Thảm Sát Lê Gia Trang
Biên thuỳ Tàu - Việt.
Chiều đỏ cuối hạ. Quả lửa đáp gần rặng núi Tây. Vắng gió. Khí đá hun oi nồng. Mấy dãy rừng già quạnh quẽ hoang sơ, thỉnh thoảng vài tiếng gà chiều vọng từ dưới thung lên đèo eo óc buồn tênh.
Bỗng từ bên phía đất Tàu có tiếng vó ngựa khua lốc côc xao động núi rừng, nhịp kêu triền miên đơn điệu chuyển về vùng đất biên. Chim bay xào xạc, tiếng vó câu chợt sang nước phóng, rập dừng lại trên lưng đèo sát giời tuyến thảo dã.
Hiện rõ một đoán nhân mã lố nhố ngót trăm người súng ống tua tủa. Hầu hết, mặc quặm áo ka ki vàng hoe, còn một số ít mặc quân phục xám thép, nhác trông qua cũng đoán ngay được là đám quân gia của vị tướng quân phiệt Tàu đương thời.
Toán binh dàn nhang đèo, viên quan võ chỉ huy đứng trước hàng quân, bên cổ ngựa có cắm một cây cờ cao gần hai thước, trên ngọn phất phơ một lá hiệu kỳ sặc sỡ, động khép nếp, thấp thoáng ẩn hiện hàng chữ “Trần” nét Hán tự rất sắc. Cả đám lính phò một chàng trai Việt trạc hai ba, hai tư tuổi mặc quần áo lối Công tử, tiểu vương sơn cước, hình dong tướng tá khác thường dáng dấp thư sinh tầm thước, có mấy người lực lưỡng cũng y phục miền núi đứng sát sau lưng, cạnh mình còn một người Tàu trạc ngũ tuần, mặc áo xường xám lê thê.
Nhân mã đều đẫm mồ hôi, cát bụi viễn hành. Chàng trai Việt rút khăn lau mặt, trỏ xuống thung lũng nơi có phân mao mọc đầy chạy suốt sơn lâm nửa ngã về phía Bắc, nửa ngả về phương Nam, kẻ thành một đường giới tuyến thiên nhiên chia hai lãnh địa Việt - Tàu.
- Đất Cao Bằng kia rồi ! Mời vắng nước hơn năm cảnh thổ đã khác xưa. Yên tĩnh quá !
Người khách già mặc áo xường xàm cùng một người Việt trung niên lực lưỡng đánh ngựa lên sát chàng trai, rút ồng nhòm quét, giây khắc người Việt thì thầm:
- Quái lạ, sao chưa thấy bọn lão Quản Đô lên đón?
Chàng trai quay lại, cúi đầu chào người khách, từ tốn:
- Tới đất nhà rồi ! Cám ơn Đốc Bàn mất công lặn lội vất vả đưa mấy cung đường. Giờ tiên sinh có thể cho quân lính quay ngựa về nội dịa được rồi.
Viên Đốc Bàn già có dáng tần ngần lưu luyến chiếu viễn kính xét khắp vùng biên, chợt bảo:
- Miền này giặc cướp như ong, ẩn hiện bất thường. Thổ phỉ Tàu thấy cờ hiệu Tổng Đốc Đại Nhân chắc không dám phạm tới, chỉ sợ bọn giặc bên Việt Nam làm bậy, xẩy ra chuyện chi Đại Nhân trách phạt bọn “ngộ” chẳng an tâm ! Nếu ngại trời sắp tối xin Công tử cứ để bọn “ngộ” hộ tống vào tận nội địa Việt Nam.
Chàng trai mỉm cười:
- Vùng biên này, phụ thân tôi trấn giữ đã lâu! Đốc Bàn đừng ngại ! Sớm muộn sẽ có người ra đón. Tiên sinh cùng quân lính đi cả ngày, nên quay lại không tối mất !
Dứt lời chàng trai toan giục ngựa về phía đoàn lính hộ tống, ngỏ ý cám ơn chợt thấy viên quan chỉ huy tiến lên, trỏ sang đất Việt, giọng kính cẩn:
Im lìm như chết, chắc có gì bên đó! À! Công tử kìa, có đàn chim bay loạn như...
Viên quan võ chợt ngưng bặt, theo ngón tay trỏ, tận nẻo Đông Bắc chếch xa xa chim ngàn liền mấy bầy bay xé lên không trung tứ tán, rồi gà rừng kêu quang quác vùng biên cảnh đang im vắng bỗng xuất hiện một đoàn người ngựa hơn trăm bóng nối đuôi nhau thả kiệu băm tiến về phía Tây, thoáng đã mất dạng.
Mấy phút sau, đoàn người ngựa đã hiện ra xế dưới chân dãy đồi ngang thung biên, trong ống viễn kính, cả bọn mặc lối thổ dân, quan binh lẫn lộn, giữa đoàn còn thêm đến 20 con ngựa thổ từng bó chi lớn trên lưng. Vừa nhô ra, thình lình đoàn người ngựa chạy giạt khỏi chân núi, xé thành hai, lộn phắt lại thu hình cung dương, cứ thế tế nước đại như điên.
Ngay lúc đó, súng nổ đì đùng đạn xé không khí, mấy toán nhân mã từ mấy phía vọt ra, bắn loạn, đông đến mấy trăm tên, toàn đội mũ rộng vành. Đoàn người bị phục kích vừa chạy vừa cầm cự, một cánh chừng 30 tên cuốn bầy ngựa thổ tế vòng qua thung biên, bất ngờ lại bị một toán phục nữa chặn đường bắn vãi. Nháy mắt, đoàn người bị phục đã tan tành, chết khá nhiều, chạy tứ tán, mấy cánh quân phục từ các ngả kéo lại, cuốn tất cả ngựa thổ, ngựa chiến, súng ống tù binh, phóng ngựa qua thung biên, về đất Tàu.
