Lý Định Quốc vội nói: "Đại ca, không thể mạo hiểm tiến vào! Theo ý kiến của ngu đệ thì chúng ta nên lùi mười dặm hạ trại, chờ ngày mai phái tiền phong đi hai bên núi trước, tra rõ không có mai phục rồi qua cũng không muộn!"
"Hắc hắc hắc, lùi 10 dặm hạ trại?" Tôn Khả Vọng cười lạnh mấy tiếng, "Nhị đệ gan nhỏ như vậy thật là uổng cho danh xưng Tiểu úy trì rồi!"
Hai người này đều là nghĩa tử của Trương Hiến Trung, là hai viên đại tướng Trương Hiến Trung dựa vào nhiều nhất. Chỉ có điều tính cách không hợp nhau. Tôn KHả Vọng sinh tính đa nhi, tật đồ hiền tài, đối với chuyện Trương Hiến Trung thưởng thức Lý Định Quốc vô cùng bất mãn, trong khí đó Lý Định Quốc tính cách lại quật cường, không phục ai. Do đó hai người thường xuyên kình chống. Chỉ có điều, Lý Định Quốc dù gì cũng lấy đại cuộc làm trong, chỉ cần không sai phạm nguyên tắc thì phần lớn đều chủ động nhân nhượng, cho nên biểu hiện của hai người mới hài hòa vô sự như vậy.
Trương Hiến Trung chỉ phái hai người lĩnh quân tám vạn đi chinh phạt Kiềm Dương có thể nói là dao mổ trâu đi cắt cổ gà, mục đích kỳ thật chẳng phải chỉ vì kim ngân tài bảo của ba vị vương gia, mà chủ yếu là binh sĩ trở về đều tuyên xưng địch quân có vũ khí quái vật uy lực cực lớn và khai hoa đạn loại mới, muốn đoạt được tiến hành nghiên cứu sử dụng.
Một mục đích khác đương nhiên là Liễu Nhược Băng. Mười năm trước, Liễu Nhược Băng trong vai trò bạch y nữ sát đã phóng cho Trương Hiến Trung một phi tiêu suýt chết, phải điều dưỡng mấy năm mới khôi phục, cho nên y hận Liễu Nhược Băng thấu xương. Khi nghe Bạch y nữ sát xuất hiện lại ở Kiềm Dương, Trương Hiến Trung mới biết ở Vũ Xương Trầm Lỗi không giết chết được nàng, đột nhiên tức giận, đem Trầm Lỗi báo cáo thắng lợi láo mắng cho một phen, ra lệnh cho Tôn Khả Vong và Lý Định Quốc phen này chinh chiến nhất định phải giết bạch y nữ sát đi.
Trương Hiến Trung đương nhiên biết hai người ở ngoài hợp bên trong ly, nhưng do hai người đều anh dũng thiện chiến, là hai viên đại tướng mà y ỷ trọng vào, cho nên Trương Hiến Trung không nguyện thấy hai người mâu thuẫn, nhất mực nghĩ biện pháp giảng hòa, tận khả năng tìm cơ hội cho hai người có dịp tiếp xúc với nhau. Trước đây y cũng đồng thời chỉ phái hai người mang binh xuất chinh, để hai người trong chiến đấu kết tình hữu nghị, không được kình chống nhau nữa. Lần này cũng vậy, y phái hai người họ đi là vì mục đích tăng sự hợp tác, và tăng khả năng cướp được bảo bối.
Lý Định Quốc được tôn xưng là nho tướng, lòng tinh tế vô cùng, sau khi hiểu được ý của Trương Hiến Trung, trước khi xuất binh sao không nghĩ biện pháp ứng đối vẹn toàn được? Cho nên y đi hỏi kỹ tình huống của hai loại vũ khí kia, cũng nghĩ ra biện pháp nằm bò ẩn tránh để né đạn. Ngoài ra, y đem những chiếc "xe" dùng để công thành trước kia làm vật che chắn đạn, số lượng tới mấy trăm, chính là muốn nhanh chóng tiếp cận vũ khí quái thú, dùng chiến thuật biển người chém giết tới cướp lấy.
Chỉ có điều, hai người chưa tiến đến được dưới Kiềm Dương huyện thành là đã vì chuyện ngay trong đêm đi qua luôn Nham Lũng sơn hạp cốc này mà va chạm lẫn nhau.
Tôn Khả Vọng nổi danh vì gan dạ đảm lược, nghe Lý Định Quốc nói thế, trong lòng phiền muộn, lạnh lùng nói: "Phen này xuất binh, phụ vương chỉ định ta làm tổng binh, đệ là bộ tướng, vậy do ta quyết định, có hậu quả gì do ta đảm trách!"
Lý Định Quốc lạnh lùng cười: "Nếu gặp phục binh bất lợi, làm mất uy danh của phụ vương, hỏng đại sự, e rằng đại ca lúc đó không thể gánh nổi đầu!" Tôn Khả Vọng rúng động trong lòng, ngẩng đầu nhìn sơn cốc nhỏ hẹp, trầm ngâm một chút, nói: "Được, nếu như nhị đệ lo hai bên núi có phục binh, vậy phái hai nhóm nhân mã treo lên núi hai bên đi trước tham tra, đại đội nhân mã của chúng ta tiến phát phía sau."
Hai bộ tướng lĩnh mệnh, mang binh đốt đuốc một mặt qua sống, một mặt lên núi, phận biệt tham tra hai bên sơn cốc.
Lý Định Quốc nói: "Đại ca, cách Kiềm Dương không còn xa nữa, chúng ta cần phân binh vu hồi bao vây thôi! Trước khi xuất phát, phụ vương đã dặn dò kỹ lưỡng hai chúng ta, lần này xuất binh khác trước đây, lấy tám vạn đại quân công đánh một huyện thành nhỏ, thắng lợi là không còn nghi ngờ, điều quan trọng là phải thực hiện ba mục tiêu. Thực hiện mục tiêu không được, dù có san bằng Kiềm Dương huyện, giết sạch thủ quân Minh triều cũng không thể coi là thắng lợi!"
Tôn Khả Vọng trầm giọng hỏi: "Theo ý kiến của đệ thì phải làm như thế nào?"
Lý Định Quốc đã nghĩ kỹ kế hoạch tác chiến, khẽ đáp: "Phân binh bốn đường, vu hồi bao bọc, hợp vây Kiềm Dương. Đệ đã điều tra qua, Kiềm Dương huyện ba mặt là núi, chính diện là vũng trũng bằng. Phía ba núi không có xây tường thành hay thành bảo, vu hồi đánh úp rất dễ. Do đó, chúng ta dùng chủ lực công chính diện, dụ cho chủ lực địch trung trung mặt này, sau đó đột nhiên từ hai cánh và phía sau phát động cường công, sau khi phá thành sẽ triển khai hỗn chiến, vũ khí quái thú và khai hoa đạn của địch không có cách gì sử dụng, như cá nằm trong rọ, tha hồ bị ta bắt không thể thoát thân. Chỉ có như thế mới dùng thương vong ít nhất đoạt thắng lợi, đồng thời thực hiện ba mục tiêu của phụ vương giao cho. Nếu không, địch quân bỏ chạy, giữ rừng núi mệnh mông này biết phương nào mà tìm."
