Gần đây ông ta không màng đến việc lớn, trải qua những năm tháng tuổi già trong điện dưỡng tâm, trăng đêm nay thật đẹp, ông ta nổi hứng cùng hai tên thái giám chậm rãi dạo bước trong vườn, nghĩ mình văn sự võ công một đời đều đã lên đến cực điểm, hiếm có vị Hoàng đế nào ở ngôi lâu như mình. Nhưng một đời sắp trôi qua, những văn sự võ công này tựa như áng mây trôi. Ông ta chợt cảm thấy quạnh quẽ, muốn tìm người bạn già trò chuyện, nhưng cũng chẳng còn mấy người. Hoàng hậu và các phi tần mình sủng ái thời trẻ đều đã chết cả. Ông ta chậm rãi bước đi dưới ánh trăng, đến gần tòa lãnh cung bên hồ sen.
Trong lãnh cung vong ra tiếng đàn, hình như ông ta đã nghe ở đâu đó? Ồ, đó là chuyện rất lâu, Hoàng đế Khang Hy lắng nghe tiếng đàn, hỏi thái giám: “Ai ở trong lãnh cung?” thái giám nói: “Nghe nói một cung nga rất già”. Khang Hy ngạc nhiên nói: “Tại sao vẫn chưa thả ra? Giam bao lâu rồi?” thái giám nói: “Bẩm Hoàng thượng, nô tài không rõ lắm. Khi nô tài vào cung, cung nga ấy đã ở đây, cũng thường gãy đàn, chẳng ai màng đến bà ta”. Hoàng đế Khang Hy lắng nghe một hồi, chợt nhớ lại gần ba mươi năm trước mình đã từng triệu hạnh một cung nga, lúc đó nàng ta cũng đàn bài này, sau đó mình quá nhiều việc nên quên bẵng đi. Ông ta nghĩ ngợi một hồi rồi hỏi tên thái giám: “Cung nga này có phải người Hán không?” thái giám nói: “Thưa hình như là thế”. Khang Hy nói: “Có phải mặt trái xoan, chân mày dài hay không?” thái giám nói: “Bẩm Hoàng thượng, nô tài chưa gặp. Bà ta suốt ngày ở trong lãnh cung chứ không ra ngoài”. Tên thái giám kia chen vào: “Đúng thế, Hoàng hậu qua đời, những người canh bà ta cũng rút lui, bà ta vẫn không chịu bước ra ngoài”. Khang Hy nhíu mày nói: “Vậy đã bị nhốt bao lâu? Các người đợi một lát, ta vào xem thử”. Lúc này Đường Hiểu Lan đang lắng nghe tiếng đàn của mẹ, chợt nghe tiếng bước chân, Đường Hiểu Lan vội vàng nấp sau rèm, Hoàng đế Khang Hy đẩy cửa bước vào. Người đàn bà ngẩng đầu lên, hỏi: “Ông là ai?” bốn mắt nhìn nhau, cả hai đều chưng hửng. Khang Hy nhìn một hồi, hỏi: “Bà có phải là Hải Đường không?” người đàn bà chẳng hề nhúc nhích, hờ hững trả lời: “Vạn tuế gia, Hải Đường đã chết vào hai mươi tám năm trước!” Khang Hy nói: “Bà không phải là Hải Đường?” người đàn bà đáp: “Ngài hãy xem tôi có khác gì chết?” Khang Hy thấy bà ta tóc bạc da mồi, nghĩ bụng mình cũng đã già, hai mươi tám năm qua mình làm một Hoàng đế trong nhung lụa, còn bà ta thì chờ chết trong lãnh cung, chợt cảm thấy hối hận, ngồi xuống nói: “Hoàng hậu quá tàn nhẫn, nhốt bà ở đây bao nhiêu năm, tôi chẳng hề biết gì cả. Bà phạm tội gì?” người đàn bà đáp: “Hoàng hậu bảo tôi quyến rũ Hoàng đế, làm bại hoại pháp kỷ”. Khang Hy thở dài: “Thật là thiệt thòi cho bà, nhưng Hoàng hậu đã chết hơn mười năm, món nợ này cũng không cần tính nữa. Ngày mai tôi sẽ thả bà ra ngoài, phong bà làm Thục phi”. Khang Hy tưởng rằng bà ta sẽ quỳ xuống tạ ơn, nào ngờ bà ta vẫn ngồi thừ ra, lạnh lùng nói: “Tạ Hoàng thượng, Hoàng thượng đừng trêu đùa tôi nữa, giờ đây người nhà của tôi đã chết, tôi cũng không sợ chết nữa”. Khang Hy nói: “Ồ, bà nói gì thế? Có phải bà hận tôi không? Chúng ta đều đã già cả, chẳng còn bao nhiêu năm nữa, bà hãy ra ngoài trò chuyện cùng tôi rồi mọi việc sẽ qua thôi”. Người đàn bà vẫn ngồi yên bất động. Khang Hy thở dài, hỏi: “Bà muốn gì?” người đàn bà chợt sáng mắt lên, đột nhiên nói: “tôi muốn ngài để con trai tôi an toàn ra khỏi cung!” Khang Hy chợt giật mình, hỏi: “Cái gì, con trai của tôi? Đêm ấy bà đã có thai? Tại sao thái giám phòng kính sự không cho tôi hay? Bà thật sự có một đứa con trai? Bao nhiêu năm qua nó trốn ở đâu?” người đàn bà nói: “Mấy năm nay nó lưu lạc trên giang hồ, lúc này đang ở đây, trong căn phòng này!” Khang Hy hoàng đế cả kinh.
Đường Hiểu Lan từ sau trướng nhảy ra, kích động kêu lên: “Ông đã hại mẹ tôi chưa đủ hay sao? Ông hãy để mẹ con tôi ra khỏi cung!” Hoàng đế Khang Hy chợt thấy một thiếu niên cao lớn đứng trước mặt mình, ánh mắt lạnh lẽo như băng tuyết, vẻ mặt quả nhiên hơi giống mình, bất giác rùng mình, chợt nhớ lại chuyện mình đã hại chết cha trên núi Ngũ Đài (mời xem tập một của “Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn”), ông ta lạc giọng kêu lên: “Ngươi... ngươi muốn báo thù cho mẹ?” Đường Hiểu Lan rầu rỉ ngồi xuống, xua tay nói: “Ông không chịu thả tôi, vậy hãy ra ngoài đi”. Khang Hy định thần lại, thấy chàng thiếu niên tuy phong trần nhưng chính khí lẫm liệt, bất giác thấy áy náy, nói: “Ngươi cứ ở lại đây”. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi thà chết chứ không ở lại đây!” Khang Hy thở dài: “Ngươi đi cũng tốt”. Ông ta cũng biết mười mấy đứa con trai của mình đang tranh quyền đoạt vị, nếu thêm một đứa là thêm một phần phiền phức. Huống chi Đường Hiểu Lan là con trai của phụ nữ người Hán, bao năm nay lưu lạc trên giang hồ, trong danh sách của phủ tông nhân không có tên chàng, dù muốn nhận lại chàng cũng rất phí công. Nhưng ông ta thấy hai mẹ con của chàng, trong lòng rất ái ngại, lại không muốn cốt nhục của mình phiêu bạt trên giang hồ, nghĩ ngợi một hồi rồi nói: “Vậy ta sẽ cho con một chức quan!” Đường Hiểu Lan nói: “Tôi không cần!” Khang Hy nói: “Vậy con không nhận phụ thân sao?” Đường Hiểu Lan chợt khóc, chẳng thể nào thốt được hai chữ “phụ hoàng”.
Khang Hy nói: “Con ra ngoài định làm gì?” Đường Hiểu Lan nói: “Ông đừng buộc tôi!” Khang Hy nói: “Ta buộc con làm gì?” rồi mắt chợt sáng lên, nói: “Con cũng muốn tranh quyền đoạt vị? Cốt nhục tương tàn?” Đường Hiểu Lan nói: “Người muốn cướp ngôi vua của ông là người Hán, tôi không cần gì cả”. Khang Hy nói: “Nếu con nhất định ra đi, ta cho phép con. Sau này con có đến gặp ta không?” Đường Hiểu Lan nói: “Tôi chỉ muốn phụng dưỡng mẫu thân, đi thật xa, mãi mãi không quấy rầy ông”. Khang Hy càng ái ngại hơn, lại nói: “Cha chấp nhận hứa với con một việc, con có yêu cầu gì?” tựa như ông ta không cho mẹ con họ một điều gì thì trong lòng không yên. Đường Hiểu Lan thầm nhủ rồi nói: “Được, vậy tôi muốn gặp tứ điện hạ, xin y một điều, y chắc chắn làm được”. Khang Hy nhíu mày, nói: “Con có việc cần đến hắn, chả lẽ ta không làm được sao? Có lẽ tứ a ca của con cũng có chút bản lĩnh”. Khang Hy chẳng ưa gì Dận Trinh, ông ta nghĩ chả lẽ đứa con này nhận ra tứ a ca chắc chắn sẽ nối ngôi vua nên mới lấy lòng hắn trước? Lại nói: “Được, ta chấp nhận. Nhưng ta muốn con gần gũi thập tứ a ca. Ta có thể cho con là phó thủ của hắn”. Thập tứ a ca, người Khang Hy cưng nhất đang cầm quân chinh phạt ở phía Tây. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi chỉ muốn gặp tứ điện hạ”. Khang Hy nói: “Được, hãy theo ta ra ngoài, ngày mai ta sẽ cho mẹ con xuất cung”. Rồi nắm tay Đường Hiểu Lan chậm rãi bước ra khỏi lãnh cung, hai thái giám thất kinh, Khang Hy nói: “Đây là thị vệ mới tới, ta đã bảo y vào lãnh cung”. Hai thái giám không dám lên tiếng, lúc này vầng trăng đã lên cao, thái giám nói: “Xin mời Hoàng thượng về nghỉ ngơi, ngày mai có miễn tảo triều không?” Khang Hy nói: “Miễn!” rồi lặng lẽ dắt Đường Hiểu Lan bước ra vườn, băng qua cung Vĩnh Thọ, bước vào điện Dưỡng Tâm. Đường Hiểu Lan kêu ồ một tiếng, kéo Khang Hy đến một góc tối, nói: “Có người dạ hành phóng lên đại điện bên ngoài!”
Khang Hy nói: “Tại sao ta không thấy?” Đường Hiểu Lan trả lời: “Thân pháp của người này rất nhanh!” Khang Hy thầm nhủ: “Nếu là vệ sĩ trong cung, ắt hẳn không dám phóng lên đại điện bên ngoài. Nhưng nếu là người ngoài, lại càng không thể”. Ông ta giật mình rồi khẽ nói: “Con đi từ đây sang trái, men theo lan can bằng bạch thạch trong vườn, đến cho tới tảng đá thứ mười ba, hãy lật tảng đá lên, ở dưới có địa đạo dẫn ra phía sau đại điện bên ngoài, con len lén chui ra, xem thử có người ở đấy không, nếu có hãy nhớ kỹ dung mạo của y”. rồi tháo một mảnh ngọc đưa cho chàng: “Nếu có người phát hiện, hãy đưa vật này ra, cứ nói là thị vệ mới đến”. Đường Hiểu Lan nhận lấy mảnh ngọc, từ địa đạo chui vào đại điện, nấp sau góc cột, chợt thấy có hai người bước vào, họ ngẩng đầu lên nhìn, rồi ghé tai nhau nói nhỏ điều gì đấy. Đường Hiểu Lan cũng ngẩng đầu lên, thấy bên trên có tấm biển lớn ghi bốn chữ “Chính đại quang minh”, Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Hai người này xem gì trên tấm biển thế?” đợi một lát sau, cả hai người lại cúi đầu bàn bạc một hồi, sau tấm biển chợt thò ra một cái đầu, Đường Hiểu Lan vừa nhìn, suýt nữa đã kêu lên, té ra có một đứa bé gái nấp sau tấm biển, người đó chẳng phải ai khác mà chính là Phùng Lâm!