Đứng trên đèo, viên quan chỉ huy vừa toan truyền vệ binh bố trí, nhưng lão Đốc Bàn đã quát trầm:
- Lộ mục tiêu rồi! Bố trận bị vây đánh chết ngay! Cứ dàn ra, đứng dưới cờ hiệu! Chắc đám thổ phỉ bên này đó thôi!
Rất nhanh, đoàn vệ binh lập tức dàn ngang, một viên đội trưởng lấy ra một lá hiệu kỳ lớn mắc vào cán dài, trương rộng đèo cao, ngay trốc đầu bọn chàng trai Việt.
Quả nhiên dưới thung bọn thổ Phỉ đã thấy bóng người ngựa trên đèo. Viên tướng vạm vỡ múa “pạc hoọc” hô lên một tiếng, cả cánh quân lập tức giạt chếch gọng kìm, kẹp lấy chân đèo, viên tướng thổ phỉ vừa định khai pháo, chợt thấy bóng cờ trên cao, liền rút ống nhòm coi, ngựa đen bước một, hai bên tả hữu có 5, 6 tên đầu mục dữ tợn.
- Hầy à! Bọn nào trên kia sao lắm cờ quạt thế? Chúng mày có đứa nào biết chữ, đọc coi!
Một tên dõng cao, đỡ ống nhòm chiếu khắp lượt nghiêng ngó mãi ngọn cờ lớn.
Chợt một cơn gió chiều thổi lộng lưng đèo, lá cờ mở rộng trên nền vóc màu hiện rõ mấy chữ Hán trần kim tuyến lấp lánh dưới nắng chiều: Lưỡng Quảng Tổng Đốc Đại Tướng Trần...
Tên đầu mục quay phắt sang, trao ống nhòm cho chủ tướng...
- Đại vương! Cờ hiệu Tổng đốc Lưỡng Quảng...
Vừa nghe đến đó, viên tướng thổ phỉ giật phắt ống nhòm chiếu lia lịa, nói ồn ồn:
- Hầy à! Tổng Đốc! Chà chà, quan lớn Đại tướng ở tận thành Quảng Đông ra đất ăn cướp này làm gì cà? Lạ thật! Lạ thật! Mà sao chỉ có một dúm lính ốm? Đánh chết ngay!
- Đại vương! Có khi đại binh còn đi sau! Hay người nhà Tổng Đốc? Kìa! Đại vương có thấy người đứng dưới ngọn cờ không?
Tướng thổ phỉ ngắm nghía giây lát đoạn giục lên, nói lớn:
- Binh nào trên đó? Sao có cờ quan lớn Đại tướng?
Lão Đốc Bàn tiến ra sát ghềnh đá, chiếu viễn kính nhận ngay được dáng Ma Thiên Trụ, một viên tướng thổ phỉ khét danh hung thần biên giới còn dữ hơn cả Lầm Đại vương miệt giáp Lào Kay, chuyên chơi tai người, Trụ thích nhất môi đàn bà, thường chọn đủ loại xẻo ướp bày trong phòng, lục lâm cường khấu phải kinh oai, gọi Ma Vương, dân mấy dãy biên thuỳ thường gọi biệt danh “Trụ vương hiếu sát”. Quan binh Tây, Tàu không sao đánh dẹp nổi, Trụ Vương có nhiều tay súng thiện chiến, tài võ lại cao, có thể độc hành lấy đầu người như bỡn.
Vừa nhác bóng tướng thổ phỉ dữ tợn, lão Đốc Bàn đã rúng tim, cố trấn tĩnh quát vọng xuống:
- Trụ vương! Lâu nay mạnh giỏi chứ? Bản chức có lời chào! Vừa đánh được món hàng lớn à?
Tướng thổ phỉ cười lớn:
- À! Đốc Bàn Xường! Vết đạn năm nào lành chưa? Đem lính đi bắt cướp đó ư? Sao lại dựng cờ Tổng Đốc?
Đốc Bàn Xường nghiêm mặt:
- Bản chức hộ tống công tử cháu quan Đại tướng Trần sang Nam! Công tử về nước có chút việc. Xếnh xáng một mực đánh cháu ngài sao?
Tướng thổ phỉ xua tay cười ha hả:
- Hầy à! Cháu quan Đại tướng? Tưởng bọn lính nào! Không muốn gây sự với Tổng Đốc Lưỡng Quảng! Xưa Tổng Đốc suýt chém đầu rồi lại tha ngộ mà! Thôi chào Đốc Bàn.
Viên tướng thổ phỉ hung thần múa “pạc hoọc” hô lớn. Cả cánh quân xạ phang phóng chếch về phía Tây Bắc như giông, thoáng đã mất hút nẻo biên thuỳ.
Đốc Bàn cùng đồng bọn thở phào. Chàng trai Việt ngẩng nhìn trời chiều nắng xế, chợt bảo Đốc Bàn:
- Yên rồi! Giờ tiên sinh có thể quay về! Bọn tôi vượt biên được rồi!
Viên Đốc Bàn không chịu, truyền binh hộ tống chàng trai xuống đèo, vượt biên địa phân mao, vào sâu nội địa hơn dặm, mới lộn về Tàu.
Chàng trai cùng 6, 7 tòng nhân mải miết ra roi, xuyên rừng vượt núi, đi qua những vùng biên cảnh hoang sơ, tới lúc mặt trời lặn hẳn, mới hạ nước phóng, thả kiệu băm tiến vào một miền đồi núi điệp trùng thiên hiểm, tít xa xa thỉnh thoảng có ánh lửa thổ dân le lói lưng đèo.
