watch sexy videos at nza-vids!
doc truyen
Trang ChủTruyện
http://aff.mclick.mobi/ctxd/bigbang3g

Bá Chủ Tam Quốc

http://aff.mclick.mobi/swift-wifi/bigbang3g

Swift Wifi

http://aff.mclick.mobi/uc-in/bigbang3g

UC Browser

Giang hồ tam nữ hiệp - trang 10


Nghi mưa nghi gió nói dối kể chuyện xưa 
Nửa thật nửa ảo có ý dò chuyện trước

Ngư Nương mỉm cười bước tới nắm tay Lữ Tứ Nương: “Tỷ tỷ, không ngờ tỷ tỷ xinh đẹp như thiên tiên mà võ công lợi hại đến thế!” Lữ Tứ Nương cười nói: “Nếu không nhờ muội đánh úp thuyền của tên ác tặc, không biết trận đấu này sẽ ra sao!”
Lúc này Bạch Thái Quan đã bôi thuốc kim sang cho Xa Đỉnh Phong, Xa Đỉnh Phong hé mắt, mặt vàng ệch. Cam Phụng Trì tức giận nói: “Ả này ra tay thật độc ác!” Lữ Tứ Nương bước tới nói: “May mà khí lực của nàng ta còn kém, chỉ gãy một xương sườn”. Cam Phụng Trì giỏi thuật tiếp gân nối xương, trước tiên sửa khớp cho ông ta, sau đó mới băng bó lại. Một hồi sau, Xa Đỉnh Phong dần dần hồi phục tinh thần, ông ta mở mắt, khẽ gật đầu tỏ ý cảm tạ. Lữ Tứ Nương nói: “Ông hãy nằm nghỉ một lát”. Xa Đỉnh Phong thều thào nói: “Xin hỏi ân công cao tính đại danh?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Tiên tổ họ Lữ, tên hiệu là Vãn Thôn, lão trượng có quen biết không?” Xa Đỉnh Phong kêu ối chao một tiếng nói: “Có phải ân công là công tử của tiên sinh Bảo Trung hay không? Năm xưa tôi tuy không phải là môn nhân nhưng cũng từng được lệnh tổ chỉ điểm”. Ông ta gắng gượng toan ngồi dậy bái tạ. Lữ Tứ Nương vội vàng đỡ ông ta nằm xuống, nói: “Lão trượng là trưởng bối của tôi, y nhân thường nhắc tới, xin đừng khách sáo”. Xa Đỉnh Phong vẫn còn đau, thấy Lữ Tứ Nương coi ông ta như bậc trưởng bối nên cũng đành thôi. Cam Phụng Trì nói: “Thiếu niên đi cùng lão trượng là ai?” Xa Đỉnh Phong nhìn Cam Phụng Trì rồi nói: “Y... y...” Lữ Tứ Nương biết ông ta e ngại, nói: “Đây là sư huynh của tôi”. Xa Đỉnh Phong rùng mình, chợt nhớ Lữ Bảo Trung không có con trai, định thần nhìn lại Lữ Tứ Nương một hồi rồi nói: “Xin thứ cho tôi mạo muội, tôi nhớ Bảo Trung tiên chỉ có một người con gái tên gọi Oanh nhi, không biết có đi cùng thế huynh hay không?” Lữ Tứ Nương mỉm cười tháo khăn xuống, nói: “Không dám giấu gì, Lữ Oanh là tôi”. Xa Đỉnh Phong cả mừng nói: “Từ lâu đã nghe nữ hiệp có tuyệt thế võ công, hôm nay được gặp quả nhiên không sai. Ở dưới suối vàng lệnh tôn cũng được nhắm mắt”. Lữ Tứ Nương nghe ông ta nhắc đến cha mình bất giác rơi nước mắt. Xa Đỉnh Phong lại nói: “Còn đây có phải là người trong Giang Nam thất hiệp không?” Lữ Tứ Nương nói: “Đây là thất sư huynh Cam Phụng Trì”. Xa Đỉnh Phong mừng rỡ, chống tay nhổm dậy nói: “Không ngờ lại gặp Giang Nam đại hiệp ở đây!” vì vui mừng quá độ nên chợt kêu ối chao một tiếng rồi ngất đi.
