Khúc Tinh đại hiệp truyền Phi Châm tú chưởng
Đọc xong chú ngầm nghĩ :
- Chắc lão ta đến để truyền võ cho mình, ta thật muốn đến hồ Tuấn Mã để tìm thằng Trác Đặc Ba... để xem hắn là tay lợi hại đến thế nào cho biết.
Nghĩ đoạn, chú ngả lưng ra ngủ và đêm ấy lại chập chờn làm mấy giấc chiêm bao.
Sáng ngày hôm sau, Bố Đạt La Cung được lệnh của đức Đạt Lai, chắc có lẽ có người bắn tin cho đức Đạt Lai hay cái chết bí ẩn của Tạng Tháp, nên ngài không bằng lòng cho đúc tượng Kim Thân mà chỉ cho phép làm lễ an táng một cách trọng thể.
Thi hài của ông được chôn cất trong Bố Đạt La Cung và cất một ngôi nhà kỷ niệm nho nhỏ. Đức Đạt Lai thân hành viết ba chữ khắp lên ngôi nhà kỷ niệm đó, gọi là :
“Tạng Tháp Đường”.
Đêm ấy trời vừa chập choạng tối, Tâm Đăng đã vô cùng nôn nóng, chú đi đi lại lại trên Kim Nga điện để chờ Khúc Tinh.
Trong đầu chú vẫn quay cuồng mấy chữ :
- Trác Đặc Ba... hồ Tuấn Mã... Tàm Tang khẩu quyết...
Chú rất hối hận vì quyển sách này đã lọt vào tay mình một lần mà mình lại để cho nó mất đi.
Cảnh ngộ đau đớn của Bệnh Hiệp và Cô Trúc cùng cái chết bi thảm của Tạng Tháp đã gây ra trong lòng chú một mối căm thù Trác Đặc Ba đến tột đỉnh.
Còn đang nghĩ ngợi triền miên thì có tiếng vỗ tay khe khẽ, quay đầu nhìn lại thì quả thật là Khúc Tinh.
Không ngoài sự ước đoán của chàng, Khúc Tinh đến đây để ép chú học võ.
Nằn nì ép uổng lâu lắm, Tâm Đăng mới khứng, và Khúc Tinh hẹn ba ngày sau sẽ gặp nhau trên ngọn đồi Tiểu Bình cách Bố Đạt La Cung ba dặm đường.
* * * * *
Đồi Tiểu Bình.
Cách Bố Đạt La Cung ba dặm.
Tâm Đăng đến đó chờ đợi đã lâu mà không thấy Khúc Tinh đâu. Chú càu nhàu :
- Cứ theo lời ông ta bảo thì sẽ truyền cho mình môn Phi Châm Tú Chưởng gì đó, thật là chán.
Câu nói của chàng chưa dứt chợt có tiếng cười ha hả của Khúc Tinh :
- Tiểu hòa thượng, mi thật là vô lễ.
Tâm Đăng hổ thẹn đỏ bừng sắc mặt, thấy Khúc Tinh và Thiết Điệp từ trong ven rừng bước ra.
Khúc Tinh tiếp lời :
- Tâm Đăng, mi có biết Thiết sư bá có một môn võ công đắc ý nhất là gì chăng?
Tâm Đăng trả lời :
- Quả thật tôi chưa biết.
Khúc Tinh mỉm cười mà rằng :
- Thiết sư bá của mi có môn võ công gọi là Lộ Chu Chi Tinh, nghĩa là khinh công của bà ta khi vận dụng ra thì thân hình còn nhẹ hơn một hạt sương buổi sớm.
Và ông ta nói tiếp :
- Thiết sư bá của mi sẽ truyền môn võ nghệ này cho mi đêm nay.
Tâm Đăng quyết lời từ chối nhưng không sao được vì hai người ấy nằn nằn quyết một hai truyền lại cho Tâm Đăng.
Hai người phân công như vầy: canh hai Tâm Đăng học với Khúc Tinh, canh ba luân đến phiên Thiết Điệp.
Thế rồi ba thầy trò bắt đầu luyện võ.
Tâm Đăng lấy làm lạ vì môn võ của Khúc Tinh truyền lại bằng kim chỉ, ông ta thò tay vào túi rút ra một gói nữ công đoạn dạy cho Tâm Đăng vận nhãn quang lên mà thêu những đường chỉ nhỏ rức.
Việc làm tuy đơn sơ nhưng phí rất nhiều sức lực, thêu chưa được một đóa hoa mà Tâm Đăng mồ hôi vã ra như tắm.
Khúc Tinh cười rằng :
- Môn võ công Phi Châm Tú Chưởng này nếu mi học thành công thì nội lực sẽ tăng tiến bội phần, và đường võ của mi tung ra thảy đều khéo léo như người đàn bà may vá thêu thùa vậy.