Té ra hôm ấy Phùng Lâm dắt Dận Đề thăm bệnh Dận Trinh, đi ngoằn ngoèo quăn co một hồi, cô bé đưa Dận Đề lên lầu sách, đẩy cửa một căn phòng, nói: “Tứ điện hạ dưỡng bệnh ở đây”. Dận Đề thò đầu vào nhìn, chợt thấy bên trong có tiếng xì xì, trong phòng rắn lớn rắn nhỏ bò từng đàn. Phùng Lâm kêu thét lên: “Tôi đã mở nhầm cửa phòng!” rồi lao bổ tới, cùi chỏ đột nhiên thúc vào eo Dận Đề, Dận Đề tựa như trúng chùy sắt, đau đớn kêu lên, Phùng Lâm lộn người xuống lầu. Rắn trong phòng phóng vút ra, Dận Đề sợ quá ngất xỉu.
Sau khi Dận Đề ra đi, Hàn Trọng Sơn và Thần Ma song lão trách cô bé: “Sao con lại làm càn như thế?” Phùng Lâm nói: “Việc gì phải sợ, con chỉ là một đứa nha đầu, khi y trách mắng tứ điện hạ, các người cứ bảo trong phủ có hàng trăm nha đầu, biết là ai? Vả lại dù huynh đệ họ tranh luận trước mặt Hoàng thượng, Hoàng thượng cũng chẳng tin một người to lớn như thế mà bị một đứa trẻ đánh ngất”. Hàn Trọng Sơn nói: “Hừ, không ngờ ả nha đầu nhà ngươi lại lợi hại đến thế!” trong lòng thầm nhủ: “May mà Thần Ma song lão đã biết trước, dùng thánh dược khiến nó mê mẩn, không thể nhớ được những việc trước kia chứ nếu không khó mà lừa được nó”.
Hàn Trọng Sơn và Thần Ma song lão bàn bạc một hồi, đang định sai người gọi Tứ bối lạc về kinh, Tứ bối lạc Dận Trinh đã chợt quay về. Suốt một ngày lo lắng, đột nhiên trút được gánh nặng, Hàn Trọng Sơn cười rằng: “Nếu đại a ca dám bảo tứ điện hạ tự tiện xuất cung, tứ điện hạ sẽ bảo y vu khống”. Dận Trinh hỏi rõ tình hình, biết đó là mưu đồ của Dận Đề nên nghĩ ra một chuyện, té ra nhà Thanh truyền ngôi không theo thứ tự lớn nhỏ, Hoàng đế sẽ để lại di chiếu chỉ định một người đặt sau tấm biển “Chính đại quang minh” trong cung Càng Thanh. Lần này Tứ bối lạc vội vàng về kinh chính là vì nghe quốc cựu Long Khoa Đa báo tin Hoàng đế đã lập di chiếu, còn chỉ định ai thì không biết.
Dận Trinh liền cho các tử sĩ tâm phúc của mình biết việc này. Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Nếu thế chúng ta phải đánh cắp di chiếu”. Dận Trinh nói: “Đánh cắp không phải là cách, Hoàng thượng phát hiện di chiếu bị mất sẽ viết lại, vả lại cũng chắc chắn nghi ta. Chỉ cần đánh cắp để xem thử ai sẽ là người nối ngôi”. Thế rồi bọn Thiên Diệp Tản Nhân, Liễu Ân, Cáp Bố Đà đòi đi. Dận Trinh nói: “Lẻn vào cung Càng Thanh xem di chiếu không phải là chuyện tầm thường. Không nên đi quá nhiều người, chỉ cần một hai người có khinh công giỏi là được”. Luận về khinh công Thiên Diệp Tản Nhân cao nhất, Phùng Lâm lắng nghe chợt nói: “Tôi muốn đi cùng Thiên Diệp bá bá”. Bát Tý Thần Ma nói: “Ngươi đi làm gì?” Thiên Diệp Tản Nhân nghĩ, Phùng Lâm người nhỏ nhắn, sẽ dễ dàng leo lên tấm biển, vả lại khinh công của cô bé còn hơn cả Đại Lực Thần Ma, liền nói: “Được, ta dẫn ngươi đi. Ngươi không được làm càn đấy nhé”.
Lại nói con trai trưởng của Khang Hy là Dận Đề trở về phủ, đã tỉnh dậy, trong lòng rất căm tức. Chợt nghe báo Đại học sĩ Vương Dịch Thanh đến bái phỏng, Vương Dịch Thanh là người cùng phe Dận Đề, được Khang Hy tin dùng như quốc cựu Long Khoa Đa, hôm nay y mới biết việc Hoàng đế lập di chiếu nên vội vàng đến báo. Dận Đề và các tử sĩ tâm phúc bàn bạc, cũng nghĩ cách như Dận Trinh, phái ba vệ sĩ khinh công cao cường đến xem lén di chiếu. Đó chính là hai đại hán mà Đường Hiểu Lan thấy.
Ba tên vệ sĩ của Dận Đề bàn bạc một hồi, hai người canh cửa, một người vào điện leo lên, chợt thấy ở phía sau tấm biển có ánh sáng lóe lên, hai mũi phi đao đã cắm vào, y ngã sầm xuống. Phùng Lâm phóng vọt ra khỏi mái, nhảy lên mái ngói, rồi có người kêu lớn: “Có thích khách!” đó chính là kế giá họa giang đông của Thiên Diệp Tản Nhân, khi bọn thị vệ đại nội chạy tới, y và Phùng Lâm đã chạy qua điện Anh Hoa rồi nấp trên Cảnh Sơn.
Đường Hiểu Lan vội vàng chạy ra, chỉ thấy bên ngoài cung Càng Thanh đao kiếm sáng choang. Chàng chạy ra ngoài điện dưỡng tâm, Khang Hy từ xó tối thò đầu ra, định gọi chợt thấy bóng người phóng như bay, hầu như chạy đến cùng lúc với Đường Hiểu Lan. Tên thái giám kêu: “Ai dám kinh động thánh giá?” người ấy cười lớn, gằng giọng nói: “Hừ, ngươi chính là Hoàng đế!” rồi vỗ vù một chưởng tới Khang Hy, hai tên thái giám nhảy bổ tới cứu, cả hai bị đánh chết ngất. Người ấy quét chưởng xuống, tung chân trái lên, tình cha con trỗi dậy, Đường Hiểu Lan rút soạt thanh bảo kiếm, người ấy kêu hừ một tiếng phóng vọt người lên, Truy Phong kiếm pháp của Đường Hiểu Lan nhanh nhạy tuyệt luân, tấn công liên miên, người ấy tay không đánh được mấy chiêu, Khang Hy đã lẩn vào trong điện dưỡng tâm.
Người ấy gầm một tiếng, chưởng pháp chợt thay đổi dồn ra cuồn cuộn, lao bổ tới trong luồng kiếm quang, hoàn toàn như muốn liều mạng, Đường Hiểu Lan thấy Khang Hy đã nấp, cũng thâu kiếm lại nhảy ra khỏi vòng, nào ngờ thân pháp của người này rất nhanh, Đường Hiểu Lan tung người nhảy vọt, y thừa thế đuổi theo, chộp lấy vai của chàng, hạ giọng nói: “Lãnh cung ở đâu?” Đường Hiểu Lan giật mình, vội dùng tuyệt chiêu cứu mạng chồm người về phía trước, trở tay đâm soạt một kiếm từ dưới be sườn ra, nếu người ấy không buông tay sẽ bị kiếm đâm vào bụng.
Người này không ngờ kiếm pháp của Đường Hiểu Lan lại lợi hại đến thế, thế là y buông tay nhảy vọt ra ba trượng, Đường Hiểu Lan cũng bị chưởng lực của y đánh loạng choạng thối lui đến bảy tám bước mới ngừng lại được, vai đau nhói như lửa đốt.
Đường Hiểu Lan không biết rằng, người này chính là vị hôn phu Chúc Gia Thụ của mẫu thân chàng, ông ta mất tích hơn ba mươi năm, té ra là phiêu bạt trong giang hồ, tìm thầy học nghệ, cuối cùng trở thành môn hạ của bậc danh túc phái Chung Nam là Võ Thành Hóa, khổ học hơn mười năm, hai môn quyền kiếm đều đã có thành tựu. Sau khi học thành đã hai phen đến kinh sư, gặp Hầu Tam Biến, biết Hải Đường đã bị đày vào lãnh cung càng thêm đau lòng. Ông ta vốn muốn vào cung, nhưng Hầu Tam Biến đã cố gắng khuyên lơn. Hầu Tam Biến nói: “Võ công của ông tuy cao nhưng cao thủ trong cung nhiều như mây, nếu lỡ có việc gì xảy ra, phải rằng sẽ uổng mạng, vả lại còn hại Hải Đường”. Thế rồi Chúc Gia Thụ mới buồn bã bỏ đi.
Nhưng ba mươi năm trôi qua, Chúc Gia Thụ vẫn chưa nhụt chí. Ông ta nghĩ bụng mình và Hải Đường đều đã già, nếu không gặp nhau nữa chắc phải đợi kiếp khác, bởi vậy mới liều mạng vào cung, không ngờ ngay trong đêm ấy, hai bối lạc đều phái thị vệ đến, mà Đường Hiểu Lan cũng có trong cung.
Lại nói Chúc Gia Thụ bị Đường Hiểu Lan đánh lùi, chỉ thấy trong cung Càng Thanh đao kiếm sáng loáng, vệ sĩ đại nội chạy ùa tới, ông ta chọn một lối vắng, vòng qua hòn giả sơn, tóm được một tên thị vệ kéo vào bên trong, lột hết áo quần mặc vào rồi nghênh ngang bước ra, bất giác đã đến hồ sen trước lãnh cung, chợt thấy một bầy cung nữ khiêng một cái giường tre, trên giường có một người đàn bà đắp vải trắng.
Người đàn bà này chính là kẻ Chúc Gia Thụ mong nhớ hơn ba mươi năm nay, từ lúc Đường Hiểu Lan đi theo Khang Hy, bà ta khóc một hồi rồi lại cười một hồi, chợt thấy vạn niệm giai không, bao nhiêu sức lực tản mát, thế là té soài xuống đất.
Bọn thái giám đã biết Khang Hy đích thân vào lãnh cung, bọn chúng là những kẻ xu phụ quyền thế, sau khi Khang Hy bỏ đi, vội vàng bẩm cáo với nữ quan quản lý lãnh cung, nữ quan này đến thăm dò, phát hiện Hải Đường đã chết, sau khi bàn bạc thì quyết định dời bà ta ra khỏi lãnh cung, sau đó bẩm cáo với nhà vua.