Một lát sau Xa Đỉnh Phong vẫn chưa tỉnh dậy, mọi người về phòng nghỉ ngơi, ăn cơm tối xong, Lữ Tứ Nương, Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan ngồi lại bàn bạc, Lữ Tứ Nương nói: “Việc không thể chậm trễ, hôm nay muội muốn dò thám một phen”.
Bạch Thái Quan nói: “Vậy cứ để Ngư Nương canh giữ ở đây, chúng ta cùng đi”. Cam Phụng Trì nghĩ ngợi nói: “Người đông trái lại sẽ đánh cỏ động rắn. Chi bằng cứ để một mình bát muội đi trước, sau khi tìm ra hư thực chúng ta lại sẽ đi bước tiếp theo cũng không muộn!” té ra Cam Phụng Trì vì sợ Liễu Ân đang ở phủ nha, mà khinh công của Lữ Tứ Nương lại trác tuyệt, dù y có biết cũng chẳng làm gì được nàng. Bạch Thái Quan nghĩ ngợi cũng hiểu ý của Cam Phụng Trì nên không nói gì thêm.
Lữ Tứ Nương ăn cơm tối xong, ngủ một giấc ngắn, nghe tiếng trống điểm canh ba mới thức dậy, thay bộ đồ dạ hành màu đen, lướt người ra khỏi cửa sổ. Sau khi ra khỏi khách sạn, Lữ Tứ Nương chạy như làn khói vào trong thành. Đến phủ nha, nàng nhảy vào hậu viên, trong khi bọn chúng chẳng phát hiện ra nàng.
Hậu viên nối liền với nội thất của phủ nha, Lữ Tứ Nương phóng lên mái nhà, thầm nhủ: “Tìm Lý Minh Châu hỏi thử xem”. Chợt thấy ở mái nhà đằng xa có một bóng người lướt tới, Lữ Tứ Nương thầm cười: “Không ngờ có người đồng đạo, xem thử y là ai?” nàng phóng người lướt theo sau lưng người ấy, được một đoạn nàng búng hai ngón tay vào nhau đánh tách một tiếng, rồi vội vàng nhảy tránh qua một bên, người ấy quay đầu lại, dưới ánh trăng hạ huyền tuy không rõ ràng nhưng Lữ Tứ Nương có thể nhìn thấy đó chính là chàng Lý công tử đã gặp ban ngày. Chàng ta quay đầu lại, không thấy bóng người, rất ngạc nhiên nên phóng người vào nội viện.
Lữ Tứ Nương bám theo chàng ta nhẹ nhàng nhảy xuống, trong phòng chợt có hai ả nha đầu bước ra, chàng Lý công tử ấy nấp sau một gốc cây, Lữ Tứ Nương lại nhún người phóng vọt lên xà ngang, chỉ nghe một ả nha đầu nói: “Tiểu thư và sư phụ đã qua bên ấy, nghe nói là đi gặp Bảo quốc thiền sư gì đó, tỷ không cần bưng tổ yến đường phèn lên nữa”. Một người nói: “Nhưng thiếu nữ ấy lại cần. Hừ, không biết ả là thiên kim nhà đại phú đại quý gì mà cả tổ yến của tiểu thư chúng ta cũng chê dở, bảo là không bằng ở nhà ả!” hai ả nha đầu ca cẩm một lúc rồi đi ra ngoài.
Lữ Tứ Nương không màng theo chàng Lý công tử ấy nữa mà phóng lướt về phía trước mặt hai ả nha đầu, chợt thấy thiếu phụ áo xanh và Liễu Ân đi tới, Lữ Tứ Nương cả kinh, nằm phục trên mái nhà không dám động đậy, Liễu Ân và thiếu phụ bước vào phòng, căn phòng này nằm ở bên dưới nàng. Lữ Tứ Nương nhẹ nhàng đẩy mái ngói ra nhìn xuống, Liễu Ân vừa bước vào, chợt nghe thiếu phụ gằng giọng nói: “Hừ, Lữ Tứ Nương!” Liễu Ân trợn mắt hỏi: “Lữ Tứ Nương thế nào?”