Án chiếu theo thiết tưởng của Minh Thái tổ sau khi định quốc, mọi châu huyện trọng yếu đều án chiếu theo phương án kiến thiết định định sẵn mà làm, bao quát kiến trúc thành thị, đường lớn nhỏ, trong đó bao quát cả tường thành vâng vâng. Nếu như án chiếu theo quy hoạch, Kiềm Dương huyện ba mặt là núi, do đó phải lên núi mà tạo tường thành, hoặc phải tạo công sự phòng thành. Nhưng do Kiềm Dương huyện là huyện nhỏ xa xôi, lại không phải là trọng địa chiến lược gì, cả trăm năm nay chưa hề gặp chiến tranh gì lớn, do đó có thể xây thành tường bao quanh mặt trước đã hay lắm rồi. Núi cao xung quanh không có công sự xây dựng gì, nếu không thành tường dựa vào núi đó nhất định sẽ khiến cho đại quân tấn công của Trương Hiến Trung gặp không ít phiền phức.
Tông Khả Vọng lạnh lùng cười: "Hắc hắc, binh phân bốn đường? Biện pháp hay a! Biện pháp hay! Nhưng mà lần trước binh đánh Kiềm Dương tựa hồ cũng binh phân tứ lộ mà, đúng rồi, còn lợi dụng hắc ám trước khi trời sáng nữa! Kết quả thì sao? Hắc hắc, binh lực phân tán, bị người ta đánh cho tơi bời khói lửa, ngay đầu của chủ soái cũng bị cắt mất. Nhị đệ định lặp lại lần trước sao?"
Lý Định Quốc nhướn đôi mày rậm: "Ngu đệ cho rằng, lần trước phân binh vu hồi bao vậy, lợi dụng bóng tối trước khi trời sáng tấn công bốn mặt là hoàn toàn chính xác. Sự thật đã chứng minh là binh ta đã phá ba mặt mà vào thành. Sau đó binh bại không phải là nguyên cớ hợp vây, mà là vũ khí quái thú và đạn khai hoa của địch quân quá mạnh, lúc đó còn có bạch y nữ sát nữa. Các tướng sĩ lần đầu gặp phải vũ khí tập kích mãnh liệt như vậy, lại không biết cách ứng đối, dẫn tới bị địch làm loạn trận cước. Còn tướng soái trong cơn hoảng loạn không cắn răng cường công, lại khua chiêng thu binh, tiền hậu mâu thuẫn, dẫn tới binh sĩ cường công không biết làm thế nào hoảng loạn triệt thối. Rồi chủ tướng sau đó bị giết, quần long vô thủ, bấy giờ mới đại bại. Phen này quân ta đã có chuẩn bị, các tướng sĩ đều biết cách ứng đối thế nào, nhất định không lặp lại tình cảnh lần trước!"
Lý Định Quốc phân tích như vậy kỳ thật là nhìn rõ cục diện lúc bấy giờ. Đừng nói chi đạn súng máy lúc đó của Dương Thu Trì đã tiêu hao gần hết, cho dù có đủ dùng, chỉ cần quân đánh vào thành càng lúc càng đông, cuối cùng vẫn có thể đánh chiếm được huyện thành Kiềm Dương. Dù gì thì phản kháng của dân chúng không được huấn luyện chẳng có mấy tác dụng với hàng vạn địch quân tinh nhuệ, trong khi đó Dương Thu Trì chỉ bằng một cây súng máy, một mình không thể đoạt lại Kiềm Dương huyện thành. Trương tặc quân bại chính là bại ở loạn thế trận, bị súng máy của Dương Thu Trì đánh cho hồn phi phách tán, chẳng còn đấu chí gì, chỉ muốn chạy trốn. Khi nghe chiêng thu quân, toàn quân đại loạn, quân đánh vào thành chỉ muốn chạy ra, chưa tiến vào thành thì theo mệnh lệnh triệt thối. Hai bên cùng rút, chủ soái chiến tử... cuối cùng đại bại.
Tôn Khả Vọng nói: "Phân binh là đại kỵ của binh gia! Cô quân thâm nhập, chỉ huy không linh, một khi bị địch quân tập trung ưu thế binh lực kích phá từng cụm, e rằng không những không thắng mà còn bị bại! Do đó, phân binh là chuyện vạn bất đắc dĩ mới làm, không thể tùy tiện. Huống chi, vu hồi bao sao phí thời gian phí lực. Địch quân nếu muốn chạy, không chờ đệ bao vây đã có thể chạy trước rồi! Do đó, bao vây hay không chẳng phải là chuyện có thể diệt hết địch quân. Qua khỏi Nham Lũng sơn này, rồi phân binh trực tiếp bao vây thành trì chẳng phải là bớt sức bớt thời giờ, nhanh chóng lẹ làng hay sao? Nếu địch quân muốn chính diện quyết chiến thì càng tốt, vũ khí quái thú và khai hoa đạn của địch quân ta đã có kế sách ứng đối, sợ chúng gì chứ!"
Lý Định Quốc đáp: "Tuy nói là bớt thời giờ bớt lực, nhưng nếu như vậy thì địch quân sẽ biết thực lực của ta, không đạt được hiểu quả xuất kỳ bất ý nữa. Đệ đã tra hỏi kỹ tướng sĩ tham chiến lần trước, đoán uy lực của vũ khí quái thú này chỉ có hai: Một - có thể gây sát thương ngoài ba nghìn xích; Hai - địch quân tự cho là có vũ khí uy lực vô cùng này, nhất định sẽ thủ kín thành, hi vọng quân ta sẽ từ chính diện cường công đánh rát, có lợi cho vũ khí của chúng phát huy uy lực. Chúng ta chính diện cường công chẳng phải là trúng phải mong mỏi của chúng hay sao?"
"Thì đã làm sao? Ta không tin là Kiềm Dương huyện nho nhỏ này có thể ngăn được một kích lôi đình của tám vạn quân ta?" Y ngước đầu nhìn, thấy quân thăm dò ở hai bên núi đã đi rất xa, vẫn bình an vô sự, trong khi đó mặt trời đã xuống núi, màu vàng của trời không đã biến thành xanh thẵm, sao trên trời đã lấp ló. Y quay đầu lai bảo: "Lý Chánh Lý tướng quân đâu?"
Lý Chánh là một tham tướng dưới trướng Tôn Khả Vọng, đội khôi mặc giáp giục ngựa tới trước ôm quyền thưa: "Mạt tướng có mặt!"
"Lệnh cho ngươi mang 5000 nhân mã làm tiên phong, tức khắc xuất phát, nhanh chóng thông qua Nham Lũng sơn hạp cốc (hẻm núi), bố phòng ở Bình Bá (vùng đất hiện giờ là một huyện ở An Huy Trung Quốc), chờ đợi đại quân đến đó hạ trại."
"Tuân lệnh!" Lý Chánh mang quân tiên phong đốt đuốc theo sơn lộ tiến vào hạp cốc.
Thấy đại bộ phận quân của Lý Chánh đã tiến vào trong cốc, Tôn Khả Vọng vụt roi ngựa, chỉ thẳng: "Chúng tướng quân, theo ta xuất phát!"
"Đại ca!" Lý Định Quốc kêu lên, "Ngu đệ kiên trì sách lược vu hồi bao sao (vòng ra sau lưng vây chặn đánh), nếu như đại ca không sử dụng, ngu đệ chỉ đành tự chủ trương, soái bản bộ tự đi đánh!"