Chúc Gia Thụ từ ven hồ chạy qua, gặp phải đám cung nữ này, cung nữ quát: “Ai mà chạy bừa như thế?” Chúc Gia Thụ ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy người đàn bà nằm trên giường tre phủ khăn trắng đầu tóc đã bạc trắng, sắc mặt rất đáng sợ, hai bên trái lộ ra ngoài, ngón tay cứ như móng gà, bất giác rùng mình, trong lòng thầm hối hận. Hơn ba mươi năm không gặp, Hải Đường là người ngọc vẹn toàn trong lòng ông ta, ông ta gặp mà không biết, nằm mơ cũng không ngờ rằng bà già mặt xấu xí kia chính là người tình trong mộng của mình.
Hải Đường chợt khẽ hé mắt, Chúc Gia Thụ đã vượt qua.
Lúc này hai tên vệ sĩ bị Dận Đề phái đi đã bị bắt, một trong hai tên đã trúng Đoạt Mệnh thần đao của Phùng Lâm trước, khi ác đấu lại dùng lực quá độ, cho đến khi sắp bó tay chịu trói thì độc phát thân vong.
Hoàng đế Khang Hy đích thân tra hỏi, mới biết chúng là người của Dận Đề, thế là cả giận lập tức hạ chiếu phế phong hiệu bối lạc của Dận Đề, giao cho tông nhân phủ tra xét.
Đêm ấy trong cung rối như canh hẹ, đến canh tư mọi việc mới yên. Khang Hy giữa Đường Hiểu Lan lại ở điện dưỡng tâm nghỉ một đêm, sáng hôm sau thái giám quản sự trong cung đến báo rằng cung nga trong lãnh cung đã chết đêm qua, Khang Hy nghe thế than thở không thôi, dặn lấy lễ thục phi hậu tán, gọi Đường Hiểu Lan vào thư phòng, buồn bã nói: “Con không cần đợi mẹ của con nữa, đêm qua bà ta đã qua đời”. Đường Hiểu Lan vốn đã đau lòng, lúc này chàng đứng chết sững, muốn khóc mà chẳng rơi được nước mắt, một lúc lâu sau mới hồi phục, kêu lên: “Tôi đi đây!” Khang Hy nói: “Con đợi một lát”. Rồi kêu quan giữ cửa vào, viết một tấm chiếu thư giao cho Đường Hiểu Lan, bảo quan giữ cửa dẫn chàng đến gặp Dận Trinh.
Đường Hiểu Lan thẫn thờ bước ra khỏi cửa cung, đến trước phủ của Dận Trinh, quan giữ cửa đẩy chàng, nói: “Đến rồi”. Lúc này chàng mới nhảy xuống ngựa như tỉnh cơn mơ. Quan giữa cửa thầm nhủ: “Hoàng thượng già đến nỗi lẩm cẩm, làm sao có thể chọn kẻ khờ khạo này làm vệ sĩ”. Đường Hiểu Lan đã tẩy thuốc dị dung ở trong cung, hai tên ma đầu vừa thấy chàng thì thất kinh. Nhưng chàng được quan giữ cửa dẫn đến đây, nghe quan giữ cửa nói chàng là thị vệ được Hoàng đế tin dùng, chỉ đành dắt chàng vào gặp Dận Trinh.
Dận Trinh thấy Đường Hiểu Lan cũng rất ngạc nhiên, Liễu Ân và Cáp Bố Đà đứng hầu một bên, mở trố mắt ra. quan giữ cửa quay về, Liễu Ân nén không được nói: “Đường Hiểu Lan, ngươi đang giở trò gì thế?” Dận Trinh xua tay, mỉm cười nói: “Bậc tài cao như Đường huynh phải xuất thân từ chính đồ. Đường huynh vào cung khi nào? Hoàng thượng có khỏe không?” Đường Hiểu Lan đáp: “Khỏe” chàng ngập ngừng rồi chợt nói: “Xin bối lạc hãy cho tả hữu lui ra”. Dận Trinh biến sắc nói: “Hai người này đều là tâm phúc, Đường huynh có việc gì cứ nói”. Đường Hiểu Lan nói: “Hai người chúng ta nói chuyện riêng vẫn tốt hơn”. Liễu Ân nổi sùng, nói: “Ngươi thật vô lễ!” Dận Trinh đảo mắt, đang định bảo Liễu Ân và Cáp Bố Đà lui xuống, chợt nghe ở dưới lầu có tiếng ồn ào, có người quát có “thích khách”, Liễu Ân cầm cây thiền trượng đứng bật dậy, nói thì chậm, sự việc diễn ra lúc đó rất nhanh, chỉ nghe gió phả vào mặt, cánh cửa thư phòng đột nhiên bật ra, một người cầm trường kiếm lao bổ vào! Đường Hiểu Lan nhìn lại, chính là người đêm qua. Chúc Gia Thụ vẫy một kiếm, đánh một chiêu Bạch Hồng Quán Nhật đâm về phía Dận Trinh, Liễu Ân dựng cây thiền trượng, chỉ nghe keng một tiếng, kiếm của người ấy lệch qua một bên, đâm vào be sườn của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan thối lui đảo bước, vẫn không trả đòn, Cáp Bố Đà đã quét ngang chưởng trái, chưởng phải đấm ra, tấn công vào chỗ trống của y, người ấy tiếp một chiêu, biết công lực của Liễu Ân và Cáp Bố Đà hơn mình, đánh hờ ra hai kiếm, đột nhiên lại nhảy tọt ra cửa sổ. Cáp Bố Đà đuổi theo, Đường Hiểu Lan còn đang chần chừ, quát: “Ngươi có phải là thị vệ đại nội không, sao vẫn không trả đòn?” rồi y kéo phăng Đường Hiểu Lan xuống lầu, chàng không kịp đề phòng nên ghìm lại chẳng được, lúc này đã nghe tiếng binh khí giao nhau, có người kêu hoảng!
Đường Hiểu Lan nheo mắt nhìn, không khỏi thầm kêu khổ, dưới sân kiếm quang loang lóang, bóng người nhốn nháo, Quan Đông tứ hiệp đã tới. Điều tệ hơn là có Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh dắt con gái đến ác đấu, Dương Trọng Anh vừa thấy Đường Hiểu Lan thì kêu hoảng lên một tiếng, phóng vọt ra, Đường Hiểu Lan kêu: “Sư phụ, là con!” Chúc Gia Thụ kêu lớn: “Y là gian tế!” Dương Trọng Anh mặt biến sắc, vỗ vù ra một chưởng!
Té ra từ lúc ác đấu với hai tên ma đầu ở Mang Sơn, Quan Đông tứ hiệp đã quyết lòng rèn luyện võ công, muốn có một ngày tỉ thí trở lại với Song ma, nhưng Song ma đang trong phủ Tứ bối lạc, Quan Đông tứ hiệp không dám vào bừa. Lần này họ nghe Tứ bối lạc đã dắt một đám cao thủ ra ngoài chỉ có Song ma và một người họ Hàn trấn thủ. Lúc này công phu độc môn của Quan Đông tứ hiệp cao hơn trước rất nhiều bởi vậy họ đến đấy với mục địch báo thù.
Vừa khéo Dương Trọng Anh và Dương Liễu Thanh cũng đến kinh sư để dò tìm tung tích Đường Hiểu Lan. Một ngày nọ họ gặp Chúc Gia Thụ. Mấy ngày sau lại gặp thêm Quan Đông tứ hiệp, Quan Đông tứ hiệp rủ Chúc Gia Thụ cùng đến đấu Song ma, lúc đó Chúc Gia Thụ đang muốn vào hoàng cung nên khéo léo từ chối, Quan Đông tứ hiệp rất không vui. Khi Chúc Gia Thụ thất bại trở về, họ hỏi kỹ thì mới biết Chúc Gia Thụ có việc đau lòng như thế. Thế là Chúc Gia Thụ và Quan Đông tứ hiệp cùng cha con Dương Trọng Anh ngay hôm ấy đến phủ Tứ bối lạc tìm hai tên ma đầu.
Đường Hiểu Lan thấy sư phụ không trả lời, chỉ thấy chưởng phong phả vào mặt, chàng vội vàng né tránh, chưởng pháp của Dương Trọng Anh rất kỳ dị, ông ta tiến tới một bước, hai chưởng đẩy ra, Đường Hiểu Lan né tránh không kịp, đành đưa chưởng ra phản kháng theo bản năng, hóa giải chưởng thế của Dương Trọng Anh rồi phóng vọt lên hơn một trượng, Dương Trọng Anh thấy võ công của chàng tinh tiến, Dương Liễu Thanh kêu lớn: “Cha!” Dương Trọng Anh ngừng lại thu chưởng, Cáp Bố Đà vỗ vù tới một chưởng đẩy Dương Trọng Anh thối lui đến mấy bước. Dương Liễu Thanh vội vàng thi triển tuyệt kỹ thần đạn yểm hộ cho cha già.
Đường Hiểu Lan đột nhiên gặp sự biến, chàng hoang mang chẳng biết làm thế nào. Huyền Phong đạo trưởng rất nóng nảy, hỏi Chúc Gia Thụ: “Ông nói có thật không?” Chúc Gia Thụ nói: “Hôm qua y đi với lão Hoàng đế, nếu tôi thoát không nhanh đã sớm mất mạng dưới kiếm của y!” Huyền Phong đạo trưởng bừng bừng cả giận, chợt nghĩ: “Võ công của Chúc Gia Thụ chẳng kém gì mình, sao chẳng phải là đối thủ của Đường Hiểu Lan?” rồi lướt tới, tay phải cầm trường kiếm, tay trái cầm gậy nhất tề đánh ra. Đường Hiểu Lan biết Huyền Phong ra tay rất hiểm hóc, chẳng thể nào né tránh được, chỉ đành rút kiếm chống trả, chiêu số của Huyền Phong vốn là nửa hư nửa thực, ông ta có ý thử võ nghệ của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan không biết điều này nên đã thi triển loại kiếm pháp phòng thân huyền diệu của Thiên Sơn ra, gạt gậy sắc của Huyền Phong ra ngoài, lúc này Huyền Phong mới biết Chúc Gia Thụ chẳng phải nói dối, kiếm chiêu của ông ta chợt thay đổi, chẳng giả vờ tấn công nữa mà đâm vào các chỗ yếu hại trên người Đường Hiểu Lan.
Đường Hiểu Lan liên tiếp chặn mấy kiếm, kêu lớn: “Sư phụ, sư bá, con có lời muốn nói”. Huyền Phong quát: “Ngươi là tên phản đồ vong ơn phụ nghĩa, ai nghe lời ngươi nói”. Thế rồi kiếm chiêu đánh gấp tựa như gió quét. Đường Hiểu Lan né tránh chậm chạp, bị Huyền Phong đâm xuyên một kiếm vào ống tay áo, chàng buộc phải quét ngang thanh trường kiếm từ trên xuống dưới, Đường Hiểu Lan chỉ vốn có ý phòng thân chứ cũng không biết rằng uy lực của chiêu số này quá lợi hại, đã phát ra làm sao thu lại dễ dàng, chỉ nghe keng một kiếng, cây gậy sắt trên tay trái của Huyền Phong đã bị Du Long kiếm chặt gãy một đoạn! Huyền Phong chưng hửng, Đường Hiểu Lan nhảy vọt ra, nào ngờ trước mắt lóe lên, mùi rượu xộc vào mũi, Lang Nguyệt thiền sư phun rượu thành vòi phóng thẳng vào hai mắt của Đường Hiểu Lan. Đường Hiểu Lan vội nghiêng đầu né tránh, Lang Nguyệt thiền sư phun vèo một tiếng, vòi rượu biến thành giọt rượu cứng như đạn chì, trên áo của Đường Hiểu Lan bị bắn lủng như tổ ong, Vạn Lý Truy Phong Liễu Tiên Khai đã phóng người tới nhanh như bắn, đột nhiên tóm rách ống tay áo của Đường Hiểu Lan, bức thư của Hoàng đế đã bị cướp mất.