Tâm Đăng thêu được một đóa hoa thì đã mãn canh hai, và từ xa xa tiếng trống canh trổ sang ba tiếng.
Thế là lại đến lượt Thiết Điệp dạy võ cho chú.
Tâm Đăng chán chường lắm, vì thật ra, đối với chú không còn hứng thú nữa, chú thấy rằng hễ người nào học võ thảy đều mang nhiều điều oan nghiệp, nhưng không biết từ chối thế nào cho được nên đành phải gắng gượng mà học.
Tâm tư đó Thiết Điệp đã đọc thấu, nhưng bà ta bất chấp, bảo với Tâm Đăng rằng :
- Bây giờ mi bắt đầu chú ý đây.
Nói đoạn thân hình của bà ta bay bổng lên mười mấy trượng, Tâm Đăng giật mình nhìn theo thì thân hình của bà ta đã rơi xuống trên cành cây bé nhỏ.
Mũi giày của bà đạp nhẹ lên hai chiếc lá non mơn mởn, và thân hình của bà lướt trong cơn gió lộng về đêm.
Ngón khinh công tài tình đó làm cho Tâm Đăng sững sờ kinh dị, hèn chi mà bà ta luận kinh với Điệp Bố mà rượu chưa tàn hơi nóng.
Gương mặt bà ta thật điềm đạm, dường như quên hẳn mình đang đứng trên chót vót ngọn cây. Thái độ bình tĩnh đó càng làm cho Tâm Đăng thán phục.
Chợt nghe bà ta bảo :
- Mi hãy tống về phía ta một chưởng xem sao.
Tâm Đăng nghe nói lấy làm thích thú lắm, vội xắn tay áo lên mà nói :
- Sư bá coi chừng, tôi phát chưởng đây!
Nói vừa dứt lời, Tâm Đăng tức tốc trổ ra một đòn Hoa Đăng Thổ Nhị, từ trong lòng bàn tay của chú có một luồng gió thổi mạnh về phía Thiết Điệp.
Đòn này chỉ dùng ba phần sức mạnh nhưng khí thế lẫy lừng có thể tan bia nát đá như chơi.
Nhưng luồng chưởng phong vừa thoát đi một nửa thì Thiết Điệp đứng trên ngọn cây cũng nhẹ nhàng thay đổi cung bộ và tống ra một chưởng.
Hai luồng sức mạnh giáp mối vào nhau giữa từng không vang lên một tiếng “Bốp” rợn người.
Khá khen cho Thiết Điệp, đứng trên ngọn cây chót vót, chỉ dùng hai chiếc lá khô làm điểm tựa mà không hề hấn.
Còn Tâm Đăng thì loạng choạng thối lui một bước.
Tâm Đăng cả khen :
- Thật là lợi hại.
Hiển lộng khinh công dụ Tâm Đăng học võ
Thiết Điệp mỉm cười nói tiếp :
- Mi hãy thử thêm một lần nữa.
Tâm Đăng lấy làm thích thú, lắc đầu thúc giục :
- Không cần phải thử, sư bá cứ dạy cho tôi.
Bà ta thò tay ra vẫy Tâm Đăng và chú nhẹ nhàng bay vút lên, nắm lấy tay bà ta mà nài nỉ :
- Sư bá hãy dạy cho tôi môn khinh công này.
Thì ra ban nãy Thiết Điệp chỉ trổ sơ một chút nghề riêng cũng đủ làm cho Tâm Đăng mê mẩn tâm thần, phải nài nỉ bà ta mà học.
Bà nắm lấy tay Tâm Đăng, hai người bay trở về mặt đất, bằng một động tác cực kỳ nhanh nhẹn bẻ hai nhánh cây nhỏ bé, cắm vào mặt đất chỉ chừa ra ngoài một đoạn chừng ba bốn phân mà thôi.
Thiết Điệp trỏ ngọn cây đó mà bảo :
- Tiểu hòa thượng, mi hãy phi thân lên đó xem sao.
Tâm Đăng vâng lời nhảy vù lên ngọn cây, không ngờ Thiết Điệp lại hối :
- Bây giờ mi hãy rướn gân cổ mà kêu lên.
Tâm Đăng càng lấy làm lạ không hiểu tâm lý bà ta, nhưng vẫn phải gắng gượng kêu lên mấy tiếng lạ lùng quái dị.
Thiết Điệp ôm bụng cười nghặt nghẽo :
- Không được mi phải vận dụng nội công mà hú lên một tiếng thật dài.
Tâm Đăng nghe lời, thủ một thế Kim Kê Độc Lập đứng trên ngọn cây, dồn hết khí lực vào tận Đan Điền rồi phát ra một tiếng hú trầm hùng không thể tả.