Tôn Khả Vọng trầm mặt: "Ngươi dám không nghe lệnh của ta?"
"Không hề, đại ca xin đừng quên, trước khi xuất chinh phụ vương có từng nói qua, nếu như huynh và đệ ý kiến bất nhất, đệ có thể tự tiện hành sự."
Trương Hiến Trung hiểu rõ vô cùng về bản lĩnh của hai vị nghĩa tử này, đặc biệt là Lý Định Quốc là người biết rõ binh pháp, có dũng có mưu. Do đó, ông ta cấp cho y một thực quyền có thể soái lĩnh binh sĩ dưới quyền mình theo ý tưởng của y mà hành sự. Tuy dụng ý là tốt, là hi vọng có thể phát huy tính năng động chủ quan của Lý Định Quốc, nhưng cấp cho phó tướng đặc quyền không nghe theo chỉ huy của chủ tướng là điều cực kỳ nguy hiẻm. Rất may lần này họ có 8 vạn đại quân xuất chinh, trong khi đó đối thủ không đủ một vạn người, cho dù phân binh cũng không đến nỗi quá nguy hiểm. Trương Hiến Trung vì đạt mục đích, đã để cho Lý Định Quốc căn cứ theo suy nghĩ của y mà quyết định chiến lược thật ra cũng có suy xét đến tình huống này.
Tôn Khả Vọng sắc mặt tái xám, cười hắc hắc lạnh lùng: "Vậy tốt thôi, nếu như là thế, người dẫn quân bản bộ đi vu hồi bao sao đi, ta dẫn quân ta chính diện cường công!" Nói xong giục ngựa đi trước tiến vào cốc.
Lý Định Quốc tính cách quật cường, nhận định chuẩn sự tình rồi quyết không buông bỏ, lớn tiếng nói: "Đại ca, huynh tấn công chính diện, đệ soái lĩnh bản bộ vu hồi, từ ba mặt đánh vào thành trị xong huynh hãy phát cường công, tránh bị địch sấn cơ hội!"
Tôn Khả Vọng ngầm cười lạnh, thầm nghĩ: ngươi vu hồi bao vây phí thời gian phí lực, lấy lời này chặn ta, không cho ta cường công trước, chờ ngươi đánh vào thành rồi mới cho ta động thủ hay sao? Ăn cơm nguội canh lạnh sao? Hắc hắc, muốn giàn công lao? Lòng của Tư Mã Chiêu ai ai cũng biết!
Được! Chúng ta hãy coi ai giành được công đầu trước! Y chẳng thèm quay đầu lại đáp lời nào.
Lý Chánh dẫn đội đi tiên phong đã dọc theo dịch đạo Nham Lũng sơn mà tiến. Vùng Tương Tây nhiều mưa, cộng thêm nhiều năm chiến loạn, dịch đạo nhiều năm chưa sửa sạng gì, cho nên lổ voi ổ gà dày đặc, rất khó tiến bước. Lúc này trời đã tối hẳn, nhưng mà vầng trăng trên trời cộng thêm nhiều sao sáng đã chiếu rọi ánh lên triền núi đen xì xì.
Lý Chánh giơ cao ngọn đuốc, quay đầu nhìn triền núi và rừng rậm đen sì sì ở đối diện, lại ngẩng đầu nhìn vách đá cheo leo, lòng nghĩ sơn cố này thái quá nhỏ hẹp, nếu như địch quân đặt mai phục ở trên, đích xác là dễ thủ khó công. Rất may là đội trinh sát đã vượt qua triền núi phía trước, không phát hiện tung tích địch, nên y hơi an tâm.
Nhìn triền núi lồi lõm chìa ra như ưng như gấu, thậm chí có chỗ như đàn bà chữa phình cái bụng bầu, y cảm thấy tất cả dường như đang giương ánh mắt lạnh lùng nhìn họ đi qua từ dưới chân.
Đi được nửa thời thần, sơn cố phía trước từ từ trở nên rộng rãi, đường càng lúc càng thoãi càng rộng, y từ từ yên tâm hơn.
Mượn ánh trăng, y quan sát lũng sông bằng phẳng xa xa ở bên dưới. Đột nhiên, "oành! oành! Oành!..." Phía sau truyền tới những tiếng nổ lớn như sấm gầm, chớp mắt, đất động núi rung!
Chiến mã dưới khố Lý Chánh kinh hãi hí dài, dựng người đứng dậy. Do không kịp đề phòng, Lý CHáng bị ngựa hất văng, té mạnh xuống sơn đạo, đầu khôi bay mất, khải giáp toàn thân trở nên vô cùng nặng nề.
"Oành oành oành!" Tiếng nổ cực lớn vang lên liên tục, toàn bộ vùng đất đá chấn động. Lý Chánh vội vã chuyển thân nhìn, - trời! Quả nhiên là núi sập đất nứt rồi hay sao?
Con đường nhỏ hẹp trong hạp cốc mà y vừa đi qua lúc nãy, những vách đá nhô ra như ưng như gấu, nhưng bụng bà bầu hiện giờ không còn thấy đâu nữa. Chúng đã biến thành đá vụng bay khắp bầu trời, giống như vô số con dơi từ cõi u minh trở về, bay loạn trời đêm tìm đường bổ nhào tới tận giữa con sông bên dưới.
Vô số binh sĩ, chiến mã trên dịch đạo đã bị vùi lấp dưới đá núi bị đổ sập. Tiếng nổ xen lẫn tiếng thét gào của binh sĩ vang vọng cả sơn cốc.
Trên đỉnh đầu y có tiếng u u, không biết là cái gì. Nhưng binh sĩ tiền phong ngữa đầu quan sát, thấy có vô số hắc ảnh đang bay ùa tới đầu họ như dơi, chờ khi họ phản ứng được, biết đó là đá vụn thì đã có rất nhiêu binh sĩ gào thảm tử thương trong trận mưa đá này.
"Phát sinh chuyện gì rồi?" Lý Chánh cảm thấy may mắn vì không bị đá rơi trúng. Y ôm đầu gian nan đứng dậy. Y không dám tin sơn cốc bình thản như vậy, không có mưa cũng không có gió, sao trên trời đang sáng bừng, trời đất đem đẽ vô cùng thế này sao núi đột nhiên nổ vỡ rồi đổ sụp chứ?
Chính lúc y kinh khủng vạn phần thì....
"Oành....!"
Tiếng nổ lần này rất trầm nhưng liên tục, từ chậm rồi nhanh dần, cuối cùng càng lúc càng dữ dội.
Mặt đất dưới chân bắt đầu rung lắc, trong tiếng ì ầm khủng khiếp, các binh sĩ trên dịch đạo không ngừng lắc lư đó căn bản không thể đứng vững, đua nhau té ngã. Một số chiến mã hí dài chạy loạn, giẫm đạp binh sĩ chạy loạn trên mặt đất, không ngừng rơi ra ngoài vách đá, rớt phịch xuống đám nham thạch bên dưới.
Lý Chánh đứng vững lại. Y dù sao cũng là tướng quân thân kinh bách chiến, nên mượn trọng lực của khải giáp trên người ổn định lực, bảo trì sự cân bằng dù đất dưới chân rung lắc dữ dội. Do đó, ý nhìn thấy hết, thấy phía trên sơn nham vừa sụp đổ kia, từng khối núi to mấy chục trượng đó do đất đá ở dưới đã mất hết, nên dưới tác dụng của trọng lực đã đổ ụp xuống theo!