Thiếu phụ áo xanh nói: “Bảo quốc thiền sư, sao ông lại dung túng sư muội như thế?” Liễu Ân hừ một tiếng, không thể nói ra lời. Thiếu phụ lại nói: “Chả lẽ chẳng có tên sư đệ nào nghe lời ông?” Liễu Ân tức giận nói: “Không có bọn chúng cũng được”. Ngừng một hồi rồi lại tiếp: “Chắc bà đã hiểu ý của tôi rồi chứ?” Thiếu phụ nói: “Không phải ông đem mật thư của Tứ bối lạc đến cho Lý đại nhân sao?” Liễu Ân nói: “Ngoài ra còn có ba việc”. Thiếu phụ nói: “Xin nói”. Liễu Ân nói: “Việc thứ nhất, Lộ Dân Đảm tuy đã đắc tội với đại nhân nhà bà nhưng đó là sư đệ của tôi, phải do tôi xử trí”. Thiếu phụ cười nói: “Vốn là như thế, nhưng cũng không tiện lắm. Y bị nhốt ở gian phòng này, lát nữa ông vào mật thất sẽ biết ngay”. Liễu Ân nhíu mày: “Ai canh giữ y?” Thiếu phụ nói: “Là Lý tiểu thư của chúng tôi!” lúc này Lữ Tứ Nương mới hiểu ra tại sao thiếu phụ lại dắt Liễu Ân vào nơi này, té ra Lộ Dân Đảm bị nhốt ở đây.
Lữ Tứ Nương ngưng thần lắng nghe, chỉ nghe Liễu Ân hừ một tiếng nói: “Đồ đệ của bà thật vô sỉ!” thiếu phụ mặt biến sắc, nói: “Bảo quốc thiền sư, ông không được mắng bừa như thế! Chả lẽ đồ đệ của tôi không xứng với sư đệ của ông?” Liễu Ân nói: “Việc này phải do ta làm chủ”. Thiếu phụ chợt cười nói: “Không cần ông nôn nóng, tôi thấy họ đã quyết định chuyện chung thân. Sư đệ của ông lúc đầu vẫn còn cứng cỏi, chẳng hề màng đến tiểu thư của chúng tôi nhưng giờ đây đã cười nói thân mật tựa như một cặp tiểu phu thê!” Liễu Ân nói: “Được, dù họ có thành thân, Dân Đảm cũng phải theo tôi đến kinh thành”. Thiếu phụ nói: “Chỉ cần ông có thể thuyết phục y, tôi y ăn nói rất bất kính với ông!” Liễu Ân cả giận, vỗ bốp lên cái bàn, nói: “Y dám như thế!” Thiếu phụ vội vàng nói: “Bảo quốc thiền sư bớt giận, dù sao sư đệ của ông cũng không chạy thoát nổi, ông có thể từ từ dạy dỗ y. Xin hỏi điều thứ hai?”
Sắc mặc của Liễu Ân hơi giãn ra, y chợt cười nói: “Đại tẩu, Hàn đại ca đã gặp bà chưa?” Thiếu phụ nói: “Đã gặp!” Liễu Ân nói: “Các người đã gây nhau mười năm, vợ chồng già cũng nên hòa giải đi thôi”. Thiếu phụ nói: “Ông lại làm thuyết khách cho y?” Liễu Ân nheo mắt cười nói: “Có những chuyện phong lưu vốn chỉ là trò đùa, qua rồi thì xong, đại tẩu, tẩu nói có phải không?” Thiếu phụ hừ một tiếng nói: “Chẳng đàng tử tế gì cả. Chuyện thứ ba?”
Lúc này Lữ Tứ Nương mới biết thiếu phụ lạ vợ của Hàn Trọng Sơn, thầm nhủ: “Mụ ta quả thật biết giữ nhan sắc, trông chỉ như người hơn bốn mươi tuổi”. Nàng từng nghe sư phụ nói: “Hàn Trọng Sơn là sư huynh của Thiên Diệp Tản Nhân, hai sư huynh đệ đều có sở trường, chưởng lực của Thiên Diệp có thể nói là một trong năm người giỏi nhất võ lâm hiện nay; còn ám khí của Hàn Trọng Sơn có thể xếp vào ba người giỏi nhất”. Thiếu phụ áo xanh này chính là Diệp Hoành Ba, vợ của Hàn Trọng Sơn, võ công của mụ cũng rất cao cường. Chả trách nào Cam Phụng Trì cũng chỉ có thể đánh ngang tay với mụ.
Liễu Ân ngập ngừng rồi nói: “Còn đứa bé gái kia? Bảo ả về theo tôi!” Thiếu phụ nói: “Ta đã nhận ả làm nghĩa nữ!” Liễu Ân nói: “Đại tẩu lại đùa rồi, tôi phải dẫn ả đi cho bằng được!” thiếu phụ nói: “Sao ả lại một mình rời khỏi Bắc Kinh?” Liễu Ân nói: “Bà đừng lo chuyện bao đồng, tóm lại là phải trả ả cho tôi”.