Tiếng hú vang đồng vọng, có lúc như tiếng hổ gầm, có lúc như tiếng rồng ngâm, có lúc thanh tao dìu dặt, có lúc oai hùng có thể tan vàng nát đá.
Màn đêm mờ mịt, tiếng hú của Tâm Đăng nương theo hơi gió mà đồng vọng đến chốn xa xăm, làm cho cư dân gần đấy đều bàng hoàng thức giấc.
Sở dĩ người luyện khinh công đến mức cao thâm, thảy đều nhờ đem hơi sức từ đan điền lên, để cho thân người được nhẹ nhõm, hơi sức đem ra chừng nào thì thân hình nhẹ nhõm chừng ấy.
Nay Tâm Đăng đem hơi sức trong đan điền dồn ra ngoài nên thân hình nhẹ như bấc, nhưng tai ù mắt hoa, loạng choạng rơi trở về mặt đất.
Thiết Điệp nói :
- Hôm nay là bữa đầu tiên, mi luyện được đến mức này cũng là khá lắm, lần sau sẽ tiếp tục luyện thêm nhiều hơn nữa.
Đêm ấy chàng vất vả quá, vừa phải gắng sức thêu thùa một cách mệt nhọc, vừa phải gầm thét suốt đêm, cơ thể của chú mệt mỏi rã rời.
Suốt bảy đêm liền như thế, công lực của chàng đã tiến bộ nhiều hơn xưa quá nhiều, nghề thêu thùa của chú ngày càng thêm tinh vi, và khinh công của chú càng đạt đến mức tuyệt đỉnh.
Trong môn thêu giản dị kia có tiềm tàng một đường võ vô cùng lợi hại, có thể nói đường võ này là một đường võ phức tạp nhất trần gian.
Khi chú học xong, chú cảm thấy mình có thể đến hồ Tuấn Mã một cách yên lành và chú sẽ thành công rực rỡ.
* * * * *
Một tháng trời lặng lẽ trôi qua.
Và Tâm Đăng đã kết thúc đoạn đường học tập với Khúc Tinh và Thiết Điệp.
Chú thở phào một hơi nhẹ nhõm, dường như một người vừa trút được gánh nặng.
Đêm cuối cùng chú lê tấm thân mệt mỏi trở về Bố Đạt La Cung, vừa ngả mình lên giường, nghĩ rằng mình có thể ngủ một giấc yên lành sau một tháng trời học tập.
Nào ngờ... chính vào lúc đó có một người dùng một ngón tay búng nhẹ vào cửa mấy tiếng.
Tâm Đăng nổi nóng, càu nhàu :
- Lại người nào đến quấy rầy ta nữa, ta bất chấp, ta cứ ngủ một giác đã!
Nói rồi xoay mình vào bên trong nhắm mắt ngủ kỹ...
Người kia chờ đợi một lúc lâu không thấy động tĩnh lại búng nhẹ vào cửa thêm mấy tiếng.
Tâm Đăng vẫn không trả lời, chợt nghe có tiếng một người con gái nói một câu thanh tao nho nhỏ :
- Tâm Đăng! Ngủ chưa?
Tâm Đăng ban nãy quyết định ai gọi cũng không thức giấc, nhưng bây giờ nghe giọng nói người đó đập vào tai, vội vàng lồm cồm bò dậy, vì câu nói đó đã mang đến cho chú một nguồn kích thích mãnh liệt, bởi câu nói đó là giọng nói quen thuộc của Trì Phật Anh.
Vừa nhảy xuống giường, Tâm Đăng vừa trả lời :
- Chưa ngủ!.. Chưa ngủ...
Nói rồi mở cửa bước ra thấy Trì Phật Anh đứng cách đó ngoài ba thước, trên mặt vẫn che ngang vuông lụa, nàng nhìn Tâm Đăng bằng cái nhìn đầy vẻ huyền bí.
Tâm Đăng vừa lách mình bước ra thì Trì Phật Anh cũng xoay lưng bỏ đi, thì Tâm Đăng vội vàng đuổi theo nàng hỏi nho nhỏ :
- Cô đi đâu lâu quá, sao chẳng thấy đến thăm tôi?
Chú dường như thoáng thấy Phật Anh cười sau vuông lụa mỏng.
Phật Anh trả lời nho nhỏ :
- Gần đây ta không rảnh, mà ta cũng biết mi không rảnh.
Tâm Đăng giật mình nghĩ thầm :
- Chẳng lẽ cô ta biết mình học nghệ với Thiết Điệp và Khúc Tinh?
Mẩu đối thoại đến đây thì hai người đã bước đến một khu rừng sồi hoang vắng, Phật Anh ngồi xuống một phiến đá nói rằng :
- Tâm Đăng, ngày mai thầy cho ta nghỉ một ngày ta định rủ mi ra ngoài ru ngoạn, mi thấy có nên chăng?