Núi sụp!
Toàn bộ tòa núi phía trên dịch đạo đã đổ sụp xuống dưới, tạo ra vô số tiếng chấn động điếc tai.
Mấy nghìn tướng sĩ, chiến mã trên dịch đạo chớp mắt tiêu biến! Toàn bộ bị chôn vùi dưới triền núi đổ ụp này.
Bụi bốc mù trời, phủ trùm cả sơn cốc. Ngay ánh trăng sao mông lung trên trời cũng bị che mất sau lớp bụi.
Không nghe thấy tiếng kêu thảm nào, bỡi vì binh sĩ gào thảm đó đều bị chôn sống dưới lớp nham thạch. Còn quân tiên phong của Lý Chánh dù bị thương cũng không kêu la, bỡi vì tất cả bọn họ đều cả kinh ngơ ngẩn. Trong chớp mắt, chỉ trong chớp mắt, mấy nghìn tướng sĩ còn mạnh mẽ cầm đuốc tiến tới vừa rồi đã tiêu biến sạch, tiêu biến dưới lớp đất đá do núi lở!
Hơn nửa ngọn núi đổ sụp đã điền đầy sơn cốc nhỏ hẹp.
Lý Chánh không biết bản thân nên cười hạnh phúc vì may mắn thoát chết hay không, hay là khóc rống lên vì thảm kịch không biết vì sao mà phát sinh này.
Chính vào lúc y không định ra được chủ ý, thì trên sườn núi đột nhiên vang lên tiếng hò hét, lóe lên vô số ngọn đuốc còn nhiều hơn sao trên trời. Tiếp theo đó, số đuốc này như có cánh, từ đỉnh đồi bay xuống, rơi cạnh thân họ, bốn phía lập tức sáng bừng.
Y thầm kêu không xong. Đây là thủ pháp thường thấy nhất trong mai phục ban đêm: đem đuốc ném từ trên đỉnh núi xuống, chiếu sáng địch nhân, còn bản thân quân mai phục thì ẩn tàng trong hắc ám, dễ dàng tiến công.
Không chờ y sắp xếp phòng ngự thì "vưu sưu vưu sưu....!"
Bên tai y vang lên tiếng mũi tên xé gió.
"A...!" Hiện giờ thì đã nghe được tiếng gào rú rồi, nhưng lần này là ở bên cạnh y. Tướng sĩ trên dịch đạo đã kinh hãi ngẩn người chưa hoàn hồn lại được, nên không kịp đề phòng, bị trận mưa tên tẩy rửa, vô số binh sĩ tinh anh đã ngã xuống trong trận mưa tên này.
Lý Chánh cũng trúng mấy tên. Y còn chưa kịp rút trường kiếm ở eo, hô máy tiếng: "Huynh đệ, trên núi có địch quân, xông lên! Xông...."
"Hưu....!" Một mũi điêu linh tiển phá không bay đến, trúng ngay trán của y.
Lý Chánh trừng mắt cực to, ngã ngữa ra dịch đạo, tới chết mà y còn chưa hiểu vì sao trong đêm vắng yên lành ở hà cốc tại Nham Lũng Sơn này lại đột nhiên phát sinh vụ núi sập, và địch quân từ ở đâu mà chui ra.
Quân tiên phong vượt qua vụ núi sập này chỉ được khoảng hai nghìn người, trong khi đó toàn bộ dịch đạo đã bị núi sập lấp hết, đường bị tắc rồi. Sau trận mưa tên bay ra từ hắc ám, phần lớn hai nghìn tướng sĩ này đã trở thành bia sống, chớp mắt đã tử thương quá nửa.
Tiếp ngay sau đó, sườn đồi lại vang lên hiệu giác xung phong. Mấy nghìn quân từ triền đồi ùa xuống như mãnh hổ. Quân tiên phong tàn dư tuy đã cửu kinh sa trường, nhưng sau khi bị núi sập mất hết hồn vía, dù nhanh chóng thanh tỉnh lại tiến hành đề kháng ngoan cường, nhưng ít không thể địch nhiều, chẳng mấy chốc bị diệt sạch.
Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng, A Hạnh Ny cùng mọi người đứng trên đỉnh đồi, nhìn quân chủ lực của địch ở xa xa hoảng loạn phóng hỏa súng và tên, đều nhìn nhau cười.
Khi Dương Thu Trì đến Kiềm Dương nhậm chức, đã từng đi qua con đường này, biết là dịch đạo trong cốc dài hơn hai chục km, địa thế vô cùng hiểm yếu, đặc biệt là ở gần cửa ra có vô số sơn nham trăm mét, thuộc về loại đá xanh rất dễ vỡ sụp. Chỉ cần cho những nham thể bên dưới này nổ rụng hết, thì toàn bộ triền núi sẽ ụp xuống, hình thành vụ lở núi cực lớn.
Và thế là hắn lập tức phái thạch tượng bắt đầu làm bộc phá, đục mấy chục lổ lớn, sau đó an bài bộc phá theo dọc vách đá này, rồi hắn tự thân nối dây dẫn hỏa kéo đi.
Tuy những người qua lại thấy có thạch tượng đục lổ trên vách đá, nhưng không ai biết họ đang chuẩn bị cho nổ phá núi, vì thời đại này không ai biết đến loại thuốc nổ mới có thể phá vách đá trong khi thuốc nổ đen thì không.
Sau khi sắp xếp xong, Dương Thu Trì cho chủ lực mai phục ở trên đồi gần cửa ra, chọn những binh sĩ lạnh lùng bình tĩnh hóa trang thành tiều phu mai phục ở giữa núi. Sau khi địch quân tiến vào gần hết, lập tức điểm hỏa rồi trèo ra sau núi rút đi.
Hắn cố ý để cho hơn hai nghìn quân tiên phong của Trương Hiến Trung qua khỏi khu nổ, tập trung ưu thế binh lực đánh trận tiêu diệt. Lợi dụng địa hình và ưu thế nhân số, hắn đã diệt hai nghìn quân tiên phong. Nhưng do tân quân lần đầu tác chiến, không có kinh nghiệm, nên vẫn trả giá bằng thương vong mấy trăm người.
Số quân do thám chỉ có mấy trăm, lại cứ men theo triền núi khó khăn tiến bước, nên chưa đụng được quân Đại Minh thì núi đã sập rồi. Quân Dương Thu Trì kéo đi hết, tổng cộng khoảng 8 nghìn người, trong đó một bộ phận dùng để đối phó với địch ở triền núi, nhưng không truy kích. Hơn nữa quân số của địch trên đó quá ít, tự động hoảng loạn rút ngay.
Chủ lực của địch bị mấy trăm mét núi đổ xuống ngăn chặn, tất cả đều kinh hãi sững sờ vì tiếng động kinh hồn. Chờ Tôn Khả Vọng mãi lâu sau mới trấn tĩnh lại, xác định triền núi không thể đổ nữa, mới vượt quá đó đuổi theo, lúc ấy thì đại quân của Dương Thu Trì không còn thấy đâu nữa.
Trận chiến này Tôn Khả Vọng mất sạch hai nghìn quân tiên phong, ba nghìn quân bị chôn sống vì núi sập, tổng cộng tổn thất năm nghìn người.