Thiếu phụ có vẻ rất không vui, hỏi: “Chừng nào ông về kinh?” Liễu Ân nói: “Ngày mốt”. Thiếu phụ nói: “Vậy ông không màng đến Lữ Tứ Nương? Ả cũng là khâm phạm”. Liễu Ân thầm nhủ: “Lữ Tứ Nương, Cam Phụng Trì, Bạch Thái Quan là ba người võ công cao nhất, nếu mình và Diệp Hoành Ba cự với bọn chúng, e rằng không nắm chắc nổi phần thắng”. Thế rồi trầm ngâm, chợt nói: “Hàn đại ca sắp đến đây phải không?” Thiếu phụ nói: “Việc gì đến tôi?” Liễu Ân nói: “Nếu phu phụ tẩu đồng tâm hợp lực, vậy tôi sẽ bắt Cam Phụng Trì để tẩu hả cơn giận”. Thiếu phụ nói: “Được thôi, ông ở lại thêm hai ngày nữa, đợi lão quỷ ấy đến rồi tính tiếp. Tôi cũng không nỡ rời Yến nhi!”
Liễu Ân chợt nghiêm mặt, nói: “Giờ bà hãy gọi ả đến đây, tôi có chuyện hỏi ả”. Thiếu phụ tỏ vẻ ái ngại, chạy ra ngoài vỗ ba tiếng, chúm môi huýt một tiếng sáo dài, lát sau, có thiếu nữ không biết từ góc nào chạy ra, thiếu phụ nắm tay nàng, nói: “Có quý khách muốn gặp con”. Thiếu nữ ấy bĩu môi nói: “Con không gặp Bảo quốc thiền sư”. Thiếu phụ đẩy nàng vào phòng, trách: “Không nên vô lễ như thế”.
Thiếu nữ thấy Liễu Ân, tựa như rất e sợ, Liễu Ân vẫy tay: “Đến đây!” thiếu nữ lắc đầu nói: “Không!” Liễu Ân nổi sùng nói: “Ngươi vẫn ngang ngạnh, bọn họ cứ chìu ngươi đến hư mất!” thiếu nữ chợt nói: “Tứ bối lạc bảo tôi không cần nghe lời ông. Đừng gần gũi ông”. Liễu Ân nhảy dựng lên: “Cái gì? Ngươi nói bậy!” thiếu nữ cười nói: “Người nói ông là một dâm tăng, này, đại sư phụ, dâm tăng là gì thế?” sắc mặt của Liễu Ân lúc xanh lúc đỏ, không biết có phải Tứ bối lạc đã nói như thế hay không.
Lữ Tứ Nương nghe vừa tức vừa buồn cười, tức là vì sư phụ của mình được người trong võ lâm kêu là Thần ni, thế mà có một đệ tử mang danh dâm tăng, nếu sư phụ ở dưới chính suối mà biết cũng không nhắm mắt; buồn cười là vì Liễu Ân làm ra vẻ nghiêm nghị trước mặt một đứa bé gái, bị nó mắng như thế mà chẳng làm gì được. Lúc đó, chợt bên ngoài có một bóng người lướt tới, nấp ở góc tối, kề tai vào vách tường nghe lén. Lữ Tứ Nương thầm nhủ: “Ồ, y cũng đến đây, thật là lớn gan!” người đó chính là Lý công tử.
Thiếu nữ lại nói: “Tôi ở trong cung buồn bực, ra ngoài rong chơi, các người làm gì mà căng thẳng đến thế, ngày mai tự tôi sẽ trở về”. Liễu Ân nói: “Tứ bối lạc bảo ngươi cùng về với ta”. Thiếu nữ nói: “Người nói có thật không?” Liễu Ân bực dọc nói: “Ngươi cứ nói càn nữa ta vả vào mặt”. Rồi đứng dậy, đưa bàn tay to bè toan vả nàng. Thiếu phụ áo xanh chợt cản: “Bảo quốc thiền sư, đừng nóng nảy, nó sợ thì sao?” thiếu nữ vụt chạy ra ngoài. Chàng Lý công tử lướt ra đuổi theo!