Núi Gầm! Mấy dãy sơn lâm bất tận vắt dọc suốt từ vùng Tam Đảo lên tít biên khu Bắc Xế, nằm giữa Cao Bằng, Hà Giang con sông Gầm uốn khúc xuyên sơn, đổ nước nguồn Tàu xuống tít sông Lô, cắt ngang đầu núi Bắc Thượng, ngọn Phi Mã Yên Sơn (Pi-a-ya) ngửi mây, nhòm khắc miền sơn kỳ thuỷ tú, lãnh địa cao thâm của các sắc dân Thổ, Mán, Nhắng, Mèo v.v...
Đi tới lúc trăng thượng tuần xế Mã Yên Sơn, cả bọn đến vùng Nước Hai, nơi nổi tiếng có giống ngựa hay nhất Đông Dương.
Người đàn ông Việt trung niên dẫn đường, bỗng bảo chàng trai:
- Lạ thật! Vẫn không thấy bọn Quản Đô! Lúc đi đón cậu Ba, cụ lớn nhà có dặn sẽ cho lão Quản lên biên đón, nếu cần, sẽ cắm trại chờ, sao vẫn chẳng thấy?
Chàng trai hơi nhíu mày, dáng lo âu:
- Hay có chuyện chi... ngăn trở? Này, chú Lực! Sao tôi thấy trong mình khắc khoải lạ! Như...
Người đàn ông trung niên vùng giơ tay làm hiệu, cùng giạt vào chân núi.
Rập! Có tiếng vó câu khua đường đá dăm, rồi một bóng ngựa từ quèn núi chạy vụt ra, mang trên lưng một người gục ôm cổ ngựa.
Năm Lực nhận ra dáng quen quen, bật kêu giật giọng:
- Kìa! Ai như lão Quản?
Con ngựa vừa tới ngang chỗ cả bọn nấp, kỵ sĩ có ngóc đầu lên, dướt trăng, thoáng bộ râu năm chòm đẫm máu. Vút! Vút! Liền hai mũi tên từ phía sau bay theo, cắm phập vào lưng kỵ sĩ già. Theo đường tên, một tốp 5, 6 bọn nhân mã xốc tới, tên đi đầu còn múa cây cung.
Nhanh như cắt, Năm Lực thò tay lên vành khăn, phóng vút liền mấy mũi dao lá lan.
Bất ngờ, cả mấy tên đuổi theo ngã nhào, có tên chân mắc bàn đạp, bị ngựa kéo bừa nát như bùi dẻ.
Năm Lực vọt ra, rượt theo con ngựa chạy trước, níu tay cương, đỡ luôn kỵ sĩ xuống.
- Trời! Lão Quản! Sao thế này?
Chàng trai vừa giục ngựa lại, ôm lấy nạn nhân. Kỵ sĩ trạc 50, quắc thước, mình đầy thương tích, mở mắt ra, thất thần, lắp bắp:
- Kìa! Cậu! Lão đi đón... bị phục binh... Chết sạch... Mới ra khỏi gia trang một giờ ngựa... Năm Lực đưa cậu ba... về mau... Hình như nhà... có biến... Cụ... cụ...
Ông già nhăn nhó, máu đầm đìa, chàng trai rung giọng:
- Sao? Lão? Biến sao? Ai?
- Nó... trời... nó là...
- Ai... bọn nào?
- Về mau... đường khác...
- Nó là...
Nhưng kiệt lực, lạc hẳn giọng, ông già nhìn mọi người, nghẹo sang bên, đôi mắt mở trừng trừng.
Chết rồi.
Năm Lực rút phắt mũi tên sau lưng ông già, soi ánh trăng bẻ rắc. Cả bọn mím môi, cúi đầu.
Chàng trai xúc động, nhìn lão người nhà thân tín.
Năm Lực vùng bảo:
- Buộc ông quản cho chặt! Thổ Mã Yên Sơn chỗ này nghịch lắm, phải phò công tử đi mau!
Năm Lực lục soát mấy xác chết, toàn lạ mặt.
Nửa phút sau, cả bọn lại lên đường, mang cả xác lão quản.
Xuyên sơn, bắt vào ngả khác, đi tới cuối canh hai đã đến một vùng rải rác bản dân, trong đêm có tiếng nước xô ghềnh.
- Sông Gầm! Sắp đến gia trang sao vắng lặng thế này?
Năm Lực gò cương bên giòng, đưa mắt nhìn bốn phía.
Trăng tà xế núi Tây. Gió lộng, sương chăng một vùng sơn thuỷ, tít xa giữa khu đồi chập chùng, rải rác bóng sàn thổ dân, đột nhô lên mấy mái nhà ngói nhấp nhô ẩn hiện giữa lá cây um tùm đầm ánh trăng khuya.
Im đến rợn người. Chàng trai hỏi Năm Lực:
- Phụ thân ta đang trấn nhậm Cao Bằng sao không gọi ta về dinh thành, lại dặn gặp tại trang trại? Lạ quá!
Bỗng từ phía nguồn sông Gầm liền mấy trái hoả pháo vọt lên trời.
Rồi tiếng súng thi nhau nổ đì đẹt liên hồi, vang động cả miền sông núi.
Cả bọn biến sắc, Năm Lực vùng cất tiếng:
- Nẻo gia trang! Có chuyện gì rồi! Ẩn mau! Các chú hộ vệ công tử, để tôi về trước coi sao!
Mấy tòng nhân – người Tàu – chắc tay chân thân tín của Tổng Đốc Lưỡng Quảng – cùng “dạ”, một người gầy rong, suốt cuộc hành trình không nói nửa lời, bỗng đánh ngựa lên sát Năm Lực, trầm giọng bảo:
- Chắc có dạ chiến. Ông bạn Nam thuộc địa hình, nên ở bên công tử, phòng bất trắc, còn dẫn đi ẩn nấp. Để ngu mỗ tới coi!