Do một lượng lớn đất đá trên núi sạt lở dẫn tới bít đường, mấy trăm chiếc xe tăng thổ tả Phấn Ôn xa cùng một lượng lương thảo và quân nhu lớn theo quân không thể nào cho vượt qua sơn thế mấy trăm mét như vậy được, đều bị chèn cứng phía sau. Do chỉ có một dịch đạo này tới Kiềm Dương, những con đường khác đều nhỏ hẹp, xe bánh lớn và lượng lương thực lớn không thể thông qua, cần phải đả thông dịch đạo này mới được. Tôn Khả Vọng thấy sơn cốc hiểm trợ, sợ lại có mai phục nữa, nên hạ lệnh lui binh, rời khỏi sơn cốc xong lui thêm mười dặm nữa mới hạ trại. Chờ trời sáng xong, y cho chiếm lĩnh hai bên sườn núi, sau đó cho khai dọn dịch đạo.
Muốn khai mở lại dịch đạo bị sụp đổ mấy trăm mét này với nham thạch toàn lớn, phải phá ra rồi mới lăn đi, trong tình hình không có thuốc nổ và xe cơ giới loại lớn, hơn nữa sơn cốc nhỏ hẹp không thể thi công nhiều người, nên tốc độ khai phá nhanh nhất cũng phải gần cả tháng.
Dương Thu Trì cần nhất chính là thời gian, cho nên đó là nguyên nhân chủ yếu hắn phá núi.
Giữa đêm, đại quân của Tôn Khả Vọng mệt mỏi kinh hồn suốt cả ngày và nửa đêm, sau khi bố trí các trạm gác xong, cuối cùng y có thể tiến nhập vào giấc ngủ vùi.
Đột nhiên, những tiếng "oành ... oành!" cực lớn lại nổ giữa không trung, tiếng gào thảm trong quân doanh vang lên không ngớt.
Những tiếng nổ đó không mấy gấp rút, một lúc mới nổ một tiếng, mà mỗi khi nổ thì trong quân doanh đều gào thảm hàng loạt, vô số binh sĩ đầu phá huyết lưu, nằm gục xuống đất chết tốt.
"Địch quâ bắn pháo rồi! Mau nằm phục xuống!" Quân doanh chỗ nào cũng vang lên tiến hò hét. Binh sĩ án chiếu theo diễn luyện trước khi xuất chinh mà nằm phục xuống. Nhưng mà, điều này không những chẳng hữu dụng, ngược lại còn bị chết nhiều người hơn sau những tiếng nổ.
Cuối cùng cũng có người phát hiện là những vụ nổ phát sinh từ trên không! Tạc đạn nổ giữa không trung, bốn phía đều là mảnh kim loại nhỏ bay chụp xuống như mưa, cho nên nếu nằm mọp xuống như vậy càng làm tăng thêm diện tích cơ thể lộ ra, đương nhiên thương vong nhiều hơn nữa.
Quân đội của Trương Hiến Trung được huấn luyện rất bài bản, nếu như địch quân cướp doanh trại, căn bản binh sĩ không kinh hoàng thất thố, mà nhanh chóng tổ chức phản kích. Chỉ có điều loại tạc đạn nổ giữa không trung này là lần đầu tiên họ gặp phải, cho nên đại quân rất loạn. Nhưng dù sao thì họ cũng đã thân kinh bách chiến, sau khi hoảng loạn lúc sơ kỳ, lập tức phát hiện pháo hỏa chỉ xuất phát từ một tòa núi nhỏ, nên lập tức xuất kích.
Khi địch quân xung phong kéo tới cách ngọn đồi đó mấy trăm mét, thì tiếng "tạch tạch tạch..." của súng máy lại vang lên.
Quân xông phía trước chết như ngã rạ, những binh sĩ đã từng tham gia trận đánh Kiềm Dương trước kia quá quen với âm thanh này, kinh khủng hét: 'Quái thú vũ khí! Mau nằm xuống!"
Quân phía sau vội nằm bẹp, hoặc tìm đá, gỗ yểm hộ. Do chưa tiến vào tầm bắn của hỏa súng và cung tên, không cách gì tổ chức phản kích, chúng chỉ còn biết hô lên với đám phía sau: "Giáp luân xa! Mau! Mau đem giáp luân xa đẩy ra đay!"
Những chiếc xe bọc thép có bánh đó được đẩy tới thì tiếng pháo và súng trên đồi đã dừng lại. Chờ mấy chục chiếc Giáp luân xa từ từ tiếp cận ngọn đồi, binh sĩ mang thuẫn bài sắt nặng xông lên thì quân đánh lén đã tiêu biến trong trời đêm.
Đây đương nhiên là bọn Dương Thu Trì làm. Hỏa pháo dùng để phát sạ là Phất Lãng Cơ. Phất Lãng Cơ làm bằng đồng, thân pháo hơi ngắn, hơn nữa nòng súng họat động xong có thể tháo ra, phân thành hai nên chỉ cần mấy người là có thể vác đi, khá cơ động linh hoạt.
Lần này đạn đá sử dụng đã được Dương Thu Trì lần nữa cải tiến. Hắn rút ngắn dây dẫn, khi đạn pháo của rơi xuống đất đã nổ. Và đạn thế chế ra được khắc rảnh giống như lựu đan, sau khi nổ sẽ biến thành những mảnh nhỏ. Hơn nữa khi nhồi thuốc nổ, hắn đã bỏ thêm vào đó những mảnh sắt vụn, một khi bị nổ ở trên không, hàng trăm mảnh thép bay tứ tung, có thể sát thương rất nhiều địch.
Lần tập kích này chỉ bắn mười mấy viên đạn pháo, nhưng do sử dụng đạn cải tiến, quân địch tập trung đông đúc, nên thương vong đến gần nghìn tên.
Quân đội của Lý Định Quốc cũng gặp phải những vụ đánh lén thế này.
Sau khi đại quân của Tôn Khả Vọng tiến vào sơn cốc một thời thần (khoảng 2 giờ) thì mới gặp vụ nổ sụp núi. Lúc này quân của Lý Định Quốc đi đường vòng bao vây đã cách đó xa rồi, tuy có nghe tiếng ùng ùng văng vẳng, nhưng không biết đó là tiếng nổ, chỉ cho rằng là mé trời đó đổ mưa, sấm nổ ì ầm thế thôi, nên họ tiếp tục tiến lên, đến canh ba thì hạ trại ở một chỗ bằng phẳng.
Ngủ đến nửa đêm, trên không của quân doanh có vô số tiếng nổ, binh sĩ tử thương rất nhiều, nhưng khi xuất kích tới địa điểm pháo bắng thì địch nhân đã không còn tung ảnh, kiểm lại thiệt hại mấy trăm quân.
Loại đánh lén này thương vong tuy hơi nhỏ, nhưng có tác dụng lớn khi đánh vào sĩ khí đối phương, khiến địch quân suốt đêm không dám ngủ yên.
Sau đó, Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc đều nghiên cứu chiến pháp đánh lén của địch quân, khi an doanh hạ trại đều bố trí nhiều trạm gác ở những chỗ có thể bố trí hỏa pháo.