Liễu Ân kêu lớn: “Có trộm!” rồi phóng vọt người đuổi theo. Lữ Tứ Nương biết Lý công tử không phải là đối thủ của chàng, chỉ trong chớp mắt, Liễu Ân đã lướt qua hai mái nhà, thiếu phụ áo xanh cũng đuổi theo, Lữ Tứ Nương nhún người lướt qua một gian nhà, kêu lớn: “Liễu Ân, ngươi có dám tử chiến với ta không?” Liễu Ân cả kinh, đột nhiên thu bước, xoay người lại, Lữ Tứ Nương vung hai tay lên, sáu mũi trủy thủ sáng loáng bay về phía Liễu Ân.
Trừ Liễu Ân, các đệ tử của Độc tý thần ni đều luyện ám khí độc môn, như Bạch Thái Quan luyện Mai Hoa châm, Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương luyện phi đao, phi đao của Lữ Tứ Nương lại khác với Cam Phụng Trì, ngoại trừ ngắn hơn của Cam Phụng Trì, chui đao trống rỗng, khi phóng ra phát tiếng kêu u u nghe kinh tâm động phách! Liễu Ân múa tít cây thiền trượng, đánh rơi bảy mũi phi đao, tiếng kêu quái dị của phi đao cũng khiến cho y thấy bồn chồn. Khi tinh thần Liễu Ân bất định, Lữ Tứ Nương thi triển khinh công lướt vù qua người y, rồi nàng quay đầu lại phóng ra sáu mũi phi đao, đến khi Liễu Ân đã đánh rơi toàn bộ số phi đao, Lữ Tứ Nương đã nhảy ra khỏi phủ nha. Liễu Ân biết không đuổi theo kịp, thế là nhảy xuống trở lại. Thiếu phụ nói: “Bảo quốc thiền sư, Yến nhi đâu?” Liễu Ân nói: “Cũng đi rồi!” thiếu phụ nói: “Sao không đuổi theo?” Liễu Ân nổi sùng nói: “Bà tự đuổi theo! Con nha đầu này lớn gan như thế, té ra là ả tiện tì Lữ Tứ Nương ngầm giúp”. Thiếu phụ áo xanh nghe nói là Lữ Tứ Nương, một mình làm sao dám đuổi theo?
Lữ Tứ Nương nhảy ra khỏi phủ nha, vọt lên nhà dân, nàng đưa mắt nhìn xung quanh, chỉ thấy gốc Tây bắc có một bóng đen chạy nhanh như ngựa, phóng thẳng ra thành, trước bóng đen, thấp thoáng có một chấm đen lướt đi như sao xẹt. Lữ Tứ Nương biết chấm đen này chính là thiếu nữ, bóng đen ở phía sau có lẽ là chàng thiếu niên ấy. Khi bóng đen chạy ra khỏi thành, Lữ Tứ Nương mới phóng người đuổi theo, đuổi được một chốc, bóng đen dần dần hiện rõ, Lữ Tứ Nương mới chậm bước. Khinh công của chàng thiếu niên cũng coi như thuộc hàng đệ nhất lưu, thế nhưng Lữ Tứ Nương đuổi theo sau lưng chàng ta, chàng ta chẳng hề hay biết!
Thiếu niên đã chạy đến bờ Tây của Tây Hồ, chàng ta chợt phóng lên một ngọn núi cao ven hồ, ngọn núi này tên gọi là Cát Lĩnh, nằm ở giữa núi Bảo Thạch và dãy Tây Hồ, tương truyền thời xưa Cát Hồng đã từng luyện đan trên núi, bởi vậy người đời sau mới gọi là Cát Lĩnh. Lúc này thiếu nữ đã chạy lên núi, chàng thiếu niên đuổi theo sau, chỉ thấy quái thạch lô nhô, nàng thiếu nữ đã biến mất, chàng thiếu niên kêu lớn: “Anh muội, Anh muội!” chỉ có âm thanh vang vọng chứ không nghe có ai trả lời.
Chàng thiếu nữ lại kêu hai tiếng, chợt nghe có người cười ở sau lưng: “Người ta không nhận ngươi, ngươi còn gọi làm gì?” chàng thiếu niên cả kinh, không dám quay đầu lại, nhảy ngang qua ba bước, rút thanh kiếm ra rồi mới xoay người. Lữ Tứ Nương cười nói: “Chúc mừng các hạ, hôm nay nạn lớn không chết, sau này sẽ có phước”. Chàng thiếu niên nhận ra đó là Lữ Tứ Nương, nổi lòng nghi ngờ quát: “Đêm hôm khuya khoắt ngươi theo dõi ta có ý gì?” té ra ban ngày khi ở trong quán trà, chàng ta đã thấy Lữ Tứ Nương chào Xa Đỉnh Phong, không biết nàng cứu người, nghi nàng cùng một giuộc với người đàn bà áo xanh. Đến khi Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì ác đấu với Liễu Ân trên mặt hồ, chàng ta đã rơi xuống nước, nên không đoán được Lữ Tứ Nương là địch hay bạn.