Đường Hiểu Lan đứng ngây người ra, lắp bắp: “Tôi... tôi...” lời lẽ của chàng nghe nghẹn ngào bi thảm, Dương Liễu Thanh nói: “Tôi thế nào?” nàng vừa yêu vừa hận, giơ cao đạn cung bắn ra, Đường Hiểu Lan đang rối trí, cũng không biết đường né tránh, Liễu Ân hòa thượng gầm lớn, múa cây thiền trượng một vòng bắn ngược đạn trở về, y thấy Dương Liễu Thanh xinh xắn, ác niệm chợt nảy ra, y điểm cây thiền trượng xuống đất phóng vọt người lên, tay trái mở ra chụp về phía Dương Liễu Thanh! Huyền Phong cả kinh, múa kiếm đâm thẳng vào huyệt Thiên Liêu ở phía sau ót của Liễu Ân. Liễu Ân lấy trượng làm trụ, gót chân xoay một vòng vẫn không buông ra, tay trái chụp vào bối tâm của Dương Liễu Thanh. Kiếm pháp của Huyền Phong nhanh như chớp, ông ta không thèm thu kiếm mà vẫy mũi kiếm một cái, hóa thành chiêu số Dương Chi Trích Lộ, đâm vào huyệt Tinh Túc sau ót của Liễu Ân, Liễu Ân thấy kiếm pháp ông ta tinh diệu, không dám làm càn, thế là xoay người múa trượng tiếp chiêu. Liễu Ân công lực thâm hậu, trượng phong như đao, Huyền Phong chặn được mười chiêu đã biết không chống đỡ nổi, lúc này Tung Sơn đã trở nên hỗn loạn, người phía Tứ hiệp đã lọt xuống thế hạ phong, Dương Liễu Thanh càng nguy ngập hơn, Huyền Phong kêu lớn: “Đi!” rồi chia nhau đâm hai kiếm về Tát Thiên Thích, Tát Thiên Đô, cứu bọn Liễu Tiên Khai thoát ra. Dương Trọng Anh dắt theo con gái, nhờ có Chúc Gia Thụ yểm hộ ở phía sau cũng nhảy vọt ra khỏi vách tường. Liễu Ân đảo ngược cây thiền trượng, đang đuổi theo. Dận Trinh đã quát lớn: “Cứ để cho bọn chúng đi!” té ra khi Dận Trinh nghe được Thiên Diệp Tản Nhân kể lại việc xem di chiếu, y sợ rằng việc này xé ra to, các bối lạc khác sẽ thừa cơ tấn công nên mới gọi bọn Liễu Ân vào.
Đường Hiểu Lan lúc này lòng rối như tơ vò, khi biết về thân thế của mình chàng đã đau đớn, không ngờ hôm nay lại bị sư phụ hiểu nhầm, chàng muốn chết mà chẳng xong. Dương Trọng Anh và Quan Đông tứ hiệp đều có ơn lớn với mình, nếu chàng đột nhiên chết đi, tiếng xấu này thật khó rửa. Chàng từ từ hạ kiếm xuống, Liễu Ân cười lạnh nói: “Kẻ địch đã lui, ngươi còn đứng đây làm gì?” Đường Hiểu Lan bi phẫn vô cùng, chàng tung người vọt lên, quát: “Ta thà chết cũng không cứu các người”. Rồi phóng ra khỏi tường.
Đường Hiểu Lan thẫn thờ chạy ra cửa Bắc, trên tường thành chợt có người kêu: “Hảo tiểu tử, ngươi dám đuổi theo!” Đường Hiểu Lan thất kinh, người đó chính là Dương Trọng Anh, số là bọn Huyền Phong chạy ra khỏi hoàng phủ, cũng chạy theo con đường này trở ngược ra thành, Dương Trọng Anh đoạn hậu ở phía sau, chợt thấy một mình Đường Hiểu Lan chạy theo, chỉ tưởng rằng chàng truy kích mình.
Đường Hiểu Lan rung giọng kêu: “Sư phụ, hãy để con nói rõ”. Dương Liễu Thanh đang chạy ở phía trước, nghe tiếng chợt dừng lại. Nàng thấy lời lẽ của Đường Hiểu Lan rất đau khổ, liền bảo: “Cứ để y nói, chắc là có ẩn tình”. Huyền Phong nói: “Không thể đem tính mạng ra đùa!” rồi lớn giọng nói: “Dương huynh, đề phòng có người đuổi theo!” Dương Trọng Anh kéo cây đạn cung bắn ra hai tiếng, Đường Hiểu Lan đang thất thần, chẳng có ý né tránh, một viên bắn trúng vào trán một viên trúng vào cánh tay thế là té ngửa xuống đất. Chỉ nghe Dương Trọng Anh quát lớn: “Ngươi đã phạm vào đại giới của sư môn, ta không tha cho ngươi!” khi Đường Hiểu Lan đứng dậy, bọn Dương Trọng Anh đã đi xa.
Đường Hiểu Lan lủi thủi đi một mình, chàng nhớ lại giới luật của phái Tung Dương rất nghiêm ngặt, khi chàng mới vào môn đã nghe đọc mười hai giới điều này, trong đó điều thứ tư là không gần quan phủ, điều thứ mười hai là không được khi sư diệt tổ, thế nhưng nay chàng đã phạm tất cả. Nếu Dương Trọng Anh không sợ có bọn Liễu Ân đuổi ở phía sau chàng đã bị bắt. Nghĩ đến đây, chàng không lạnh mà rung. Chàng sợ rằng nỗi oan này mãi mãi chẳng thể nào rửa sạch.
Về đến Tây Sơn, chàng vẫn mãi mê suy nghĩ, trong biển người mênh mông chàng chẳng có người thân, cả người bạn để dốc lòng mà chẳng có, không khỏi thấy bi thương, suy nghĩ lại, chàng chợt nhớ đến Lữ Tứ Nương, chàng và Lữ Tứ Nương tuy chỉ gặp mặt mấy lần nhưng nàng là con gái của bậc danh nho, kiến thức bất phàm, rất quan tâm đối với mình, chàng suy đi tính lại, hình như trong khoảng trời đất này chàng chỉ có thể tin tưởng một mình Lữ Tứ Nương. Thế là rời khỏi kinh sư đến miền Triết Giang. Trên đường đi thường gặp các nhân vật võ lâm chặn đánh, té ra Dương Trọng Anh đã truyền việc Đường Hiểu Lan phản sư ra khắp giang hồ, may mà những người chặn đánh chàng chẳng phải hảo thủ, Đường Hiểu Lan mới an toàn đến Triết Giang. Tới nơi chàng mới biết năm năm trước Thẩm Tại Khoan bị bắt, Lữ Bảo Trung chết thảm, Lữ Tứ Nương đã dời đi nơi khác. Chàng dò hỏi mà chẳng biết Lữ Tứ Nương đang ở đâu, may mà Cam Phụng Trì rất nổi danh, vừa khéo cũng có ở Triết Giang, Đường Hiểu Lan đánh liều đến bái phỏng, Cam Phụng Trì tuy không tin nhưng rất thông tình đạt lý, thế là liền cho chàng biết nơi ở của Lữ Tứ Nương. Nhưng ông ta vẫn đề phòng chàng có vây đãng nên âm thầm đi theo phía sau cho đến Tiên Hà lĩnh, thấy một mình chàng lên núi mới thôi.
Đường Hiểu Lan ngồi bên dòng thác kể từ đầu đến cuối, bao nhiêu nỗi ấm ức trong lòng chàng đều được giải bày. Hai người đã nói được nửa ngày, Lữ Tứ Nương mỉm cười đứng dậy, kéo Đường Hiểu Lan leo lên một tảng đá, chỉ xuống núi cười nói: “Đệ lên cao nhìn xuống thử”. Đường Hiểu Lan cũng nghe lời leo lên tảng đá nhìn xuống, chỉ cảm thấy trong tầm mắt mình đồng ruộng mênh mông, bất giác lòng nhẹ nhõm, nỗi phiền muộn tiêu tan. Lữ Tứ Nương nói: “Đời người có quá nhiều chuyện không như ý, cần gì phải giữ trong lòng”. Rồi mỉm cười, Đường Hiểu Lan chợt thấy đám mây đen trong lòng đã bị nụ cười của nàng xua tan.
Chính là:
Núi sông như tranh vẽ, cung quắc thắng tu mi.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
Luận thế đàm từ một lời hiểu đại nghĩa
Tìm hiểu bí mật du hiệp lộ thần oai
Lữ Tứ Nương lại cười nói: “Nghe nói khi đệ ở nhà Dương Trọng Anh, ban ngày học võ ban đêm luyện văn, đã từng viết một bài từ ‘Bách hoa lệnh’?” Đường Hiểu Lan đỏ mặt, ấp úng nói: “Bài từ này chẳng qua là đùa lúc còn thiếu niên, chẳng hay ho gì cả”. Té ra chàng viết bài từ này là vì nhớ Lữ Tứ Nương, không biết sao nàng đã biết, nghe nàng nhắc tới thì trong lòng lo âu. Lữ Tứ Nương nói: “Ta đã từng đọc bài từ này của đệ tuy cũng có ‘từ vị’ nhưng quá đau thương, người trẻ tuổi không nên như thế. Mấy câu mở đầu của đệ ‘Phiêu bình quyện lữ, toán mang mang nhân hải, bằng hữu tri phủ?’ nghe rất quạnh quẽ đau lòng. Thực ra trong biển người mênh mông, có rất nhiều người tri kỷ, vả lại chỉ cần đệ hành động hợp với nghĩa, cần gì lo không có người tri kỷ?”
Lữ Tứ Nương chỉ lấy từ luận thế, nửa câu chẳng nhắc đến tình nhi nữ. Đường Hiểu Lan cúi đầu không nói, trong lòng suy nghĩ mông lung.
Lữ Tứ Nương mỉm cười, lại nói: “Lúc còn bé ta đã từng làm một bài từ ‘Thủy long ngâm’, trong đó có hai câu: ‘Mạc học tân thanh hậu chủ, khủng từ tiên tiếu y hà khổ?’ ta thấy không bệnh mà ngâm đương nhiên không tốt, có bệnh ngâm cũng chẳng cần. Nếu bậc đại trượng phu gặp nguy nan, cần phải đứng vững như kiềng ba chân, gánh vác trách nhiệm, vượt qua cửa ải khó khăn, nếu học từ thì phải học theo Tô Đông Pha hay Tân Khí Tật, không nên theo đòi kẻ mất nước như Lý Hậu Chủ? Đệ đã từng đọc bài từ ‘Hạ tân lang’ của Tân Khí Tật chưa, ba câu đầu của bài từ này cũng giống như ba câu đầu trong ‘Bách hoa lệnh’ của đệ, nghe như than vắn thở dài, nhưng bài từ của ông ta lại có hào khí, khác hẳn với của đệ. Đệ có nhớ không, hãy thử đọc cho ta nghe”.