Nhưng mà, chuyện này vẫn gặp phải vấn đề, khi trạm canh ít thì bị địch quân ngầm đánh lén diệt hết, còn trạm canh nhiều người thì bản thân nó trở thành mục tiêu bắn pháo của địch từ xa. Điều chủ yếu chính là loại tập kích này đêm nào cũng có, tiếng nổ to vang lên khiến binh sĩ kinh khủng vô cùng, căn bản không cách gì nghỉ ngơi. Nhờ đó, chuyện vu hồi tập kích vốn chỉ cần dùng 5 ngày là hoàn thành, thế mà Lý Định Quốc phải mất mười mấy ngày mới hình thành thế hợp vây Kiềm Dương huyện.
Trong vòng mười mấy ngày này, quân của Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc bị Dương Thu Trì phái những tiểu đội quen thuộc địa hình mang Phất lãng cơ hỏa pháo đi tập kích đêm chết tổng cộng hết ba bốn nghìn người. Cộng thêm trận chiến ở Nham Lũng sơn mất gần bảy nghìn người, tổng cộng Trương tặc binh mất một vạn người, ngoài ra còn khoảng 1 vạn người bị thương ở nhiều mức độ khác nhau.
Còn chưa chính thức khai chiến mà đã mất đi hơn một phần mười quân đội, khiến cho lòng tự tin của Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Tôn Khả Vong thấy không có khả năng trong vòng thời gian ngắn đả thông dịch đạo, bèn quyết định tháo các giáp luân xa ra cho quân sĩ như đám kiến mang qua chỗ tắt đường sau đó ráp lại. Còn lương thảo cũng vậy, cho lừa ngựa theo đường nhỏ vượt qua.
Sau một phen cực khổ như vậy, Tôn Khả Vong cuối cùng cũng đem vài vạn đại quân đến Kiềm Dương huyện sau mười mấy ngày.
Trống trận đổ dài, tiếng quát giết vang trời, được mấy trăm chiếc Giáp luân xa yểm hộ, binh sĩ áp sát thành tường, nhưng không thấy có địch quân nào đề kháng, cho đến khi chúng bắt thang dây, đánh vào trong thành cũng vậy.
Ba mặt khác, đại quân của Lý định Quốc cũng ùa vào, và thuận lợi phi thường, chẳng gặp phải sự đề kháng gì, chẳng khác nào như một trận diễn tập quân sự, bốn phía cùng phá thành tiến vào một lượt.
Trên thành lâu là đại kỳ của Minh quân đóng gió bay phần phật, không thấy một binh một tốt nào.
Bốn mặt thành mở ra, mấy vạn địch quân kéo vào nội thành, phát hiện Kiềm Dương huyện thành đã trở thành một tòa thành trống!
Không những chúng không thấy được một lão bá tánh, ngay gà vịt chó mèo cũng không. Không có vật đáng tiền gì, đừng nói chi là chút lương thực.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc nhìn nhau, không biết địch đi về phương nào, không có ai để hỏi, đều không biết ưng đối ra sao. Nghiên cứu cả nửa ngày, hai người quyết định cho đại quân vào thành trước, rồi phái người tìm tung tích địch quyết chiến sau.
Trong thành có một binh doanh, xem ra là quân Đại Minh rút đi đã bỏ lại, phòng ốc dụng cụ đầy đủ, còn có kho lương, chỉ là không có chút lương thực nào. Tôn Khả Vọng cho mang lương thảo của đại quân vào chứa trong này.
Sau nhiều ngày mệt mỏi, cuối cùng họ đã tiến vào thành an toàn, đóng kín cửa lại.
Sau khi bố phòng trên thành lâu xong, đại quân cuối cùng có thể ngủ an ổn rồi.
Chỉ có điều, Dương Thu Trì không để chúng ngủ yên, vì đây chính là chiến trường mà bọn hắn chọn.
Canh tư, vào lúc người ta mệt mỏi nhất, hai bóng đen từ một căn phòng cũ nát xuất hiện ra, chính là vợ chồng Dương Thu Trì - Liễu Nhược Băng.
Thì ra, hai người ẩn trong thành, do có vũ công cao cường, tránh được địch quân trùy tìm. Sau khi họ lộ diện, đã nhanh thoăn thoắt đến một chỗ ẩn mật ngoài binh doanh, đốt cháy mấy chục dây dẫn lửa, sau đó lui nhanh.
Những dây dẫn lửa này nối liền với những ống trúc ống đồng chôn dưới đất, cháy dần vào binh doanh. Trong khi đó, hàng loạt binh sĩ ngủ vùi trong giấc mộng, ngay trên bãi địa lôi!
"Oành oành oành...!"
Tiếng nổ vang trời, kèm theo đó là máu thịt bầy nhầy của vô số binh sĩ bị xé nát thây trong giấc mộng.
Đợt nổ này ngoại binh doanh ra, địa điểm tập trung chủ yếu là kho lương. Kho lương sau khi nổ, lượng thảo tồn trữ ở đó nhanh chóng bắt cháy ùng ùng. Thì ra Dương Thu Trì chộn địa lôi dưới kho lương kỳ thật là loại đạn cháy, không những bỏ đầy thuốc nổ, còn cho nhiều lưu huỳnh, trong khi đó lương thảo là vật dễ cháy!
Binh sĩ vừa định cứu hỏa, thì nhà dân chung quanh cũng nhanh chóng bén lửa. Toàn bộ cổng thành và những phòng ốc gần đó đều chạy phừng phừng, thế lửa nhanh chóng dâng cao, toàn bộ Kiềm Dương huyện thành chẳng mấy chốc chìm trong biển lửa.
Đây dĩ nhiên là kiệt tác của Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng. Họ mượn trời đêm và võ công cao siêu, chạy khắp nơi phóng hỏa. Nhà dân trong thành thực chất đã bị cho thêm lưu hoàng và những vật dễ cháy ở chỗ kín đáo rồi.
Thế lửa xung quanh binh doanh lớn nhất. Lần này xuất chinh, địch quân chỉ mang theo ít thủy long đội, căn bản không ứng phó được thế lửa như vậy.
Khi tiến thành địch quân có 7 vạn, binh doanh khá nhỏ nên không chứa hết, chúng đã phân tán ở vào nhà dân. Trong thành nổi lửa khắp nơi, binh sĩ khắp thành bị chìm trong biển lửa, nhiều tên bị thiêu sống.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc kinh khủng vạn phần, ra lệnh triệt li. Nhưng binh sĩ phân tán khắp nơi, mệnh lệnh không cách gì truyền đạt kịp thời, 4 cửa thành đã bị lửa vây phủ nên Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc chỉ đành đốc thúc binh sĩ liều mạng chữa lửa, mở ra thông đạo đem một phần quân đội lui ra phía tây thành.
Binh sĩ tập trung trên vùng bằng phẳng ngoài thành, nhìn huyện thành chìm trong lửa mà sợ đến tái xám mặt mày. Lý Định Quốc còn có thể coi là bình tĩnh, sợ địch quân mượn cơ hội này đánh lén, lập tức tổ chức chiếm lĩnh cao điểm xung quanh, đốt lửa cảnh giới, nhưng Minh quân không đến đánh.
Trận lửa lớn này cháy đến trời sáng, sau khi kiểm tra lại, phát hiện có hơn ba vạn binh sĩ và hơn nghìn con chiến mã táng thân trong biển lửa, toàn bộ lương thảo bị thiêu rụi, mấy trăm chiếc Giáp luân xa, mấy chục hỏa pháo và toàn bộ đạn dược đều tiêu tan trong trận hỏa công này!