Năm Lực nhìn lại, nhận ra người đó là viên giáo đầu trong soái dinh Trần Tế Đường, lính tráng quen gọi là “Phàn giáo đầu”, thảy đều nể sợ. Lại nghe, người này nói tiếng ta khá sõi, Năm Lực không khỏi ngạc nhiên, người Tàu gầy đã cười khô giọng:
- Ông bạn Nam chớ ngại. Ngu mỗ từng sang Đông Dương mấy lần, cũng hay vào chỗ đánh nhau. Bọn lục lâm từng gọi “Đại vương Phàn” mà! Một tay súng nổ cự được trăm quân!
Miệng nói, tay múa tít cặp tiểu liên, lại vỗ vào hông ngựa:
- Còn cái này nữa! Ông bạn cứ yên lòng!
Năm Lực chẳng thấy vật chi, cũng vội bảo:
- Vậy cả hai cùng đi thám tốt hơn! Còn các chú cứ cùng cậu ba đợi đó.
Mấy người Tàu vội đưa chàng trai xuống ẩn vào lùm cây rậm.
Năm Lực, Phàn giáo đầu giục ngựa dọc sông Gầm, chạy ngược về phía súng nổ.
Hoả pháo cầu cứu vẫn liên tiếp bay lên trời. Đạn bay chát chúa, liên thanh thỉnh thoảng lại có tiếng nổ lớn vang động khắp miền.
Chừng nửa giờ sau, bỗng thấy Năm Lực cùng Phàn giáo đầu tế ngựa lại, vai áo rách bươm vì đạn xé.
- Công tử! Công tử đâu? Mau theo tôi lánh nạn! Nguy lắm rồi! Bọn giặc nào đánh gia trang, đông lắm sắp vỡ rồi!
Chàng trai tuấn tú nhảy ngựa ra, nắm lấy vai Năm Lực:
- Sao? Chú bảo sao? Bọn nào lại đến phá ấp trại? Bọn nào? Trời! Mau đưa tôi về!
Dứt lời giục ngựa toan phi, Năm Lực níu tay cương, sợ hãi:
- Cậu ba! Chớ liều mất mạng! Bọn nào không biết, nhưng – hình như nó cửa tử đánh vào! Hoả lực nó mạnh lắm, trong có non trăm tay súng, yếu lắm rồi! Cậu ba không quen trận mạc xông pha, chớ liều!
Chàng thư sinh giật cương, nhìn về phía súng nổ, khói lửa bỏng cháy ngạt, ánh rực vòm trời.
- Nó đốt trang – Cả nhà chắc về đó – Có việc gấp, phụ thân tôi mới gọi... Trời! Không khéo nguy mất! Cả nhà tôi... Sao gặp được bây giờ!
Buông lời, chàng thư sinh phóng thốc xuống đồi, chạy bay về phía gia trang. Bọn Năm Lực cả kinh vội phi theo bén gót.
Tiếng súng vẫn nổ dòn, dữ nhất phía cổng tiền. Ánh lửa rực trời, gia trang bốc cháy, quân giặc tay hồng đuốc tay súng, vừa phi ngang dọc vừa bắn, nhiều tên nhảy ào lên tường. Tiếng súng chống cự yếu dần, từ phía quân giặc, một toán quân giúp kẹp phò một lão râu thưa, mặt mày hung tợn, tay cầm lá cờ đen phất lia, hét:
- Nhào vào đánh cận chiến! Bây đâu! Kích tiền chặn hậu! Chớ để nó chạy thoát!
Cờ hiệu bay tung, bọn Năm Lực phò chàng trai lao vào phía hậu trang, vừa tới hồi Bắc, thấy một đội quân giặc cầm hồng đuốc ào tới, vừa nhác thấy, Lực vùng kêu khẽ:
- Trời! Giặc Cờ Đen! Cờ Đen Pi-A-Uác!
Đẹt! Đẹt! Bọn Lực hạ được mấy tên, phóng bừa vào cổng hậu. Quân giặc ào rượt theo.
Đang cơn nguy cấp, bỗng từ phía Bắc kéo tới một cánh quân nam nữ kỵ binh lố nhố, cầm đầu là một thiếu phụ trẻ tuổi, đẹp lẳng tình đến siêu lòng người dưới bóng cờ hiệu màu xanh. Vừa tới, lập tức quân cờ xanh tẻ làm hai, nửa đánh cản quân đen, nửa kéo rốt vào cổng hậu. Nhờ thế bọn Năm Lực mới vượt vào trong được. Nhưng vào đến nơi chỉ còn vài bọn gia đinh, lính dõng cầm cự mạn tiền, đang lui dần. Bọn Lực chạy qua vườn hậu, vọt ra hoa viên bên hồi, thấy xác chết ngổn ngang ngay hòn giả sơn.
Một chàng trai mặc quần áo ka-ki nằm gục, tay còn cầm súng. Chàng tuổi trẻ tuấn tú nhảy xuống, lật mặt, kêu thống thiết:
- Trời! Anh Cả! Anh Thái Hùng!
Vừa kêu vừa sờ quanh, rất lạ là người bất hạnh cổ bị đứt gần lìa, vết cứa nham nhám lấm tấm như dính ngân nhũ, mấy xác gần đấy cũng vậy. Chỉ vài kẻ có vết đạn.
Bọn Lực vội vực Thái Hùng, giục chàng trai rời hoa viên. Mặt tiền lửa rực, lố nhố quân giặc.
Chàng trai dắt ngựa, chạy băng vào thềm, đạn réo trốc đầu. Gia trang đang nghẹt cháy. Nơi nhà chính, cảnh tượng đổ vỡ kinh hồn, xác chết rải rác, không còn một bóng sinh vật.