Đường Hiểu Lan ngẩng đầu lên, đọc rằng: “Thậm hĩ ngô suy hĩ! Trướng bình sinh giao du linh lạc, chích dương dư kỷ. Bạch phát không thùy tam thiên trượng, nhất tiếu nhân gian vạn sự, vấn hà vật năng lệnh công hỉ? Ngã kiến thanh sơn di ủy mị, liệu thanh sơn kiến ngã ứng như thị. Tình giữ mạo, lược tương tự. Nhất tôn sao đầu đông song lý, tưởng Uyên Minh, đình vân thi tựu, hà thời phong vị. Gian tả trầm cam cầu danh giả, khởi thức trọc lưu diệu lý? Hồi đầu khiếu vân phi phong khởi. Bất hận cổ nhân ngô bất kiến, hận cổ nhân bất kiến ngô cuồng da! Tri ngã giả, nhị tam tử”.
Tân Khí Tật viết bài từ này lúc tuổi đã về chiều nhưng hào khí tiêu thoát, còn hơn cả thiếu niên. Đường Hiểu Lan đọc xong, chợt thấy mình sao quá hẹp hòi, không khỏi tự cười mình, Lữ Tứ Nương không dùng lời an ủi chàng nhưng đã lấy từ để dẫn dắt chàng. Đường Hiểu Lan thấy lòng dần dần thư thái, chợt hỏi: “Tỷ tỷ hãy đọc lài bài ‘Thủy long ngâm’ cho đệ nghe thử”.
Lữ Tứ Nương nghĩ ngợi rồi đáp: “Cũng được”. Từ rằng:
“Vô biên phiêu diễu kỳ phong, tăng thụy ngã cựu thời gia xứ. Phất tụ khứ lai, nhuyễn trần sơ đạp, thạch môn tây trú. Đoản trợ tài hoa, trường thi tá tửu, kỹ hồi ngưng trữ. Quán liệt địch suy vân, cao ca tán vụ, chấn y thượng, thiên nham thụ.
Mạc học tân thanh hậu chủ, khổng từ tiên tiếu y hà khổ? Trích đẩu tinh duy, kinh sa lạc nguyệt, tụy khai vân lộ. Phùng đảo cựu du, viên kiều tân cảnh, tùng đầu phi độ. Thả bút tả tây giang, vân phiên bất hải, hoán thần long vũ”.
Bài từ này nghe sao hào tình muôn trượng, chí lớn cao vời, cõi lòng rộng mở. Nếu Lữ Tứ Nương không nói, Đường Hiểu Lan không dám tin rằng đây là một bài từ của một nàng thiếu nữ. Hai người nói chuyện rất hợp nhau, Đường Hiểu Lan thấy nỗi sầu muộn tuy tiêu tan nhưng cũng muốn hỏi đến đạo lập thân của nàng, đang suy nghĩ chợt nghe Nhất Phiêu hòa thượng kêu lớn: “Tứ Nương, Thẩm tiên sinh đang tìm”. Lữ Tứ Nương ngẩng đầu nhìn lên, cười rằng: “Đúng là nói chuyện vui đến nỗi chẳng biết thời khắc, vầng dương đã dời về phía Tây. Chắc đệ cũng đã đói bụng, vào chùa ăn lót dạ trước đã”.
Đường Hiểu Lan theo Lữ Tứ Nương xuống núi, hỏi: “Thẩm tiên sinh là ai?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Chính là người mà ta thường nhắc với đệ, Thẩm Tại Khoan”. Đường Hiểu Lan kêu ồ một tiếng, nói: “Chẳng phải y đã bị bắt năm năm trước rồi sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Cam sư huynh không nói với đệ, sau này bọn ta đã cứu chàng”. Đường Hiểu Lan thấy lòng xao xuyến, sau đó mới nghĩ: “Lữ Tứ Nương coi mình như tiểu đệ, đã khiến cho mình ghi tâm khắc cốt, làm sao có thể mong muốn được nhiều hơn?” chính vì nghĩ thế nên cõi lòng đã bình lặng, chàng lầm lũi bước theo Lữ Tứ Nương vào thiền viện.
Thẩm Tại Khoan vừa mới thức dậy, ngẫm nghĩ những lời nói buổi sáng của Lữ Tứ Nương, chỉ cảm thấy ngọt ngào tình tứ, chàng lập lại hai câu: “Kiếm liễu hựu hưu hoàn tự mộng, tọa lai tuy cận viễn như thiên” chàng đọc xong hai câu bất giác cười buồn. Thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương đã yêu thương sâu sắc đến thế, mình còn tự tìm khổ não là vì cớ gì?” rồi chàng lại nghĩ: “Lữ Tứ Nương xinh đẹp tuyệt trần, năm năm qua chịu đựng nỗi cô quạnh, bầu bạn với kẻ tàn phế như mình, vả lại còn muốn suốt đời theo mình, tình ý ấy thật hiếm có”. Lúc này bao nhiêu nỗi ưu phiền cũng tan biến.
Lữ Tứ Nương dắt Đường Hiểu Lan vào thiền viện, hai người đi sánh vai bên nhau, Đường Hiểu Lan cao hơn Lữ Tứ Nương, trước thiền viện có một cái đầm nhỏ, nước trong đầm trong vắt, dưới đầm hắt bóng một chàng thiếu niên anh tuấn, một nàng thiếu nữ xinh đẹp. Lúc nãy nghe Đường Hiểu Lan than thở, Lữ Tứ Nương đang mãi nghĩ cách giải nguy cho chàng, trong lòng chẳng có ý gì khác, chẳng hề để ý đến hai chiếc bóng dưới mặt đầm, khi bước vào thiền viện chợt thấy bài từ của Thẩm Tại Khoan, nàng sợ Thẩm Tại Khoan vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng mình, thấy Đường Hiểu Lan sẽ hiểu nhầm, há chẳng phải khiến chàng bệnh nặng hơn hay sao? Nàng nghĩ đến đấy chân chợt chậm lại. Đường Hiểu Lan tựa như hiểu ra, chàng quay đầu hỏi: “Tỷ tỷ, tỷ đang nghĩ gì thế?” Lữ Tứ Nương ngẩng đầu lên, ánh mặt trời rực rỡ, hoa núi như đang cười, nói rằng: “Không sao cả!” nàng bước tới trước hai bước, dắt Đường Hiểu Lan vào thiền viện, đến trước cửa một căn phòng, kêu lên: “Tại Khoan, có khách đến viếng thăm huynh!”
Giường của Thẩm Tại Khoan kê sát cửa phòng, chàng vươn tay là có thể mở then cài, nhưng chàng bước xuống giường, vịn vách tường ra mở cửa, Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ chàng, nói: “Huynh vừa mới cử động được, không nên quá mệt nhọc”. Thẩm Tại Khoan thấy Đường Hiểu Lan, chỉ ngạc nhiên rồi nói: “Muội phải tiếp đãi khách trước”. Lữ Tứ Nương nói: “Đây là người bằng hữu rất thân của muội”. Rồi nàng liếc Thẩm Tại Khoan, thấy chàng chẳng đổi sắc, đỡ chàng lên giường rồi giới thiệu cho hai người. Thẩm Tại Khoan nói: “Xin mời Đường huynh ngồi xuống, tôi đi đứng không tiện, xin được thất lễ”.
Đường Hiểu Lan thấy thế mới biết năm năm nay Lữ Tứ Nương bầu bạn bên cạnh một người tàn phế, trong lòng rất cảm động, càng cảm thấy Lữ Tứ Nương khắc hẳn người thường!
Lữ Tứ Nương vào nhà bếp lấy cơm chay bưng vào phòng, Đường Hiểu Lan đang nói chuyện với Thẩm Tại Khoan. Cơm nước xong Đường Hiểu Lan nói: “Tôi có một việc muốn thỉnh giáo Thẩm huynh”. Thẩm Tại Khoan nói: “Xin cứ nói”.
Đường Hiểu Lan lại kể mọi chuyện một lượt. Thẩm Tại Khoan nghe xong, chợt ngồi bật dậy, nói: “Nếu Đường huynh không cho tôi là người ngoài, tôi cũng muốn giúp cho Đường huynh. Oanh muội, muội hãy đi theo Đường huynh một chuyến!” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Còn huynh?” Thẩm Tại Khoan nói: “Nay huynh bệnh tình đã khá, có Nhất Phiêu đại sư chăm sóc là đủ. Việc của Đường huynh phải nhờ muội. Đường huynh và chúng ta là bằng hữu tri giao, y đang gặp nguy, lẽ chúng ta ngồi yên mà nhìn?” Lữ Tứ Nương không ngờ chàng lại phóng khoáng đến thế, bất giác cảm động đến rơi nước mắt.
Thẩm Tại Khoan lại nói: “Lần này Đường huynh gặp nạn, theo ta thấy, nạn ngoài dễ giải, giặc trong khó trừ”. Đường Hiểu Lan đã xem Thẩm Tại Khoan là ca ca, nói: “Mong được nghe dạy”. Thẩm Tại Khoan nói: “Đường huynh bị lệnh sư hiểu lầm, nếu có Tứ Nương ra giải thích, chắc mọi việc rồi sẽ yên. Chỉ có điều Đường huynh vừa biết thân thế, từ rày về sau sẽ rất khó xử”. Một lời nói trúng đích, Đường Hiểu Lan đang lo vì mình có huyết thống hoàng tộc. Thẩm Tại Khoan lại chậm rãi nói: “Cứ làm điều trăm họ thích, ghét điều trăm họ ghét, đó chính là đạo lập thân ở đời”. Đường Hiểu Lan cúi đầu suy nghĩ một lúc rất lâu, chợt ngẩng đầu lên nói: “Đa tạ Thẩm huynh chỉ giáo”.
Thẩm Tại Khoan nói: “Oanh muội, ngày mai muội hãy theo Đường huynh xuống núi”. Lữ Tứ Nương xao xuyến, chợt nói: “Vài ngày nữa là thắt tịch”. Thẩm Tại Khoan biết nàng vẫn còn lưu luyến mình, cười rằng: “Từ của Thiếu Du có viết rằng: ‘Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số’. Lại nói: ‘Lưỡng tình nhược thị cửu trường thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ’ năm năm qua chúng ta ở bên nhau, còn may mắn hơn cả Ngưu Lang Chức Nữ, đâu cần phải đau lòng vì một lúc tiểu biệt” Lữ Tứ Nương nghe xong, biết chàng đã hoàn toàn tin tưởng mình, chẳng hề có ý hoài nghi, tuy trong lòng có chút quyến luyến nhưng cũng thấy chút ấm áp.
Đang nói, Nhất Phiêu đại sư chợt gõ cửa nói: “Lữ Tứ Nương, không biết hôm nay có ngọn gió gì mà khách lại tới nữa!” Lữ Tứ Nương nói: “Ai thế?” Nhất Phiêu nói: “Chính là Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì”. Đường Hiểu Lan nói: “Cam đại hiệp chỉ dẫn cho tôi đến dãy Hà Lĩnh, tôi tưởng rằng ông ta không đến”. Lữ Tứ Nương nói: “Cam sư huynh đến đây chắc có việc lớn”. Rồi cùng Đường Hiểu Lan bước ra nghênh tiếp.
Cam Phụng Trì thấy Đường Hiểu Lan cùng Lữ Tứ Nương bước ra, biết những điều chàng nói không phải là giả, thái độ thân mật hơn trước nhiều, nắm tay chàng cười nói: “Ta âm thầm bảo vệ ngươi lên núi, ngươi có biết không?” Đường Hiểu Lan hơi hổ thẹn, nói: “Tiểu đệ chẳng hề hay biết”.