Tâm Đăng mừng rỡ, nghĩ đến mấy hôm nay mình không đi thăm Bệnh Hiệp, vội trả lời rằng :
- Hay lắm! Nhưng sáng mai tôi không thể cùng cô đi chơi được vì tôi phải đi thăm Bệnh sư phụ.
Phật Anh suy nghĩ một lúc rồi nói rằng :
- Vậy thì chiều ngày mai, ta chờ mi trên ngọn đồi Tiểu Bình rồi sẽ đi ngoạn cảnh.
Tâm Đăng nghe nói, mừng lắm trả lời rằng :
- Được! Vậy chiều ngày mai tôi chờ cô tại đồi Tiểu Bình.
Phật Anh vui vẻ hỏi thêm rằng :
- Mi nghĩ xem, sau khi đến đồi Tiểu Bình, chúng ta sẽ đi đâu?
Tâm Đăng trầm ngâm nghĩ ngợi giây lâu mới nói :
- Mười mấy năm nay tôi chẳng ra khỏi chùa, không biết phong cảnh chỗ nào nên thơ, thôi để cô định đoạt vậy.
Phật Anh trầm ngâm suy nghĩ giây lâu mới trả lời :
- Vậy chúng ta đi ngoạn cảnh bờ sông.
Tâm Đăng mừng rỡ, vì rằng mười mấy năm nay, chú chưa hề thấy phong cảnh trời xanh nước biếc, vì suốt ngày phải giam mình trong Bố Đạt La Cung.
Thế là hai người quyết định một cuộc hành trình du ngoạn, Tâm Đăng có biết đâu sau chuyến đi chơi đó, đã để lại trong đời của hai người một mẩu tình lâm ly bi thiết.
* * * * *
Ngày hôm sau, Tâm Đăng từ ngôi nhà đá của Bệnh Hiệp trở về chùa, liền thay một bộ đồ thật sạch sẽ, trong lòng hớn hở mà tiến bước về phía ngọn đồi Tiểu Bình.
Khi chú đặt chân lên ngọn đồi thì Trì Phật Anh đã có mặt nơi đó.
Trên khuôn mặt của nàng hôm nay che một vuông lụa đen thêm, dày thêm, mái tóc huyền óng ả của nàng buông xuống hai bờ vai tròn trịa.
Tâm Đăng dầu mặc áo cà sa, nhưng vì chàng đã chừa tóc, lại búi trên đỉnh đầu, nên thoáng trông như một vị đạo sĩ.
Tâm Đăng hỏi :
- Sao cô cứ che mặt mãi thế?
Phật Anh chỉ lắc đầu mà không trả lời, chú nghe thấy Phật Anh dường như sợ hãi câu hỏi đó, càng tò mò, Tâm Đăng hỏi tiếp :
- Cô không phải là người Tây Tạng, cớ sao che mặt mãi?
Phật Anh có vẻ hờn dỗi trả lời :
- Tại sao mi cứ hỏi mãi?... Dường như mi muốn xem mặt ta lắm thì phải.
Tâm Đăng không ngờ nàng ta hỏi một câu thẳng vào tim đen của mình, bất giác đỏ mặt ấp úng trả lời :
- Không...! Tôi chỉ lấy làm lạ...
Phật Anh không trả lời, chỉ từ từ đi về phía trước, Tâm Đăng thấy trong tay nàng có xách một chiếc giỏ, vội hỏi :
- Trong giỏ đựng gì thế hả cô Phật Anh?
Phật Anh hờn yêu, gắt giọng :
- Ta biết thế nào mi cũng hỏi, đồ ăn chứ gì?
Thế rồi hai người từ từ rời khỏi ngọn đồi Tiểu Bình, vào giờ phút thần tiên này Tâm Đăng mới thật quên bẵng mình là một kẻ xuất gia đầu Phật.
Cặp thanh niên nam nữ đó, vừa vui vẻ chuyện trò vừa từ từ đi về phía con sông La Sa. Đó là một một con sông nằm ngang kinh đô Tây Tạng.
Lần lần Tâm Đăng thấy tốc độ của Phật Anh gia tăng, chàng cũng nhanh bước theo sau.
Không bao lâu hai người đã đến vùng trung du của con sông La Sa, trước mặt chú vùng mở ra một cảnh bao la bát ngát.
Người qua kẻ lại tấp nập, thuyền bè đậu san sát như lá tre, hàng trăm phu phen khuân vác lên xuống nườm nượp.
Đủ các sắc dân hiện ra trước mắt chú, nào người Tây Tạng, người Mông, người Hán... vội vàng... họ thảy đều tới lui nhộn nhịp, sống khác hẳn nếp sống bình thường giản dị ở trong chùa.