- Phụ thân! Mẫu thân! Trời! Cả nhà đâu rồi?
Chàng trai chạy vô mấy phòng vắng ngắt, vọt lên lầu. Máu chảy đẫm cầu thang.
Mấy xác gái hầu nằm vật, trong buồng, mẹ chàng nằm chết trên giường, cần cổ gần lìa, khuôn mặt đẹp lão còn in đậm nét thê lương khó tả, máu chảy vũng trên nệm trắng.
- Trời! Mẹ!
- Phụ thân! Trời ơi!
Chàng trai nhào tới, ôm lấy xác mẹ, từ 2 mép bà, bỗng ứa ra 2 giòng máu.
Quá xúc động, chàng trai vùi mặt vào mặt mẹ, bồng xác bà, chạy sang buồng bên. Lại cảnh gớm ghê! Em gái chàng Trâm Anh, nằm chết trên giường, thân thể loã lồ, xiêm y rách nhầu, vung vãi, khuôn mặt xinh đẹp còn khắc hằn nét kinh hoảng, hai mắt trợn trừng, thân dưới nhầy nhụa di tích bị hãm hiếp, nhũ hoa nát như chó gặm.
Tất cả vùng ôm mặt, Năm Lực lẹ tay giật vội màn “tuyn” phủ lên mình cô gái xấu số. Chàng trai thét như điên.
Súng nổ quân hô gần kề, phèn giáo dẫn quân ra, kêu giật:
- Rời khỏi đây mau! Giặc đã kéo vào!
Chàng trai gạt lệ, ôm xác mẹ, bọn Lực bồng xác Trâm Anh, chạy xuống dưới, gọi tìm vẫn không thấy ai nữa.
- Còn phụ thân tôi! Anh Hai Kiệt, Nhuỵ Kiều nữa!
Giặc Đen ùa vào sân trước bắn nhầu. Tù và rúc vang động. Bọn Năm Lực đành cấp tốc bỏ thể xác lên lưng ngựa, giục chàng trai bỏ chạy theo lối hậu. Cả bọn vừa dắt ngựa băng chếch qua khu sau nhà bỗng giật mình, thấy một bóng áo sa khăn xếp nghỉ trên ghế đá. Chạy lại coi thì ra chính viên tuần phủ Cao Bằng, chết trong thế ngồi chơi, cổ cũng gần lìa.
- Phụ thân!
Lòng đau gia biến, không kịp khóc, chàng con trai tuần phủ vội thờ xác cha, cùng đám người nhà thân tín, hấp tấp thoát ra ngả cổng trước, vừa vặn giặc Cờ Đen ập vào mặt cổng tiền, nàng nữ tặc lẳng tình kéo nữ binh vào ngả cổng hậu.
Nàng Giặc Cái Lẳng Tình Trên Phi Mã Yên Sơn
Từ phía cổng tời cống cách nhau vườn cây rộng. Cống này chắn ngang một con lạch chạy gần tường Nam, ăn thông ra một cái hồ nước có ngòi sinh phần giữa hồ. Ánh hỏa soi loang lổ. Nước cạn, bọn Lực theo con lạch thoát ra. Ngoài cổng nàng nữ tặc dẫn quân bắn nhầu, đoạt tường chiếm dãy nhà chính.
Mặt ngoài, lão râu thưa quát lớn:
- Á cô em Mã Yên ! Sao tới đây gây sự? Theo phò lão quan hử?
Nữ tặc cười khanh khách:
- Cờ đen yên trí, bản cô nương chỉ tới kiếm lang quân! Được tin chàng mới tẩu về, ta vội tới, biết điều chớ chạm đền hảo lang quân. Còn lão giặc đen, sao tới đây phá đám?
- Lão gia thề phá nhà họ Lê thành bình địa, giết toàn gia, cô nàng nên đi kiếm chồng hướng khác.
- Chó già! Tiếc có bắt được mi. Chỉ bán cho chó gặm! Muốn nổ cứ nổ chớ nhiều lời !
Hai bên bắn nhầu. Nàng giặc Khách cướp đường, phóng vào chính sảnh, sục sạo.
Ngoài kia bọn chàng trai đã kịp thời chạy ra sát cống nước.
Công khép, xích đã tháo từ lúc nào. Cả bọn mừng dắt ngay nhựa xuống. Chẳng ngờ, ngay lúc đó một căn nhà lầu bị lửa hun nung đổ rầm, nàng nữ tặc Phi Mã vọt vào sụt sạo, không thấy người, ra luôn sau nhà. Đúng lúc một gái giặc loáng thoáng trông người lố nhố cuối lạch vùng hô lớn:
- Đại cô nương! Coi kia ... Cuối vườn …
Tuyệt Tình Nương đảo mắt thau, quát:
- Bắt cả lấy! Vây mau ! Kẻ đạn!
Nữ tặc bay thốc lên lưng ngựa, “bóp” tay bắn một trái hỏa pháo rớt trúng cống nước sáng vỡ.
Bọn Lê Thái Dũng thất kinh, chưa kịp nổ súng đã nghe đạn réo “chiu chíu” trốc đầu quanh người ngựa rất "khéo".
Lại thêm tiếng đạn từ ngã trước bay tới, rõ ràng có cả quân trùm mặt đảo vòng lại. Tình thế hiểm nghèo, Phàn quát chìm:
- Nó kẻ đạn vây cốt bắt sống, cứ thoát mau, “Ngộ” còn có cái này!
Soạt ! Cựu tướng Thổ Phỉ rút bên ngựa ra một khẩu “moọc chiê” nhỏ tựa thành cống, kẹp súng vào đầu gối.