Lữ Tứ Nương hỏi: “Năm năm qua các sư huynh có khỏe không?” Cam Phụng Trì nói: “Một hai năm nay ta ít gặp mặt họ. Không ngờ lúc nãy vô tình nhặt được tín vật của đồng môn”. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Vị sư huynh nào nhờ người đến gặp muội?” Cam Phụng Trì lấy ra một bức tranh, đưa cho Lữ Tứ Nương nói: “Muội hãy xem thử bút tích của ai trong bức tranh này?” trong bức tranh là một con chim ưng, trông rất uy võ nhưng bị nhốt trong lồng, mỏ chim ưng thì ra khỏi lồng, hai cánh giang rộng tựa như muốn kêu lên. Bên cạnh cái lồng chim có một nàng thiếu nữ dung mạo tựa như Lý Minh Châu con gái của Tuần phủ Triết Giang. Lữ Tứ Nương nhìn một hồi thì kêu lên: “Chả lẽ Lộ sư huynh bị Triết Giang tuần phủ giam lỏng?”
Lộ Dân Đảm là con em nhà thế gia, võ công tuy không cao nhưng tài vẽ nổi tiếng, nhất là vẽ chim ưng. Trong bức họa này chàng ta đã vẽ chim ưng trong lồng, tựa như lấy chim ưng để nói người, thầm bảo mình bị giam. Lữ Tứ Nương rung giọng hỏi: “Cam sư huynh, làm sao huynh có được bức tranh này?”
Cam Phụng Trì trả lời: “Sau khi huynh đưa Đường huynh lên núi, một mình quay trở về Triết Giang, đi được khoảng ba bốn dặm đường, chợt nghe sau núi có tiếng ngựa hí, lại còn có cả tiếng kêu thê lương”. Lữ Tứ Nương biến sắc, nói: “Chả lẽ triều đình biết muội ẩn cư ở đây?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh cũng lo như thế nên vội vàng chạy ra sau núi xem sao, chỉ thấy trên dịch đạo bụi tung bay mù mịt, mấy thớt ngựa đã phóng đi. Huynh nghĩ đuổi theo không kịp nữa chỉ đành đến xung quanh quan sát kỹ càng, chợt thấy trên tảng đá dưới chân núi có mấy vệt máu, chắc là lúc nãy có người kịch đấu trên dịch đạo, giằng co đến đây thì đã bị bắt”. Đường Hiểu Lan nói: “Theo Cam đại hiệp thấy, bọn chúng có muốn lên núi không?” Cam Phụng Trì đáp: “Ta cũng không rõ. Dấu chân và dấu máu cho thấy tựa như có cuộc đánh nhau từ dịch đạo đến sườn núi, sau đó càng đánh càng kéo xa. Xem tình hình hình như có vài người vây đánh một người, sau đó người này đã bị bắt. Giả sử những người này muốn lên núi, bọn chúng không cần phải quay ra gấp như thế”.
Lữ Tứ Nương hơi lo lắng, nói: “Kẻ bị bắt không biết có phải là Lộ sư huynh hay không?” Cam Phụng Trì nói: “Ta thấy cũng không phải. Lộ sư đệ không có võ công cao như thế”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: “Cam đại hiệp không tận mắt chứng kiến, làm sao biết võ công của người ấy giỏi hay giở?” Cam Phụng Trì nói: “Dấu chân rất rõ ràng dưới đất, từ sự phân bố của dấu chân và các dấu vết di chuyển có thể nhiều người vây đánh một người, còn bộ pháp của người bị truy đánh thì không hề bị rối loạn, tiến lui rất có phép tắc. Lộ sư huynh tuy cũng có được võ công như thế nhưng y ít có kinh nghiệm, khi lâm địch không hề binh tĩnh như thế”. Cam Phụng Trì phân tích rất có lý, không những khiến Đường Hiểu Lan phục lăn mà Lữ Tứ Nương cũng cảm thấy chàng ta đúng là một đại hành gia trên giang hồ, dược lực chẳng kém gì mình.
Cam Phụng Trì nói: “Gần đây ta định đi xa, đến bái phỏng các vị sư huynh. Còn nữa, năm ngoái ta nghe nhị sư huynh nói, Quan Đông tứ hiệp rất muốn gặp mặt ta, có lẽ ta sẽ lên kinh sư, rồi từ đó đi sang Liêu Đông”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Vậy thì tốt quá, ngày mai muội và Đường Hiểu Lan sẽ đi xa, vậy chúng ta sẽ đi cùng một đường. Có sư huynh đi cùng, bọn muội cũng yên tâm hơn nhiều”. Cam Phụng Trì nói: “Còn Thẩm tiên sinh thì sao?” Lữ Tứ Nương nói: “Gần đây chàng đã khá nhiều, hôm nay có thể vịn vách mà đi. Chàng biết chuyện của Hiểu Lan, bảo muội nên giải thích hộ cho giang hồ biết”. Cam Phụng Trì nói: “Thẩm tiên sinh can đảm tương chiếu, tuy là một thư sinh nhưng còn hiệp nghĩa hơn cả chúng ta!” thế rồi bảo Lữ Tứ Nương giới thiệu, đến tịnh thất bái kiến Thẩm Tại Khoan. Thẩm Tại Khoan nghe Cam Phụng Trì sẽ đi cùng họ, chàng càng thêm yên tâm.
Sáng sớm hôm sau, hai người cùng xuống núi rồi đi lên phía Bắc. Để cho tiện, Lữ Tứ Nương cải dạng nam trang, Cam Phụng Trì sửa đổi khuôn mặt cho Đường Hiểu Lan, trên đường quả nhiên không ai nhận ra.
Phía Bắc của dãy Tiên Hà là Triết Giang, ba người đi tới Du Long, Kim Hoa, rẽ sang phía Đông xuống Nghĩa Ô, Thiệu Hưng, đi thẳng đến Tiêu Sơn, định rằng đến nhà Lộ Dân Đảm thăm hỏi trước. Ra khỏi Tiêu Sơn là vùng ven biển Hàng Châu. Lữ Tứ Nương ở lâu trong núi, lúc này thấy biển rộng thì trong lòng thư thả. Hôm nay họ tiếp tục tiến về phía nhà Lộ Dân Đảm, con đường lớn dựa vào núi hướng mặt ra biển, Lữ Tứ Nương nhất thời nổi hứng, cùng hai người Cam, Đường lên núi, phóng mắt nhìn ra biển khơi, chỉ thấy đảo lớn đảo nhỏ nằm xen kẽ vào nhau, những con thuyền đánh cá như những đốm sao trên bầu trời, đang lúc ngắm cảnh, chợt nghe Cam Phụng Trì kêu.
Lữ Tứ Nương quay đầu lại, ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì thế thất sư huynh?” Cam Phụng Trì nói: “Muội xem đây”. Rồi dắt Lữ Tứ Nương đến phía dưới một mõm đá, phủi bụi trên đá chỉ thấy bên trên là những ký hiệu trông rất kỳ quái, Lữ Tứ Nương cũng không nhận ra, ngạc nhiên nói: “Những ký hiệu này có nghĩa là gì?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh cũng không biết, có lẽ là ám hiệu của các bang hội trong giang hồ”. Lữ Tứ Nương nói: “Chúng ta không cần lo chuyện bao đồng”. Cam Phụng Trì nói: “Không sao, muội hãy tới xem thử”. Rồi dắt Lữ Tứ Nương bước xuống, có đến bảy tám hòn đá vẽ ký hiệu này.
Cam Phụng Trì nói: “Huynh hiểu đại khái hai loại ám hiệu, ý nghĩa là hẹn đến đây tụ hội”. Lữ Tứ Nương nói: “Chả lẽ hòn núi này là nơi hổ ẩn rồng nằm, có hào kiệt trên giang hồ? Nhưng chuyện đó cũng không liên quan tới chúng ta”. Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, muội và Lộ sư huynh một người ở Triết Đông, một người ở Triết Tây, huynh cũng thường qua lại hai miền, các nhân vật có tiếng tăm ở miền này huynh cũng đều quen, nhưng chưa từng nghe nói quê Lộ sư huynh cũng có hào khách giang hồ ẩn cư”. Lữ Tứ Nương nói: “Có phải thất ca nghi ngờ chuyện này có liên quan đến Lộ sư huynh?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh không dám chắc, nhưng từ đây đến nhà Lộ sư huynh chỉ còn hơn mười dặm đường, huynh cũng chưa bao giờ nghe Lộ sư huynh nói quê hương của y có người võ công cao cường nên rất lấy làm lạ. Chúng ta tìm hiểu thử xem sao”. Ba người đi một hồi nữa, thấy ở sườn núi đối diện có khói bốc lên từng cuộn, Lữ Tứ Nương nói: “Hình như bên đó có nhà”. Cam Phụng Trì cười rằng: “Chúng ta qua đó xem thử”. Ba người đi xuống một hồi lại thấy có ruộng lúa, Cam Phụng Trì cười nói: “Đâu chỉ là nhà, còn có cả thôn làng!”
Ba người băng ngang qua thung lũng, đến chân núi đối diện, Cam Phụng Trì vừa lên núi vừa đưa mắt thăm dò, lên được nửa chừng phát hiện có ba ám hiệu của các bang hội. Đi một hồi nữa lên đến đỉnh núi, chỉ thấy phía bên núi khói cuộn lên mù mịt, Lữ Tứ Nương cười nói: “Chúng ta đi cả nửa ngày, người dưới chân núi cũng đã nghỉ ngơi, nổi lửa nấu cơm. Chúng ta không ra thì đêm nay phải đành ở lại đây”. Cam Phụng Trì nói: “Xem một lúc nữa”. Đột nhiên ngừng lại, lộ vẻ ngạc nhiên.
Xưa nay Cam Phụng Trì là người trầm lặng. Trong số các đồng môn chàng là người bình tĩnh nhất dù là có chuyện gì xảy ra. Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Thất ca, huynh lại thấy gì thế?” Cam Phụng Trì trầm ngâm không nói, một hồi sau mới trả lời: “Chẳng lẽ có sư huynh nào bị vây ở đây, điều này thật khiến ta không hiểu nổi!” Lữ Tứ Nương bước ra khỏi mõm đá, bên cạnh mõm đá có một tảng đá nhọn như mũi kiếm, trơn láng như mặt kính, trên đá có khắc ám hiệu các đồng môn thường dùng, ám hiệu rất rời rạc đơn giản, chỉ có bốn chữ: “Bị vây, cứu viện”. Cam Phụng Trì nói: “Muội nhìn xong, đây có phải là ám hiệu của đồng môn chúng ta không?” Lữ Tứ Nương nói: “Có điều gì đáng nghi?” Cam Phụng Trì nói: “Nếu là ám hiệu của các sư huynh, sao không có các con số?” té ra các đệ tử của Độc tý thần ni khi liên lạc với nhau cũng phải sắp xếp theo thứ tự. Ví dụ khi Cam Phụng Trì để lại dấu hiệu sẽ ký chữ thất, Lữ Tứ Nương sẽ viết thêm chứ bát, Cam Phụng Trì nói: “Muội có thấy điều gì lạ hơn không?”