Dương Thu Trì không phát động cường công. Hắn không muốn dùng quân đội cực khổ lắm mới xây dựng nên đánh tiêu hao chiến. Hắn muốn tận dùng ưu thế về vũ khí tiêu diệt địch quân. Hắn muốn quán triệt tư tưởng vận động chiến theo kiểu của Mao Trạch Đông, không quan tâm đến được mất một vùng, mà đặt trọng tâm vào tiêu diệt sinh lực địch quân.
Dương Thu Trì sau khi chiếm Bảo Khánh được dân chúng ủng hộ, liền tổ chức mạng lứơi tình báo hữu hiệu, nắm vững động thái của địch quân. Hắn biết địch quân chia hai đường, phía bắc xuất phát từ Trường Sa do Trương Hiến Trung tự soái lĩnh, phía tây do là quân đánh chiếm Giang tây Viên châu, do Ngải Năng Kỳ soái lĩnh.
Trong đó, đại quân của Ngải Năng Kỳ tiến binh thần tốc, đã tiến vào địa giới Hồ Quảng, còn quân Trương Hiến Trung vẫn còn đang điều động, chưa xuất phát từ Trường Sa.
Ngải Năng Kỳ tham công mạo tiến, muốn cùng Lưu Văn Tú ở Hành châu hình thành thế giáp kích nam bắc. Dương Thu Trì nắm được điểm này, tuy nói là hắn có tạc đạn, súng máy và lão sáo đồng, nhưng mãnh hổ khó địch quần lang, hơn nữa phía bắc Hành châu là đồi núi có phong cảnh tú lệ, tác chiến ở vùng núi này hỏa pháp và súng của hắn sẽ bị giảm uy lực, cần phải tận khả năng tránh sở đoản tận dụng sở trường. Nhưng nếu bố trận nghênh địch ở phía bắc Hành châu, tất phải bị thế giáp kích nam bắc của địch. Hai lộ địch quân cộng lại có quân số hai chục vạn, gần như la gấp đôi quân của hắn, không thể mạo hiểm quyết chiến trong tình huống này. Nhưng nếu vượt qua Hành sơn, nghênh địch ở bình nguyên Chu châu, thì đại quân quá mệt mỏi, không thể nào ở trạng thái tốt nhất đánh địch. Hơn nữa cô quân thâm nhập, khuyết thiếu hậu viện, một khi thất lợi thì hậu quả không thể tưởng tượng.
Sở dĩ, Dương Thu Trì ngẫm nghĩ thật lâu, cuối cùng quyết định giả triệt binh về Bảo Khánh, bố trận ở một lòng chảo ven Hắc Thủy hà nghênh địch. Như vậy, một mặt hắn có thể tránh thế lưng mặt đều thụ địch, mặt khác cự li cách Bảo Khánh không xa, tiến có thể công, lùi có thể thủ.
Lưu Văn Tú ở Hành châu phủ thấy Dương Thu Trì lui binh, không dám truy kích, sợ nhằm vào kế dụ địch. Ngải Năng Kỳ nhận được tin, liền chuyển phương hướng nhắm thẳng đại quân của Dương Thu Trì ở Hắc Thủy hà. Đồng thời y yêu cầu Lưu Văn Tú xuất binh, hai lộ giáp kích, bị Lưu Văn Tú cự tuyệt. Lưu Vấn Tú kiên trì án chiếu chỉ ý của Trương Hiến Trung cố thủ thành trì, chờ đại quân của Trương Hiến Trung đến, sau đó ba lộ hội sư Bảo Khánh, tập trung ưu thế binh lực một đoàn tiêu diệt tân quân của Dương Thu Trì.
Lần trước đại quân Trương Hiến Trung nam hạ, Ngải Năng Kỳ làm tiên phong, phụng mệnh tiếng công Giang Tây, dọc đường qua ải chém tướng, đánh quân của Tả Lương Ngọc đại bại, liên chiếm Bình Hương, Vạn Tái, đoạt Viên châu ngay cửa Giang Tây. Tiếp đó, y công chiếm Cát An, Cát Thủy, Vĩnh Tân, An Phúc, Thái Hòa và các huyện khác, báo tin thắng trận liên miên, quả là có cảm giác hoành tảo thiên quân.
Tiếp đó Trường Hiến Trung phát lệnh khẩn cấp chi viện Hành châu ở Hồ Quảng. Ngải Năng Kỳ lập tức hồi sư Hồ Quảng, khí thế hung hung kéo thẳng tới Hành châu. Sau khi biết được Dương Thu Trì triệt binh, cho rằng hắn sợ uy danh của y, càng ngông nghênh hơn. Tuy Lưu Văn Tú ở Hành châu không chịu xuất binh giáp kích, đại quân của Trương Hiến Trung ở Trường sa chưa xuất phát, y đã gấp rút không thể đợi chờ, muốn đánh bại Dương Thu Trì đoạt lại Bảo Khánh phủ, do đó mới soái lĩnh đại quân sát khí đằng đằng kéo tới.
Đương nhiên, Ngải Năng Kỳ không hề là người hữu dũng vô mưu đơn giản. Y đã biết đại quân Dương Thu Trì có một loại vũ khí quái thú có thể chớp mắt lấy mạng mấy trăm người, hơn nữa tầm bắn còn tương đương hỏa pháo. Ngoài ra hắn còn có tạc đạn uy lực kinh người, có thể sát thương ngoài trăm xích, có thể nổ vỡ thành trì kiên cố. Hiện giờ lại còn truyền tin là binh sĩ của hắn được phối bị một loại hỏa súng mới, xạ trình hữu hiệu gấp bảy tám lần hỏa súng thường, có thể liên tục bắn, không cần lấp đạn vào họng súng rồi mới bắn tiếp.
Những vũ khí này đều khủng bố chưa hề nghe thấy bao giờ. Nhưng mà người đều có đặc tính là chưa trực tiếp gặp sự vụ đó thì dù sao cũng không thể hình dung nó khủng bố thế nào. Do đó, Ngải Năng Kỳ không lo lắng nhiều, tuy vẫn chuẩn bị những bước cần thiết, ví dụ tập luyện đội hình chiến đấu và điều chỉnh phương án tác chiến.
Hai quân cuối cùng gặp nhau bên bờ Hắc Thủy hà, binh lực tương đương, đều khoảng 10 vạn.
Đây là một lòng chảo bên sông khá rộng, rất bằng phẳng, từ xa có thể thấy đại quân của Ngải Năng Kỳ di động đen xì xì, che lắp cả bình nguyên.
Ngay bộ chỉ huy của Dương Thu Trì đã dựng lên một cây cờ lớn cao mười mét, trên có một vọng đài. Đoạn thời gian này hắn ngoại trừ nghiên chế phương pháp tăng tốc độ chế tạo đạn dược, còn tranh thủ học võ công từ chỗ Liễu Nhược Băng, đặc biệt là luyện tập phi tác bay lên phòng, đạt được vài phần hỏa hầu, khi lên xuống cột cờ này chẳng còn là vấn đề gì khó. Lúc này hắn đã bay lên trên đó, rút một ống đồng ra nhìn vào, không ngờ là một viễn vọng kính bằng đồng, dùng loại kính thủy tinh thượng đẳng ở Bảo Khánh mài giữa tạo thành. Hắn dùng kính viễn vọng quan sát tình huống bày binh của địch, phát hiện địch quân tiến đến trận địa của quân nhà chừng 5 nghìn mét thì dừng lại. Đại quân của địch bày thế trận trường xà, giữa binh sĩ có cự li nhất định, xếp hàng dọc, hiển nhiên là đề phòng đạn khai hoa bắn từ hồng di đại pháo của hắn.