Rất nhanh một gã Tàu mở luôn bao đạn, lôi thả vào miệng súng.
Cạch đùng ! cạch đùng ! Đạn nổ nhịp nhàng, chần cánh cung mấy mặt, đều như giã giò. Người ngựa tung nhào, bụi cát bay mù, bọn giặc cả kinh xé tìm chỗ núp.
Bọn Thái Dũng thừa cơ ra khỏi cống nước. Phàn vọt theo, tung luôn mấy trái hỏa mù, cả bọn rạp mình, thồ xác ngang ngựa tế như gió về ngã sông Gầm.
Lòng đau như cắt, chàng thư sinh họ Lê ngoái cổ lại nhìn cảnh gia trang yêu dấu, chỉ thấy một vùng lửa cháy, đạn réo, khói hỏa mù che cả khu hậu trại, ẩn hiện nhiều bóng giặc đuổi theo. Đành rạp mình ôm xác em gái, mặc ngựa phi bừa, bên tai thoảng nghe tiếng bọn Lực, Phàn gọi luôn miệng.
Đạn réo “chiu chíu” trốc đầu, chợt nghe tiếng Năm Lực bật kêu gần đây, vừa ngóc đầu lên, bỗng thấy nhói bả vai, nóng ran. Sực tới sông Gầm, trăng tà le lói, nước réo xô ghềnh cỏ cây rậm rạp, tối sầm. Lố nhố mấy phía bóng giặc rượt theo bắn vãi. Chàng trai ôm vai, vừa định ngoắc tay trái bỗng có tiếng roi quất vào hông ngựa, tiếp liền tiếng người quát khẽ:
- Phía đó có tụi trùm mặt! Công tử rạp mau!
Ngựa phi đại dưới hàng cây loang lổ, cứ thế men ngược bờ sông Gầm, chạy như điên. Chừng mấy dặm, vẫn thấy giặc đuổi theo, chẳng rõ đám nào. Ngó quanh mình chỉ còn hai bóng, chàng trai họ Lê càng hoảng, hoa cả mắt, cứ thế phóng nhầu.
Mấy phút sau, ngựa vọt lên một ngọn đồi khá cao, thưa cây, ngoảnh lại, không thấy quân đuổi, bọn Lê đã mừng thầm, chẳng ngờ vừa tới lưng đồi trông lên, đã thấy lố nhố đầy bóng nhân mã khắc vào nền trời mờ ửng, dàn ngang khắp ngọn đồi theo hình cung khép lại, sừng sững như đá tạc.
Có tiếng cười lanh lảnh vọng xuống:
- Chớ sợ! Bọn chó đã đi rồi! Chạy đâu cho mệt.
Bọn Lê lộn xuống, ngờ đâu lại thấy đám phía sau lù lù hiện ra. Cả mấy mặt đều bít, Thái Dũng lật đật té phăng ngựa xuống sông Gầm.
Nước xiết, đá nhô, lồi lõm, giòng lũ xô ngựa níu chân, lúc đó Thái Dũng mới định thần, coi kỹ mới hay bọn Năm Lực đã lạc đâu mất, chỉ còn Phàn giáo đầu và một chú khách nữa bên mình. Bèn liều lĩnh quất ngựa ra giòng, nhưng nước chảy xiết cuốn lôi chân ngựa, cái xác đặt bờ lưng ngựa chỉ chực lăn nhào xuống nước, Phàn phải đánh ngựa lại kèm bên, khẽ hỏi:
- Nước chảy như thác, sông có đá ngầm, ngựa thường khó qua, sức công tử liệu đeo xác vượt nổi không?
Thái Dũng lắc đầu, trông lên đã thấy bọn giặc lố nhố, đen kịt bờ sông, líu lo tiếng gái Tàu, Thổ như chim. Đạn vãi đầu ngựa lõm bõm, tiến thoái lưỡng nan, Thái Dũng hốt hoảng giục ngựa lội đại nhưng con ngựa chừng như không thạo nước, cứ hất cổ lên hú vang. Còn đang luống cuống, bỗng nghe véo một sợi thòng lòng bay xuống thắt nghiến ngay cổ ngựa Thái Dũng.
Phàn rút dao toan chém thừng chợt liền mấy bóng nữ binh vọt xuống sông, Phàn định nã súng, nhào xuống nước trốn, nhưng nghĩ không nỡ bỏ Thái Dũng đành thúc thủ, ngồi yên.
- Hay lắm! Tước khí giới, trói hai đứa! Chính thằng nã súng cối đó!
Tuyệt Tình Nương Hàn Tố Liễu hiện ra tay cầm dây thòng lọng kéo riết ngựa Thái Dũng vào bờ. Chàng trai ôm xác em gái, quát lớn:
- Giặc cái! Thù oán chi lại đuổi bắt ta? Buông ra!
Thoắt cái, nữ tặc đã kéo người ngựa lên bờ, ngó chàng trai Việt chòng chọc, vùng cười khanh khách:
- Chà! Lời đồn không sai! Trai Nam mỹ mạo, trai họ Lê Cao Bằng quả trại Phan An! Thôi mời công tử theo thiếp về núi!
Phàn cùng chú khách đồng hành bị trói chặt, điệu lên, Thái Dũng ngó nữ tặc, dưới trăng tà, coi lẳng đẹp lạ lùng, môi chúm chím, mắt long lanh tình tứ, Dũng vốn đứng đắn, vùng mắng:
- Giặc cái! Nam nữ tị hiềm, bắt đàn ông làm chi? Không sợ thiên hạ chê cười sao?
Nữ tặc cùng đám thủ hạ phá lên cười ngặt nghẽo, nàng ta ngắm nghía chàng như con thú xem mồi.
- Trai Nam thẹn ngẩn, sợ thiên hạ chó đẻ cười?