Lữ Tứ Nương nói: “Thất ca, những ký hiệu này rất đơn giản, huynh làm sao thấy được nhiều điều? Còn có chuyện gì lạ nữa đâu? Muội chẳng thấy điều gì cả”. Cam Phụng Trì nói: “Những ám hiệu này tuy lấy móng tay thay bút, dùng chỉ lực vạch trên tảng đá. Xem ra công lực của người này hơn Lộ sư huynh nhưng kém Bạch sư huynh, tương đương với Châu sư huynh và Tào sư huynh, nhưng nếu hai người Châu, Tào viết, vết tích tất nhiên sẽ già dặn, nhưng những ký hiệu này xem ra rất non nớt, ta đoán rằng, người để lại ám hiệu không phải là người của bổn môn”. Lữ Tứ Nương thầm phục. Cam Phụng Trì nhìn một hồi rồi lại cười nói: “Lúc này huynh có thể đoán được đại khái ai”. Lữ Tứ Nương chợt cười nói: “Thất ca, huynh khoan nói, để muội đoán thử trước”. Đường Hiểu Lan cũng ngưng thần chăm chú, thế nhưng chẳng phát hiện được điều gì, đang lấy làm buồn bực. “Người để lại ám hiệu là nữ tử, còn trẻ hơn cả muội”. Cam Phụng Trì vỗ tay cười nói: “Đúng thế”.
Đường Hiểu Lan hỏi: “Các người rốt cuộc có nhận ra chưa?” Lữ Tứ Nương nói: “Đệ có nghiên cứu thư pháp không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đệ từ nhỏ đã thất học, sau này theo Dương sư phụ mới học chữ nghĩa, lúc đó chỉ ham đọc thư từ chứ ít cầm bút luyện chữ”. Lữ Tứ Nương nói: “Nét chữ của nữ tử mềm mại hơn nam tử, có lẽ đệ cũng biết điều này. Những ký hiệu này tuy không phải là thứ chữ vuông vức, vả lại dùng chỉ lực vạch vào nhưng vẫn còn mang theo cách khác. Móc, mác giống với loại chữ được viết như bình thường, làm sao không thể nhận ra?” Cam Phụng Trì nói: “Huynh không nhận ra người này có hiểu biết thư pháp nhưng những ký hiệu trông nắn nót, bởi vậy có thể đoán được do một người phụ nữ dùng ngón tay vạch vào. Bát muội, muội tuy thiếu kinh nghiệm giang hồ nhưng rất thông minh”. Lữ Tứ Nương đỏ mặt: “Có phải ký hiệu của đồng môn để lại hay không muội cũng chẳng biết mà còn bảo thông minh?” Cam Phụng Trì nói: “Điều đó chẳng trách muội, muội vẫn còn chưa gặp mặt vài vị sư huynh, đương nhiên không hiểu rõ công lực của họ bằng huynh”. Cam Phụng Trì nghĩ ngợi rồi lại nói: “Trong sư môn ngoại muội, chẳng còn nữ tử nào khác, nàng làm sao biết ám hiệu của chúng ta, điều này thật kỳ lạ. Đã đi đến đây, chúng ta hãy xuống ngôi làng phía dưới núi dò hỏi thử”.
Ba người leo lên đỉnh núi nhìn xuống, cảnh tưởng ở phía sau núi lại khác hẳn, chỉ thấy những hòn núi nhỏ chập chùng, tựa như núi non trùng điệp, nhưng ở sườn núi lại có con đường nhỏ lượn quanh. Cam Phụng Trì cười nói: “Tình thế ở nơi này cũng rất tốt”. Cả ba người từ trên đường núi đi xuống, đi được lưng chừng núi đã thấy dưới chân núi có hơn mười căn nhà. Lúc này mặt trời đã ngả về Tây, chim bay về tổ hót ríu rít nghe vui tai.
Ba người tiến dần vào thôn, người trong thôn đều đã dùng cơm, chỉ có vài người đang dạo bên ngoài, thấy ba người khách lạ đều rất ngạc nhiên. Trong thôn có một nhà họ Chu là đông nhất, Cam Phụng Trì vốn định hướng nhà người đó, có người bước tới hỏi: “Có phải quý khách tìm Trang chủ hay không?” Cam Phụng Trì nói: “Đúng thế”. Người đó nói: “Xin đợi một lát”. Rồi chạy đi như bay, Cam Phụng Trì khẽ nói với Lữ Tứ Nương: “Lát nữa chúng ta bước vào, cứ mặc huynh ăn nói, nếu có sự biến gì, hãy nhìn ánh mắt của ngu huynh mà làm theo”. Lữ Tứ Nương gật đầu. Lúc này họ đã đến trước căn nhà, hai cánh cửa sơn son đã mở toang.
Hai đại hán bước ra ngoài cửa, đưa tay chỉ xuống đất, hỏi: “Hai vị là đồng nguyên cùng đạo hay thiên kim nhập thổ?” Đó là tiếng lóng thường dùng trong bang hội, có nghĩa là: “Các người là người của bang phái khác nhưng đồng đạo hay là huynh đệ trong bổn bang đến tìm Long Đầu đại ca?” Cam Phụng Trì dựng ngón tay cái chỉ lên trời, lớn giọng nói: “Nhật nguyệt tinh thần, không về bùn đất”. Hai đại hán mặt biến sắc, vội vàng cung kính nói: “Xin mời ba vị vào, để tiểu nhân bẩm cáo Trang chủ”. Té ra hai câu nói ấy thể hiện thân phận của Cam Phụng Trì, nói rõ chàng không phải là người trong bang hội, không ai quản được chàng. Người nói câu này nếu không phải là đầu lĩnh của một phái thì cũng là nhân vật có danh tiếng.
Hai đại hán dắt ba người vào khách sảnh, ngồi một hồi chỉ thấy một ông già khỏe mạnh tuổi khoảng lục tuần từ hậu được bước ra, chắc đây chính là Thượng trang chủ. Đường Hiểu Lan toan đứng dậy, Cam Phụng Trì đã bật dây trước, bước ra giữa ba bước, sau đó bước ngang sang trái một bước, lại nhảy ngang sang phải một bước, lùi ba bước, rồi mới tỏ ý bảo hai người Lữ, Đường đứng dậy ôm quyền hành lễ. Ông già này chưng hửng, trông rất tức giận.
Té ra Thượng trang chủ này rất có danh tiếng, nghe thủ hạ báo rằng có ba người đến gặp, vội vàng ra nghênh tiếp, vừa nhìn thì rất thất vọng, lão tưởng là nhân vật thành danh nào đó, nào ngờ chẳng quen biết ai. Vả hai người Lữ, Đường trông rất trẻ tuổi, nhất là Lữ Tứ Nương vì học thuật Kiểm tinh nội thị của Dịch Lan Châu nên trông cứ như một thư sinh yếu đuối khoảng hai mươi tuổi; trong ba người thì Cam Phụng Trì lớn tuổi nhất, thái độ tuy già dặn nhưng chẳng qua chỉ mới hơn ba mươi tuổi, vả lại sắc mặt vàng ệt ốm yếu, trông giống như một người bệnh. Thượng trang chủ tưởng rằng bọn họ là những tên lừa đảo. Nhưng Cam Phụng Trì tiến lên rồi lui lại, hành lễ nhưng người bằng vai phải lứa, lúc đầu Thượng trang chủ tức giận, nhưng nghĩ họ đã có thể đến tìm mình, chắc chắn đã biết danh tiếng của mình, đã dám dùng lễ bằng vai phải lứa, chẳng phải là nhân vật tầm thường. Trên giang hồ dị nhân rất nhiều, lão không dám coi thường, thế là cười ha hả, ôm quyền trả lễ, ngầm vận công lực nội gia quét quyền phong về phía Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì chẳng hề nhúc nhích, trả lại một vái, Thượng trang chủ hơi run người, vội vàng kìm người lại, cười rằng: “Lão huynh công phu thật giỏi, hai vị tiểu ca này có phải là môn hạ của huynh không?” Cam Phụng Trì nói: “Đều là bằng vai phải lứa với tôi”. Thượng trang chủ đưa tay ra nói vói Lữ Tứ Nương: “Lão phu lỡ lời, xin thứ tội không biết”. Lữ Tứ Nương đưa tay ra nắm lấy tay y, Thượng trang chủ chợt thấy cổ tay tê rần, công phu của Lữ Tứ Nương còn hơn cả Cam Phụng Trì. Trong ba người thì Đường Hiểu Lan tráng kiện khỏe khoắn nhất, Thượng trang chủ không dám thử nữa, vội vàng mời ba người ngồi vào chỗ.
Cam Phụng Trì nói: “Nghe nói Trang chủ sắp làm lễ mừng thọ, ba huynh đệ chúng tôi đến đây làm phiền”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên thầm nhủ: “Làm sao Cam đại hiệp biết lão già này làm lễ mừng thọ?” chàng nào biết đó chính là tiếng lóng trong bang hội. Cam Phụng Trì đến đây, thấy hơn mười ám hiệu của bang hội, liệu rằng chủ nhân ở đây chính là chủ của một bang hội, có thể gần đây sắp mời người khác bang hội đến gặp gỡ bí mật. Cuộc gặp gỡ này được gọi là làm lễ mừng thọ nên Cam Phụng Trì mới buông lời hỏi dò. Không ngờ Thượng trang chủ cười ha ha: “Ba vị cao hiền nếu đã chịu đến đây, thật là vinh dự cho chúng tôi rất nhiều, chỉ là còn mấy ngày nữa mới đến kỳ hạn, ba vị cao hiền đành phải ở lại chờ!” Cam Phụng Trì nói: “Nếu đã là như thế, chúng tôi chỉ đành quấy rầy”. Thế rồi hỏi họ tên, Cam Phụng Trì đổi tên thành Đường Long, Lữ Tứ Nương đổi tên thành Lý Song Song, Đường Hiểu Lan đổi tên thành Phùng Nghiêu. Thượng trang chủ hỏi: “Ba vị là người ở phương nào?” Cam Phụng Trì nói: “chúng tôi chỉ như nước chảy mây bay, không dừng lại một nơi nào cả”. Thượng chủ lại hỏi: “Danh hiệu của ba vị trên giang hồ là gì?” Cam Phụng Trì lại đáp: “Không có danh hiệu không có môn phái, có hoa cắm hoa, có rượu uống rượu, trong hồ bốn biển đều là bằng hữu”. Hai người dùng ám ngữ trên giang hồ hỏi đáp nhau khiến Đường Hiểu Lan càng thêm thắc mắc. Té ra Thượng trang chủ vẫn còn nghi ngờ, trước tiên hỏi chàng có phải là Trại chủ hay đại ca của một thương đường nào đó hay không, Cam Phụng Trì nói không phải, vì thế lại hỏi có phải là đại đạo cước trên giang hồ không, Cam Phụng Trì lại bảo không phải, lại còn nói họ Niên quan gì đến hai phái hắc bạch nhưng người trên giang hồ đều là bằng hữu. Thân phận như thế thật là không đơn giản, nếu không phải cao nhân tiền bối thì là hiệp khách đã thành danh. Dù Thượng trang chủ hiếu biết rõ ràng cũng không đoán được. Ông ta thầm điểm lại các nhân vật thành danh trên giang hồ mà chẳng thấy ai trẻ tuổi như họ cả. Thượng trang chủ chỉ đành lấy lễ thượng khách tiếp đãi, bảo trang đinh dắt họ đến phòng khách yên nghỉ. Thượng trang chủ thầm nhủ, Hàn lão quái nếu đêm nay không đến chắc sẽ ngày mai. Lão ta nhất định biết lai lịch của ba người này.