Chú ngây người ra trước cảnh tượng chú chưa từng thấy đó, tự nói với mình :
- À... thì ra những người ở ngoài đời, suốt ngày phải làm ăn lao lực để kéo dài đời sống của họ.
Tới giờ phút này, Tâm Đăng mới biết rằng, mỗi một con người muốn sống trên thế gian này thảy đều phải làm lụng một cách khó khăn vất vả.
Chú thấy trong thâm tâm mình lấy làm thán phục tinh thần lao động đó, vì từ ấy đến nay chú không hề nghĩ đến. Chú chỉ nghe những ông già Lạt Ma trong chùa nói rằng :
- Đời là biển khổ, con người chỉ là một con phù du bé nhỏ sớm mất tối tàn trong biển khổ mênh mông.
Nhưng ngày nay trước mắt chú thì khác hẳn, trên gương mặt mỗi người thảy đều lộ đầy vẻ thông minh và tràn trề hi vọng.
Chú thấy mỗi một người đều dùng hết sức lực để đẩy mạnh guồng máy trong xã hội này.
Đây là biển khổ ư?
Không!
Chú cảm thấy đây là mảnh đất mà cần con người phải ra sức làm lụng để sáng tạo, nếu con người mà muốn sống trên mảnh đất này thì phải nỗ lực làm việc, nếu không sẽ bị xã hội đào thải. Phật Anh đứng bên cạnh chú, thấy chú ngẩn người ra mà suy nghĩ, ngẩn người ra mà quan sát cái thế giới này.
Chú lộ ra một ánh mắt lạ lùng, kinh dị và sợ sệt.. Rõ ràng chú bị cái cảnh muôn sắc của xã hội làm cho cảm động!
Thình lình, Phật Anh vỗ vai chú hỏi :
- Nghĩ gì đấy?
Tâm Đăng giật mình quay lại cười rằng :
- Thật tôi không ngờ ở ngoài đời lại phức tạp như thế này, hèn chi mà nhà Phật bảo rằng đây là “đại thiên thế giới” (xã hội muôn mặt).
Phật Anh bật phì cười :
- Mi còn thuyết giáo nhà Phật gì nữa, mi đã không còn là người xuất gia, mi đã chừa tóc.
Tâm Đăng đưa tay lên sờ tóc xanh của mình cười nói :
- Nhưng dầu sao, tôi hoàn tục hay không hoàn tục, lòng tôi vẫn cứ phải gần Phật.
Phật Anh cười rằng :
- Thôi... đừng nói lảm nhảm nữa, chúng ta sang bên kia ngắm cảnh.
Suy tính một chút, nàng lại nói :
- Mi đợi ta, ta sang bên kia thuê một chiếc thuyền.
Nói rồi, không chờ Tâm Đăng trả lời, nàng bỏ đi thẳng.
Phật Anh đi rồi, Tâm Đăng đứng lại mà ngắm áng mây trôi lững lờ trên nền trời xanh thẳm mà nghĩ thầm :
- Ngồi trên một chiếc thuyền con lênh đênh trên dòng nước bạc thì còn gì thú vị bằng?
Cảnh tượng đó thật là quyến rũ Tâm Đăng, vì hồi nào tới giờ, chú chưa hề thưởng thức cảnh biển rộng sông dài.
Trong trí chú nảy ra một ý nghĩ :
- Trời đất thật là vĩ đại, sắp bày cho chúng ta bao nhiêu ngần ấy thứ, và để cho con người làm chủ nó.
Vừa nghĩ đến đây thì đã thấy Phật Anh đứng trên một chiếc thuyền con, từ xa xa đưa tay mà vẫy chú.
Chú mừng rỡ vô cùng chạy như bay về phía đó, thuyền còn cách bờ hơn năm trượng thì Tâm Đăng đã sử một thế Yến Tử Châu Liêm, bay vù ra giữa sông khẽ uốn mình rồi la đà rơi xuống lái.
Thuyền không chòng chành một chút và nhẹ nhàng trôi đi. Tâm Đăng tấm tắc nói rằng :
- Thật là thú...
Phật Anh thấy chú cứ mãi ngắm cảnh trời nước muôn trùng, vội bảo chú bước vào khoang để cho trạo phu dễ dàng làm việc.
Một tên trạo phu hỏi rằng :
- Chẳng hay nhị vị muốn đi về đâu?
Phật Anh không biết tiếng Tây Tạng, phải do Tâm Đăng thông dịch, nàng thấy trên thượng du nhiều người qua lại nên nói rằng :
- Đi lên thượng du...
Mối tình tay ba
Phật Anh thấy họ trò chuyện thân mật quá, và Tâm Đăng lại biết người đến nhà của Mặc Lâm Na nữa, trong lòng nàng bất giác dâng lên một nỗi niềm đau đớn.