Cả lũ phá cười, ngắm nghía trầm trồ, líu la líu lo toàn tiếng Quan Hoả lẫn giọng Thổ Quảng Tây.
Lòng dạ đang đau gia biến, lại gặp cảnh trớ trêu; Thái Dũng giận căm nhưng biết mình chỉ là kẻ thư sinh trói gà không chặt, đành làm thinh ngoảnh mặt đi. Nữ tặc ném thưởng một ả đầu mục, quất véo vào ngựa Lê, con vật lồng lên, nữ tặc kèm một bên, cả mấy cánh hợp lại phò nữ soái tặc cùng “công tử” chạy như gió cuốn về phương Bắc.
Khỏi vùng Nước Hai, bọn giặc hạ xuống kiệu nhỏ, Thái Dũng nhìn trăng lụn từ lâu, bốn phía tối mờ bọn giặc đang xuyên sơn, đi vào một miền rừng núi chập chùng, thâm u đầy khe thác, nhìn phía nào cũng thấy bóng núi dựng thành vắt ngang, quạnh quẽ hoang vu khác thường.
Chợt bọn giặc dừng lại, rồi bịt mặt ít nhân, tiếp tục đi miết. Lúc đó Thái Dũng mới để ý nhận ra bọn chúng còn bắt theo khá nhiều đàn ông, con gái nữa, điệu phía sau.
Nữ tặc Hàn Tố Liễu rút mùi xoa bịt mắt Dũng, cười bảo:
- Công tử chớ giận! Khách bút mực thành thị phải tập quên luật lệ cường sơn!
Mùi thơm ngát thoảng hơi da đàn bà làm chàng trai khó chịu lạ lùng, từng học tiếng Quan Hoả, Quảng Đông, họ nói cũng hiểu nhưng cứ lặng thinh, đầu óc rối bời. Ngựa bước một lội suối băng ngàn, leo núi, quanh co gập ghềnh, trong đêm lóc cóc vó câu triền miên, vẳng tiếng hoẵng lạc bầy cô đơn, cứ tiến đi mãi, tới lúc gà gáy sáng mới ngừng.
Bừng mắt ra, Thái Dũng thấy mình đứng giữa một miền sơn kỳ thuỷ tú lạ lùng, dưới ánh bình minh, núi cao chớn chở, rừng già xanh um, rải rác có những bóng nhà sàn chênh vênh. Bọn giặc đâu mất, chỉ còn nữ tặc với chín, mười nữ binh, dưới gốc cổ thụ, Phàn giáo đầu cùng chú khách bị trói chặt chân tay, ngựa thồ xác còn đó.
Nữ tặc Hàn cười bảo:
- Tới rồi! Để thiếp đưa hai thằng kia “đi”, còn dắt công tử lên núi!
Miệng nói, tay rút súng định bắn Phàn, Thái Dũng thất kinh kêu lớn:
- Nàng... giặc! Sao lại giết oan bọn họ?
- Nó có võ, để làm gì? Núi sẵn gái hầu mà!
Nói đoạn, lẩy cò luôn.
Liền hai phát sát tai Phàn, Thái Dũng động lòng kêu lớn:
- Chớ giết vội! Muốn ta không tự sát, mau tha hắn!
Nữ tặc quay tít súng trên ngón trỏ, tiến lại bên Dũng, cười híp mắt:
- Công tử không lừa chứ?
Dũng ngao ngán, thở dài:
- Toàn gia bị chết thảm bất ngờ, ta còn tiếc chi thân. Chỉ hận ôm thù chưa báo nổi! Nếu tha bạn đồng hành lẽ đâu ta hai lời!
Nữ tặc ngoắc tay một cái. Lập tức bọn nữ binh chạy tới, cởi trói cho Phàn và chú khách.
- Bây đâu! Đưa công tử lên núi!
Thái Dũng trỏ mấy xác chết, nghẹn giọng:
- Khoan! Còn điều quan hệ nữa! Đây là thi thể cha mẹ anh em, ta muốn được thấy mồ yên!
Tuyệt Tình Nương bước lại nhìn, lấy tay lật vải màn trùm xác Trâm Anh, bật khen:
- Đẹp à! Cần cổ trắng, tên chó đú nào lại cứa đứt!
Bỗng nữ tặc cau mày, lẩm bẩm ngạc nhiên:
- Lạ dữ! Mấy vết đầu không phải dao cắt! Hình như Kiếm phong, độc chưởng? Chó đú giết người, chẳng lẽ Kỳ nhân có thuật thượng thừa? Bay đâu! Kiếm mấy cỗ áo!
Thủ hạ dạ ran, đánh ngựa đi, loáng đã tha về mấy cỗ quan tài.
Phàn cùng chú khách giúp Thái Dũng liệm xác, nhập quan tài.
Tuần phủ họ Lê có để móng tay dài, lúc Phàn nắn vuốt tay chân, chợt thấy trong móng tay rớt ra một viên giấy bằng hạt ngô. Bèn lượm lấy, kín đáo trao cho Thái Dũng. Chàng hiểu ý nhét dấu luôn, để ý nhìn vết cổ người thân thấy vết nào tuy đứt gọn tựa dao chém, nhưng đều có dấu đen đen trắng trắng li ti, dưới ánh bình minh, coi lấp lánh như ngân nhũ.
Bọn giặc nữ đào huyệt ngay chân đồi gần đây. Đám tang âm thầm không đèn trống, đốt hương lúc hạ huyệt, chàng trai họ Lê khóc như mưa. Đoạn gạt lên bảo Phàn:
- Chú về... thoát hang hổ cho mau! Báo cho “Người” rõ! Thân này cá chậu, chưa biết ngày nào...