Ba người vào phòng khách, Lữ Tứ Nương khẽ hỏi: “Thất ca xưa nay thâm tàn bất lộ, không biết lúc này sao lại tỏ thân phận?” Cam Phụng Trì nói: “Thượng trang chủ chắc hẳn là đầu lĩnh của một bang hội, chúng ta ngang nhiên xông vào đây, nếu không lộ một chút thân phận, y làm sao chịu tiếp đãi. Chúng ta đã không phải là người trong bang hội, chỉ đành mượn danh du hiệp giang hồ”. Thực ra, Cam Phụng Trì là một du hiệp tiếng tăm lừng lẫy nhất trên giang hồ lúc này, chẳng hề “mượn danh” tí nào. Cũng chính vì thế, Thượng trang chủ không dám đoán đây chính là Cam Phụng Trì.
Nghỉ ngơi một hồi, Cam Phụng Trì sai người đưa cơm nước đến, Lữ Tứ Nương hơi ngần ngại, Cam Phụng Trì cười nói: “Y không biết lai lịch của chúng ta, làm sao dám ám toán?” rồi cứ mặc sức ăn, nên vào thu dọn, nói: “Trang chủ thỉnh an ba vị, xin thứ không thể đến tiếp”. Cam Phụng Trì nói: “Nếu Trang chủ có việc, không cần khách sáo”.
Đêm hôm ấy ba người ngủ cùng phòng, đến nửa đêm, Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, ra ngoài dò thử xem thử Trang chủ này có gì kỳ lạ?” Lữ Tứ Nương bước gần đến cửa, thấy bên ngoài cửa số có bóng người thấp thoáng, khẽ nói: “Thất ca, bên ngoài có người canh giữ”. Cam Phụng Trì nói: “Ta sẽ tìm cách dụ bọn chúng”. Rồi giơ ngón tay cái đâm vào vách tường, chàng tiện tay nhặt một phiến lá tre xuống đất cho vào trong cái lỗ ngoáy một hồi, nói: “Xong rồi”, chàng lại lấy một viên đạn trong túi ra, bắn vào cái lỗ, chỉ nghe soạt một tiếng, viên đạn bay ra ngoài. Tiếp theo là tiếng bước chân chạy rất nhẹ, Lữ Tứ Nương rất thông minh, biết rằng Cam Phụng Trì đang dùng kế dương Đông kích Tây, thế là phóng tọt ra cửa sổ! Bọn lâu la canh bên ngoài nghe thấy tiếng đạn tưởng rằng người dạ hành ném dá dò đường nên chạy về hướng có đạn rơi xuống. Khi quay lại, Lữ Tứ Nương đã vượt qua hai gian nhà, nấp sau hòn non bộ.
Hoa viên trong sơn trang rất rộng, sắp xếp trang nhã, chỉ thấy bốn bên là hòn giả sơn, ở giữa có một tòa lầu cao. Lữ Tứ Nương thầm ngạc nhiên: “Hình như mình đã đến nơi này?” nàng suy nghĩ một hồi chợt vỡ lẽ ra, té ra nơi này được bố trí theo kiểu viên lâm, mô phỏng theo kiến trúc tòa nhà của Ngư Xác ở Vạn Trượng Nham trên đảo Điền Hoành, tuy không hùng vĩ và hiểm trở như tòa nhà của Ngư Xác nhưng cũng rất khả quan. Lữ Tứ Nương nấp sau hòn giả sơn, đưa mắt nhìn xung quanh, đang định nhảy vọt ra chợt nghe tiếng bước chân vang lên, có bốn phụ nữ cầm đèn lồng đi ngang qua. Một thiếu nữ trong số đó nói: “Quận chúa thật ngang ngạnh, nàng ta trông thiên kiều bá mị thế kia, nào biết võ công lại cao cường”. Thiếu nữ khác nói: “Đúng thế, đêm qua nàng không chịu ăn cơm, Mạnh trại chủ khuyên nàng, không biết nói gì mà bị nàng tát cho một bạt tai, Mạnh trại chủ vội vàng lách đi, nàng đã vỗ gãy cái bàn”. Một người khác lại nói: “Sau đó Trang chủ vào nói một hồi nàng mới chịu ăn”. Nàng thiếu nữ thứ tư nói: “Nghe nói Mạnh trại chủ võ công chẳng khác gì Trang chủ chúng ta, đều là nhân vật đã thành danh trên giang hồ, thế mà ông ta vẫn nhịn được”. Thiếu nữ đầu tiên nói: “Nàng là Quận chúa kia mà! Làm sao ông ta không thể nhịn”. Lữ Tứ Nương thấy bốn thiếu nữ dần dần đi xa, tiếng cũng dần dần nhỏ. Nàng rất lấy làm lạ: “Ở đâu ra một Quận chúa? Chả lẽ đầu lĩnh của một bang hội mà dám bắt cóc tiểu thư của một vương gia?” lòng hiếu kỳ nổi lên, nàng lướt ra phóng theo sau lưng bốn thiếu nữ.
Đi một hồi, lại nghe một người nói: “Ngày mốt là đại điển khai bang, không biết đại vương có đến không?” Một người khác nói: “Con gái ông ta ở đây, sao không đến?” rồi nàng nói: “Tôi nghe thiếu chủ nói đại vương rất bận, chưa chắc có thể đích thân tới đây”. Thiếu nữ lúc đầu nói: “Thiếu chủ rất tốt với tỷ, thường nói chuyện với tỷ”. Nàng thiếu nữ ấy hừ một tiếng rồi lại nói nói cười, một hồi sau thiếu nữ đầu tiên nói: “Các người bảo Quận chúa xấu tính, nhưng tôi thấy nàng rất tốt, đêm hôm tôi hầu hạ nàng chải đầu, nàng giữ tôi hỏi ngắn hỏi dài tựa như tỷ muội”. Thiếu nữ lúc đầu nói: “Nghe nói đại vương không chịu cho nàng lấy chồng nên mới trốn đến đây”.
Bốn thiếu nữ vòng qua hòn non bộ, đi đến gốc cây của khu vườn, chỉ thấy một tòa lầu ba tầng, bên trên có treo mười tám ngọn đèn bát giác, tầng thứ ba cửa sổ mở rộng, ánh đèn hắt xuống, hiện rõ bóng dáng một nàng thiếu nữ trông rất quen, Lữ Tứ Nương không nhớ là ai. Nàng đang định phóng lên lầu. Đèn trên lầu vụt tắt, ở nơi góc vườn có hai người xuất hiện. Bốn thiếu nữ xuôi tay đứng yên, Lữ Tứ Nương vội vàng lẩn vào trong bụi cây, nàng đưa mắt nhìn ra, bất đồ thất kinh, hai người đó một người là Thượng trang chủ, một người là Hàn Trọng Sơn sư đệ của Thiên Diệp Tản Nhân. Chỉ nghe Thượng trang chủ nói: “Hôm nay lão huynh muốn đi sao, sao không đợi ngày mai, hôm nay có ba tên tiểu tử kéo tới, khẩu khí rất lớn, tôi muốn nhờ ông tìm hiểu lai lịch của bọn chúng!”
Lữ Tứ Nương càng thất kinh, thầm nhủ Hàn Trọng Sơn võ công cao cường, ám khí lợi hại. Nếu một mình y thì đỡ, chỉ lo bọn Liễu Ân cũng tới đây. Nàng đang suy nghĩ chỉ nghe Hàn Trọng Sơn nói: “Bằng hữu của tôi đang chờ, ngày mốt tôi chắc chắn đến đây. Lát nữa tôi sẽ đến xem ba tên tiểu tử kia, nếu chúng đúng là nhân vật đã thành danh, lẽ nào tôi không biết”. Thượng trang chủ nói: “Hay lắm, tôi lên thăm Quận chúa trước, mấy ngày nay nàng ta rất ngang ngạnh!” Hàn Trọng Sơn hừ một tiếng, nói: “Nha đầu đê tiện!” rồi cùng Thượng trang chủ lên lầu, Lữ Tứ Nương vội vàng chạy ra, thi triển khinh công tuyệt đỉnh trở về phòng.
Hai người Cam, Đường đang nóng lòng chờ đời, Lữ Tứ Nương phóng tọt vào cửa sổ, Cam Phụng Trì nói: “Muội có nghe ngóng được gì không?” Lữ Tứ Nương nói: “Lát nữa lão quái vật Hàn Trọng Sơn sẽ đến thăm chúng ta, chúng ta cứ giả vờ ngủ”. Căn phòng khách rất lớn, ba cái giường xếp kề nhau, Cam Phụng Trì ngủ ở giữa, một hồi sau chợt nghe tiếng gõ cửa, Cam Phụng Trì cố ý để cho bọn chúng đợi một hồi mới giả vờ ngái ngủ bước ra mở cửa, Hàn Trọng Sơn và Thượng trang chủ đứng ở cửa, Thượng trang chủ nói: “Lúc nãy có người dạ hành vào trang, ba vị có kinh hãi không?” Cam Phụng Trì kêu: “Hổ thẹn”. Nói: “Chúng tôi ngủ say quá, chẳng biết trời trăng gì cả”. Thượng trang chủ nói: “Tôi chỉ sợ kinh động đến quý khách, thật là ái ngại”. Rồi kéo Hàn Trọng Sơn giới thiệu cho ba người, Hàn Trọng Sơn nhìn một hồi, tuy Lữ Tứ Nương và Đường Hiểu Lan đã từng gặp y một lần nhưng giờ đã thay đổi dung mạo, Lữ Tứ Nương lại mặc nam trang. Trong ánh đèn nhập nhoạng, Hàn Trọng Sơn chẳng nhìn ra được gì cả.
Hàn huyên mấy câu, Hàn Trọng Sơn nói: “Đã quấy rầy” rồi cáo từ, Thượng trang chủ bước ra theo, Hàn Trọng Sơn nói: “Hình như ba tên tiểu tử này chẳng phải là nhân vật thành danh gì cả, nhưng xem ra võ công cũng rất khá, có lẽ là đệ tử danh gia, chắc là đến đây muốn gây rối”. Thượng trang chủ chợt nói: “Có phải là môn hạ của Thiên Sơn kiếm khách không?” Hàn Trọng Sơn nói: “Thiên Sơn kiếm chẳng còn truyền nhân, ông cứ ôm hận mãi làm gì?” rồi lại nói: “Trang chủ, xin thứ tôi lỡ lời, thực ra với võ công của ông, lại có Vệ đảo chưởng và Mạnh trại chủ ở đây chả lẽ sợ ba tên tiểu tử này gây rối?” Thượng trang chủ thấy y nôn nóng nên không nói gì nữa. Hàn Trọng Sơn cung tay, lướt ra khỏi trang nhanh như làn khói.
Ngày thứ hai, ngày thứ ba, đầu lĩnh của các bang hội lần lượt kéo tới, Thượng trang chủ bận rộn tối mày tối mặt, nhưng vẫn âm thầm sai người canh giữ bọn Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì rất già dặn kinh nghiệm giang hồ, lời ăn tiếng nói rất cẩn thận. Đến trưa ngày thứ tư, Thượng trang chủ nên đích thân đến mời, cả ba người cùng y bước ra vườn, trong vườn đã bày sẵn mấy bàn tiệc rượu. Lữ Tứ Nương chợt nhớ đến bữa tiệc của Ngư Xác đại vương, xem ra rất giống với hôm nay. Thượng trang chủ mời họ ngồi vào ghế, Lữ Tứ Nương thấy có hai người quen mặt, một người là Lăng Vân đảo chủ Vệ Dương Oai, một người là Thái Hồ trại chủ Mạnh Võ Công không khỏi thầm kêu lạ trong lòng.
Chính là:
Sơn trang nhốt ngọc nữ, trong tiệc thấy quần ma.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.