Nàng đã biết Mặc Lâm Na từ lâu và còn biết Mặc Lâm Na thí võ với Tâm Đăng trong rừng vắng.
Bây giờ, cặp mắt của nàng nhìn chằm chằm về phía Mặc Lâm Na, mặc dù bị vuông lụa che ngang, nhưng cặp mắt ấy vẫn thoáng hiện ra vài tia lóng lánh sáng ngời.
Thật là một việc lạ, nếu có hai người con gái cùng yêu chung một gã con trai, khi họ gặp nhau thì họ sẽ nhận xét đối phương kĩ lắm, họ mong rằng có thể tìm được khuyết điểm trên mình của đối phương.
Họ mong rằng họ sẽ là một kẻ thắng lợi!
Trì Phật Anh trong giờ phút này tỏ ra là một người thất vọng, vì trước mắt nàng hiện ra một thiếu nữ tuyệt đẹp.
Và nàng phát giác ra Mặc Lâm Na là một cô gái ngây thơ và lương thiện, gương mặt của nàng đẹp một cách khả ái, làm cho nàng bất giác cũng phải kính nể và yêu thầm.
Lúc bấy giờ Mặc Lâm Na đang nói chuyện một cách líu lo với Tâm Đăng, và Tâm Đăng phát giác ra Phật Anh đang trầm lặng, nên quay lại hỏi :
- Ủa... sao cô chẳng nói chuyện?
Phật Anh vẫn ngẩn người ra và Mặc Lâm Na bấy giờ mới đường hoàng ngồi xuống chiếu, nàng với tay níu lấy Tâm Đăng và Phật Anh, tíu tít nói rằng :
- Ngồi xuống... chúng ta ngồi xuống nói chuyện.
Phật Anh do dự một chút rồi nàng cũng ngồi xuống bên cạnh Tâm Đăng.
Trong giờ phút đó Tâm Đăng thật hoàn toàn không phải là một kẻ xuất gia nữa, trong lòng của chú quả thật không còn hình ảnh của đức Phật nữa.
Lòng chú thật vui như mở hội hoa đăng, chú ngắm nhìn Trì Phật Anh rồi lại ngắm nhìn Mặc Lâm Na không chớp mắt, rồi lại gợi chuyện nói líu lo không ngớt tiếng.
Nhưng bỗng Mặc Lâm Na trầm ngâm nghĩ ngợi, câu chuyện không còn rền như buổi ban đầu nữa.
Tâm Đăng lấy làm lạ hỏi rằng :
- Hai cô sao chẳng chuyện trò nữa?
Mặc Lâm Na nghe hỏi chỉ mỉm cười một cách khó hiểu, còn Phật Anh thì xoăn xoe chéo áo của mình, chợt nàng ngẩng đầu lên hỏi một câu đột ngột :
- Tâm Đăng, mi có định hoàn tục hay không nhỉ?
Câu hỏi này làm cho Tâm Đăng ngơ ngẩn, ấp úng không biết trả lời ra sao, đang lúc sượng sùng thì Mặc Lâm Na chen vào nói :
- Cô Phật Anh hỏi đúng. Ta hỏi, mi có kể là hòa thượng hay không, tóc mi đã chừa quá nhiều mà lại mặc áo cà sa... hay là... mi đừng mặc áo cà sa nữa, dọn ra khỏi chùa mà ở... không có chỗ cư ngụ thì hãy đến nhà ta.
Tâm Đăng giật mình nhảy nhổm, vội vàng chắp tay mà nói :
- A di đà Phật! Tiểu tăng một lòng theo Phật, hoàn tục chẳng qua là một việc bất đắc dĩ, nhị vị đánh giá tôi như thế thật lấy làm hổ thẹn.
Câu trả lời của Tâm Đăng làm cho Mặc Lâm Na dở khóc dở cười, nàng nhìn Tâm Đăng bằng một thái độ hậm hực, còn Trì Phật Anh vẫn giữ thái độ khiêm cung, hòa nhã.
Bầu không khí lại nặng nề khó thở, và hai người thiếu nữ lại im lặng, không ai buồn nói chuyện nữa.
Tâm Đăng lại thôi thúc :
- Cớ sao hai cô chẳng nói chuyện nữa?
Câu nói vừa dứt thì từ phía bên kia, xa xa có một giọng ồ ề vang lại :
- Hay lắm!... Rủ người đẹp đi du sơn ngoạn thủy, mi thật là thần tiên...
Cả ba người thảy đều giật mình trông sang, thấy trên một chiếc thuyền không có buồm có một gã thiếu niên vạm vỡ, hai tay cầm hai thanh bơi chèo, chèo tới như bay.