Phàn hiểu ý, thót lên ngựa, cúi chào, ái ngại, cùng đồng bọn, theo cặp nữ quân ra khỏi vùng cốc thẳm.
Tuyệt Tình Nương đưa luôn Thái Dũng lên núi cao.
Đường lên quanh co thiên hiểm, có lúc phải luồn hang, sơn tặc xách súng canh phòng cẩn mật, lát sau tới một khu nhà bằng phẳng, có nhiều nhà cửa hang động sầm uất, toàn giặc nữ thấy Tuyệt Tình Nương tất tả rạp chào kính cẩn. Hàn Tố Liễu đưa Thái Dũng ra một ghềnh đá, chợt nghe cồng nổi âm vang, trên cao thả xuống một cái thang mây. Cả bọn vừa nắm vào, thang đã cuốn rút lên băng băng. Dũng lơ lửng giữa trời, ngó thấy toàn vực thẳm muốn chóng mặt, giây lát, thang dừng, Dũng ngạc nhiên thấy mình đứng giữa một cảnh thổ đẹp lạ, hoa cỏ tốt tươi, suối khe róc rách, có nhiều mái nhà mái nhọn dưới hàng cây um tùm. Thì ra đó là một thung lũng thiên nhiên ngay trên núi cao. Mới hay đã bị đưa lên tít ngọn Phi Mã Yên chót vót.
Còn đang lo nghĩ, đã thấy gái hầu từ đâu ùa ra “phò” chàng tuổi trẻ tới thẳng khu nhà mái nhọn trang hoàng rất xinh lịch, vào một căn lớn nhất, chung quanh liễu rủ thướt tha, phong lan thơm ngát.
Nữ tặc quát:
- Bay đâu, sửa soạn dạ yến, ta cùng công tử tẩy trần giao bôi!
Gái hầu dạ ran, Tuyệt Tình Nương bảo Thái Dũng:
- Bữa nay có khách tới nhận “hàng”, thiếp phải xuống, chốc lát sẽ lên!
Giọng thẻ như tiếng oanh, dứt lời, nàng giặc khách nhoẻn cười, nhìn chàng trai Việt, và bước đi thoăn thoắt. Thái Dũng còn đang lo lắng ngẩn ngơ, bọn gái hầu đã xúm lại phò luôn chàng sang phòng tắm, ả kỳ lưng, ả đấm bóp, líu lo hầu hạ tẩy trần, khiến chàng ngượng cứng người, tưởng mình là con heo đang bị làm lông trước khi xẻ thịt.
Liều sinh bạo. Chàng bèn hỏi dò lũ gái hầu mới hay: Hàn Tố Liễu là tay giặc cái chuyên buôn người miệt Pắc Hổi Đông Hưng, mới sang đánh bạt bọn giặc Thổ, chiếm cứ ngọn Phi Mã Yên Sơn này hơn năm làm cứ địa săn người đem bán sang Tàu.
Thủ hạ hầu hết là giặc Khách, giặc Hồ Quảng Tây toàn loại giết người không gớm tay. Nữ tặc Hàn lại nổi tiếng thích kẻ điển trai, thấy món “hàng sống” nào vừa ý, giữ lại dùng thử, chán, ném luôn cho sói ăn thịt, và xưa nay, chưa có món hàng điển trai nào thọ quá một đêm, thường chưa vào giấc vu, đã bị “thịt” rồi. Vì nàng nữ tặc lừng danh tình tứ, lại là một tín đồ thờ Thần Tình, sùng tình kỳ dị, lại ghét dâm căn, gần đàn ông, cứ thấy anh nào để dâm át hẳn tình, là giết ngay không tiếc, ngược lại, thấy anh nào bướng với nhan sắc, không chịu làm tình, cũng giết liền.
Nên khắp giới lục lâm suốt lam sơn tứ hải, rất nhiều kẻ mê sắc đẹp Hàn nương, nhưng không kẻ nào dám bén mảng.
Thái Dũng nghe qua, càng sợ, tắm rửa xong, vào phòng riêng, còn lạnh mình. Lòng lo thân cá chậu, lại đau cơn gia biến bất ngờ, chàng tuổi trẻ họ Lê như lửa đốt, sực nhớ tới viên giấy trong móng tay thân phụ, bèn mở ra coi.
Chỉ vỏn vẹn mấy chữ:
“Gia phả dưới gốc tùng. Kẻ thù địch bí mật có nốt ruồi to giữa ngực phất tay có chớp giết người. Oan cừu chồng chất phải chăng “nó” là...”
Nét chữ viết bút chì run run, nguệch ngoạc, vội vàng, bỗng đứt quãng, rõ viết trong cơn bối rối kinh hoàng kề thần chết.
Thái Dũng xem xong, ngồi suy nghĩ muốn điên đầu.
- Kẻ thù có nốt ruồi giữa ngực! Nam? Nữ? Trẻ? Già? Chắc cha ta cả đời ôm kín điều kinh sợ, biết cơ nguy mới gọi các con về. Toàn gia chết thảm phân lìa, thân ta học trò trói gà không chặt, lại sa tay giặc nữ đa tình đa sát biết còn rửa được thù nhà?
Thái Dũng ứa nước mắt, nghẹn họng, dấu kín viên giấy cha viết, bước ra hàng hiên nhìn tứ phía chỉ thấy núi non trùng điệp. Phi Mã Yên từng ngọn nhấp nhô, bốn bề chỗ nào cũng thấy trại giặc, dưới núi xa xa, người ngựa qua lại từng đoàn.
Nhìn lại, chỗ nào cũng đầy gái hầu líu lo, xinh xắn, hương lan rừng ngào ngạt. Chàng trai họ Lê càng chạnh niềm gia biến, vào nằm vật xuống giường, và thiếp đi lúc nào không biết, sau một đêm vất vả kinh hoảng.