Phía địch quân cũng có một hàng hồng di đại pháo, số lượng đại khái hơn trăm khẩu.
Phía sau đại pháo là thuẫn bài hỏa súng binh, dùng thuẫn bài vừa làm giá đỡ để bắn, vừa có tác dụng phòng hộ. Thuẫn bài sáng lấp lánh, rõ ràng là có kèm phiến sắt.
Phía sau thuẫn bài hỏa súng binh là những phòng nhỏ di động làm bằng phiến sắt, số lượng có tới mấy trăm, xem ra ắt là xe tăng thổ tả "thiết luân xa". Sau đó nữa là trận địa trường mâu có số lượng đông nhất. Hai cánh của trận địa có kỵ binh cằm cường nỏ và mã đao, phía trước là giáp nhẹ, phía sau là giáp nặng.
Địch quân có khoảng 10 vạn, đội hình chỉnh tề, cờ bay phấp phới, không ai nói loạn, hiển nhiên quân kỷ nghiêm minh, chẳng trách có thể càn quét quân Đại Minh.
Quân đội hai bên đều sắp bày ở ngoài tầm bắn của Hồng Di đại pháo, hiển nhiên là chờ đối phương tiến công trước, sau đó tiến hành phản kích. Loại chiến pháp này rất hay dùng ở thời cổ đại.
Dương Thu Trì không muốn chờ. Chiến pháp của hắn trộn lẫn hiện đại và cổ đại, hiện đại là chủ, cổ đại là phụ, do đó quyết định đánh trước kềm chế người. Hắn cầm cây cờ tam giác chỉ huy phất lênh, truyền lệnh binh phía dưới lập tức phát xuất chỉ lệnh, mấy chục trống trận nổi lên dồn dập, chấn thiên động địa: kỵ binh xuất kích!
Kỵ binh của Dương Thu Trì có 1600 người, toàn bộ trang bị súng Lão sáo động lên đạn bằng tay, hộc đạn 5 viên, bắn xa nhất 2000 mét, tầm bắn hiệu quả 600 mét.
Hai đội kỵ binh chia ra xông thẳng tới theo hàng ngang, khi tiến nhập tầm bắn của Hồng di đại pháo, địch quân bắn ngay một loạt, khói bay mù mịt, toàn là khai hoa đạn và thật tâm đạn có uy lực rất nhỏ, chỉ có thể sát thương những mục tiêu gần. Đối với chiến mã chạy với tốc độ nhanh, sự thương hại này có thể bỏ qua, hơn nữa kỵ binh này tiến theo hàng ngang, khoảng cách rất xa, giỏi cưỡi ngựa, nên với thật tâm đạn bắn tới có thể điều khiển ngựa tránh né. Cho nên, một loạt hơn 100 phát đạn này chẳng tạo ra thương vong bao nhiêu cho kỵ binh xung phong.
Sau khi họ tiến vào tầm bắn 600 mét của súng lão sáo đồng, bắt đầu xạ kích, mục tiêu chủ yếu là pháo thủ của hồng di đại pháo, sau một loạt tiếng nổ, số pháo thủ này đua nhau ngã gục.
Trong vòng 600 mét tuy đã là tầm bắn hữu hiệu của lão sáo đồng, nhưng là quá xa đối với quân chỉ có toại phát thương và cường nỗ của Ngải Năng Kỳ. Tầm bắn của chúng xa lắm chỉ 150 mét, hữu hiệu chỉ 50 mét, lại không chính xác, ứng với câu "hỏa súng bắn thỏ cũng không trúng".
Hồng di đại pháo và Phất lãng cơ của chúng có thể dễ dàng bắn tới tầm 600 mét, nhưng để tiêu trừ phản lực cực mạnh, hỏa pháo đều được cố định ở góc 45 độ, rất khó có thể điều động chúi miệng pháo xuống.
Trong khi đó, kỵ binh của đối phương chỉ nằm ngoài tầm bắn của bộ binh, trong tầm bắn gần nhất của hỏa pháo, nên chúng không thể nào phản kích.
Địch quân không biết lão sáo đồng của Dương Thu Trì có thể bắn xa vậy, đều cả kinh. Chờ đến khi chiến hữu đua nhau ngã rạp, cuối cùng cũng phản ứng, thuẫn bài hỏa súng binh ở sau mang thuẫn bài bằng sắt nặng lên xông tới, toan tính ngăn đạn địch.
Nhưng chúng đang đối diện với đạn cao tốc bắn từ thuốc nổ không khói, trong cự li ngắn như vậy có thể dễ dàng bắn xuyên qua bản sắt dày 5 mm, không thể dày hơn thêm, vì như vậy phiến sắt chỉ cao nửa người sẽ vô cùng nặng, một người khênh không nỗi, đừng nói chi di động về trước. Chúng chỉ mang thuẫn có dát sắt mỏng tới trước, kết quả bị đạn xuyên qua thuẫn cắm vào người dễ dàng.
Tuy vô số binh sĩ bị ngã chết dưới súng lão sáo đồng, nhưng quân của Ngải Năng Kỳ không hề loạn. Trường cảnh khủng bố này họ đã nghe qua, nên nhanh chóng phát hiện thuẫn bài một mặt không đủ đối kháng đạn của địch quân, lập tức dùng thuẫn bài hai mặt tiến lên.
Cùng lúc này, kỵ binh của địch quân ở hai cánh bắt đầu xung phong, chuẩn bị án chiếu theo chiến thuật thường dùng vòng ra sau lưng bao vây. Không ngờ, bọn chúng vẫn còn đánh giá quá thấp uy lực bắn xa và liên tục của lão sáo đồng. Tuy súng này chỉ có băng đạn 5 viên, nhưng để lắp đầy băng đạn 5 viên trở lại chỉ cần không đến nửa phút!
Kết quả là, kỵ binh của địch dưới hàng nghìn cây lão sáo đồng bắn dồn dập, đã trở thành bia sống người ngã ngựa đổ, giãy chết liên tục, máu đỏ nhuộm hồng cả cỏ xanh.
Ngải Năng Kỳ vội ra lệnh kỵ binh đình chỉ tiến công, chỉ huy quân xe tăng thổ tả "Thiết xa" sau thuẫn bài binh xuất kích.
Ngải Năng Kỳ đã cải tiến giáp luân xa để trở thành thứ xứng với tên gọi "thiết xa" rồi - 4 phía đều là bản sắt nặng và đất bùn dày, phía trước có một cái lổ có thể bắn hỏa súng đặc chế cực lớn, là loại hỏa pháo thu nhỏ, tầm bắn khoảng 300 mét. Chỉ có điều, do miệng súng lớn, nhồi lắp thuốc súng cần nhiều thời gian, trong khi phải thực hiện bên trong cái nhà sắt nhỏ hẹp này rất mất công sức, cho nên gần 5 phút mới bắn được một lần. Các mặt xung quanh thiết xa này có dùi những lổ nhỏ hơn, dùng để bắn hỏa súng và cường nỗ.