Đó chính là học trò của Khúc Tinh: Tần Trường Sơn.
Tâm Đăng mừng rỡ, reo lên ầm ĩ.
- Tần sư huynh, mau sang đây.
Trong lòng của Phật Anh bực tức lắm, nàng vốn muốn mượn dịp du ngoạn hôm nay để gieo vào lòng của Tâm Đăng một ấn tượng tốt, không ngờ lại liên tiếp gặp nhiều người đến đây phá đám.
Điều thương tâm nhất là sự xuất hiện của Mặc Lâm Na, sau khi chuyện trò nàng phát giác ra giữa Mặc Lâm Na và Tâm Đăng còn thân mật hơn nàng là khác.
Nghĩ ngợi đến đây thì chiếc thuyền con của Tần Trường Sơn đã cập vào mạn thuyền của Tâm Đăng, hắn cười nói :
- Chú Tâm Đăng bây giờ thích uyên ương hơn thích thần tiên.
Tâm Đăng đỏ bừng sắc mặt mà không trả lời.
Tần Trường Sơn nhìn Mặc Lâm Na cười mà hỏi rằng :
- Cô nương đây cao danh quí tánh là chi xin giới thiệu cho biết.
Tâm Đăng trả lời :
- Đây là Mặc Lâm Na... Tần huynh đến đây có việc chi?
Tần Trường Sơn trỏ vào mâm rượu thịt để ở giữa thuyền mà nói rằng :
- Sư phụ của tôi đãi khách... Lư lão tiền bối cũng có mặt ở đó...
Phật Anh đang cơn bực tức, chộp lấy cơ hội để thoát ly :
- À... sư phụ tôi cũng có ở đó, vậy xin phiền Tần huynh đưa tôi một chặng đường.
Nói rồi, không đợi cho mọi người trả lời, nàng đứng phắt dậy, trổ một đòn Hoa Điệp Xuyên Vân, thân hình của nàng như một cánh bướm lượn từ bên này thuyền sang mũi thuyền của Tần Trường Sơn.
Cử chỉ đột ngột làm cho mọi người hết thảy đều kinh dị, Tâm Đăng không biết tại sao nàng thay đổi thái độ một cách đột ngột, chỉ có Mặc Lâm Na thì rõ lắm.
Tần Trường Sơn càng ngớ ngẩn không biết đầu đuôi như thế nào thì Mặc Lâm Na đã giục lui thuyền.
Bất đắc dĩ, Tần Trường Sơn phải vái chào rồi khuấy nhẹ bơi chèo một cái, chiếc thuyền đã lui ra bảy tám thước.
Sau khi đã chỉ mũi về bên kia, Tần Trường Sơn bơi chèo nhanh liên tiếp, và chiếc thuyền con của chàng đi tới nhanh như tên bắn, gạch một vệt dài trên dải trường giang.
Trong chớp mắt, chiếc thuyền của chàng xa dần... xa dần... rồi chỉ còn lại một chấm đen ở đằng xa lắc.
Mặc Lâm Na thấy Tâm Đăng thẫn thờ như người mất vía, thình lình vỗ vai chàng :
- Chắc cô ta có việc chi cần kíp... Mi và cô ta thường đi chơi như thế này chăng?
Tâm Đăng lắc đầu :
- Không! Đây chỉ là lần thứ nhất!
Mặc Lâm Na hậm hực :
- Hừ... hừ... lần thứ nhất.
Tâm Đăng giật mình, chú đã đọc ra phần nào ý nghĩ của người đẹp Mặc Lâm Na.
Tâm Đăng vội lảng sang chuyện khác :
- Tôi quen biết cô đã lâu nhưng chưa biết nhà cô ở chỗ nào?
Mặc Lâm Na mỉm cười đầy vẻ huyền bí :
- Ta không ngụ tại La Sa mà tại một nơi xa lắm, để lần sau ta dẫn mi tới đó.
Tâm Đăng vén tay áo của mình lên, thò tay xuống dưới be thuyền mà vọc nước, nước mát làm cho chú vui vẻ, chú cười mà nói với Mặc Lâm Na :
- Thật không ngờ cô ở vùng xa đến thế, chắc cô ở vùng có sông có hồ?
Mặc Lâm Na thơ ngây cười như nắc nẻ, thò tay ra bíu Tâm Đăng mà nói :
- Mi thật thích nước... coi chừng chơi nước có ngày sảy tay chết chìm.
Tâm Đăng nói móc :
- Rủi có sảy tay chết chìm thì cô vớt...
Mặc Lâm Na bỗng ngẩng đầu lên bảo rằng :
- Mi đừng ngỡ rằng ta không biết bơi, hãy xem.
Nói vừa dứt lời, Mặc Lâm Na đã nhún chân cất mình bay bổng lên không trung, rồi nhanh như một con phượng, nàng đảo nhanh một vòng để rồi rơi tòm xuống nước.
Việc nảy ra thật ngoài tưởng tượng, Tâm Đăng nhóng cổ ra nhìn, bất giác kinh hãi, vì dòng trường giang trập trùng, sóng dợn cuồn cuộn, không thấy hình ảnh của Mặc Lâm Na ở đâu.
Lâu lắm chú mới gọi lên ầm ĩ :
- Mặc Lâm Na... Mặc Lâm Na...
Nhưng không có một tiếng tăm nào trả lời cho chú cả càng làm cho chú thêm kinh sợ.
Còn đang bàng hoàng ngớ ngẩn bỗng từ phía sau lái thuyền có tiếng cười khúc khích :
- Tâm Đăng, mi gọi chi mà ầm ĩ lên thế?
Tâm Đăng nghe thấy tiếng lấy làm mừng rỡ như người bắt được vàng, bất thình lình sử một thế Phi Bằng Vạn Lý bay vù từ trước mũi thuyền ra sau lái, tạo thành một đường vồng cầu tuyệt mỹ.
Ngón khinh công đó làm cho bọn dân chài gần đấy reo lên ầm ĩ.
Ra đến sau lái, chú thấy Mặc Lâm Na đang thò một cánh tay trắng muốt nắm lấy lái thuyền mà đầu cổ ướt loi ngoi lóp ngóp.
Nàng cười một cách man dại nói với Tâm Đăng :
- Mi tin ta biết lội hay không thì bảo?
Nói đoạn vỗ mạnh một tay vào be thuyền và thân hình của nàng bắn vút lên, nhẹ nhàng rơi sau bồng lái.
Trổ một ngón về tài bơi lội cho Tâm Đăng xem rồi, Mặc Lâm Na vui vẻ vào khoang, nàng lại cố tình muốn trổ thêm một ngón nội công thâm hậu để cho Tâm Đăng biết.
Vì vậy mà nàng cứ để nguyên quần áo ướt mèm ngồi xuống chiếu, và lập tức vận nội công lên để cho một làn hơi ấm áp từ đan điền tỏa ra khắp châu thân.
Tâm Đăng chợt thấy khắp toàn thân Mặc Lâm Na tỏa ra một làn hơi mong mỏng, bất giác giật mình nghĩ thầm :
- Chẳng biết Mặc Lâm Na là học trò của người nào mà võ công thâm hậu dường ấy, có thể toát hơi nóng ra làm khô ráo quần áo của nàng?
Làn hơi mong mỏng từ trong bộ quần áo ướt mèm của Mặc Lâm Na vẫn tỏa ra nghi ngút, và không mấy chốc thân hình của nàng lại khô ráo như cũ làm cho Tâm Đăng phải vỗ tay khen dậy.
Chàng bỗng nhớ lại một việc, đó là khi Tâm Đăng bắt gặp Tạng Tháp đấu chiến cùng Trác Đặc Ba, thì cớ sao Mặc Lâm Na lại xuất hiện?
Vì vậy mà Tâm Đăng bắt sang câu chuyện đó để hỏi cho biết nhưng Mặc Lâm Na cứ chối quanh chối quẩn mãi, bảo rằng nàng chẳng biết Trác Đặc Ba.
Thình lình Tâm Đăng nhìn thẳng vào đôi mắt sáng ngời của Mặc Lâm Na mà nói :
- Cô không biết người ấy... nhưng tôi biết!
Câu nói này làm cho Mặc Lâm Na giật mình, nàng vội hỏi :
- À... sao mi biết?
Trong trí của Tâm Đăng lại nổi lên hình ảnh của Tâm Đăng, một người khôi ngô tuấn tú, trên mặt đượm vài nét đanh đá, cử chỉ cực kỳ lanh lẹn, chưởng lực lại hùng hồn.
Chú đưa mắt nhìn về một cánh bướm ở chỗ xa xăm nói nho nhỏ :
- Phải, tôi biết hắn... Hắn tên là Trác Đặc Ba...
Ba chữ Trác Đặc Ba làm cho Mặc Lâm Na giật mình rú lên :
- Trời... sao mi biết hắn là Trác Đặc Ba?...
Tâm Đăng chỉ trả lời ỡm ờ mà không nói rõ sự thật, chú bảo :
- Tôi có nghe một người bạn nói lại rằng Trác Đặc Ba là một người có võ công thượng thặng, thuộc vào hàng người số một số hai của người Tây Tạng.
Mặc Lâm Na chưa kịp trả lời thì từ đằng kia đã có một chiếc thuyền sơn son thiếp vàng, trang trí cực kỳ đẹp đẽ, lướt sóng mà đi tới như bay.