Vốn là Lữ Tứ Nương chỉ cần nói cho rõ ràng thì sẽ chẳng có chuyện gì. Nhưng nàng mang thù nước nợ nhà, không thể không cẩn thận, chàng thiếu niên này trông không phải người xấu nhưng dẫu sao cũng là kẻ lạ, Lữ Tứ Nương không muốn tỏ thân phận cho chàng biết. Chàng thiếu niên thấy nàng không đáp, giận dữ nói: “Ngươi rốt cuộc là bằng hữu phương nào, ta với ngươi không quen biết, tại sao ngươi lo chuyện bao đồng?”
Lữ Tứ Nương thầm nhớ đến thân pháp quái dị của chàng thiếu niên, nhủ rằng: “Mình phải thử bản lĩnh của y xem sao”. Rồi giả vờ lạnh lùng cười: “Ngươi và Xa lão đầu có quan hệ gì?” thiếu niên chợt biến sắc, hừ một tiếng nói: “Uổng cho ngươi có thân thủ thế này mà đành làm ưng khuyển!” rồi chàng ta lắc vai đấm tới một kiếm. Lữ Tứ Nương lách qua, rút phắt thanh kiếm cười nói: “Ngươi là đệ tử của ai?” chàng thiếu niên đâm soạt soạt hai nhát, hiếm hóc lạ thường, lớn giọng nói: “Có nói ra ngươi cũng chẳng biết!” hình như chàng rất tự phụ về mặt kiếm pháp. Lữ Tứ Nương thầm cười, nhủ rằng: “Có kiếm pháp của nhà nào mà ta không biết? Chỉ cần ngươi dùng đúng mười chiêu, ta sẽ nói chẳng sai”.
Chàng thiếu niên vẫy thanh kiếm đánh gấp lên, lại chém xéo một kiếm vào eo Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương không né tránh nữa, đã nhận ra chiêu này chính là Khổng Tước Tước Linh của phái Võ Đang, vì thế nàng giơ ngang kiếm đè xuống, thi triển chiêu thức Đảo Chuyển Âm Dương trong Huyền Nữ kiếm pháp, thế rồi nâng kiếm lên, tưởng rằng chàng thiếu niên chắc chắn sẽ rút kiếm; nào ngờ chiêu số của chàng ta rất quái lạ, thấy Lữ Tứ Nương đè kiếm xuống thì đột nhiên vẫy thanh kiếm chém ngược trở ra! Lữ Tứ Nương suýt nữa đã trúng đòn, may mà kiếm pháp của nàng đã đến mức lư hỏa thuần thanh, thế là nàng xoáy thanh kiếm, lập tức hóa giải chiêu thức của kẻ địch, chàng thiếu niên nhảy ra hai bước, trở người đánh lại một chiêu, chiêu kiếm này rõ ràng là Phụng hoàng triển xí của phái Tung Dương, kiếm thế lẽ ra từ trái sang phải, Lữ Tứ Nương thông hiểu kiếm pháp các nhà, nàng hơi lắc người đã chặn phía bên trái, không ngờ chàng thiếu niên đánh kiếm nửa chừng đột nhiên thay đổi đâm thẳng vai phải, Lữ Tứ Nương rút kiếm không kịp, đành phải nhờ khinh công tuyệt đỉnh vặn người, né tránh nhát kiếm ấy nhanh như điện chớp.
Lữ Tứ Nương rất kinh ngạc, kiếm chiêu của nàng thiếu niên rất quái dị, đúng là nàng chưa từng thấy bao giờ, thế là vội vàng thi triển ba mươi sáu đường Liên Hoàn kiếm pháp hộ thân trong Huyền Nữ kiếm pháp ra, thanh bảo kiếm múa thành một vòng tròn đầu đuôi nối tiếp nhau, giọt nước không lọt vào. Khi phòng thủ, đôi lúc nàng cũng đánh vài chiêu tấn công, chàng thiếu niên múa kiếm đánh tới như giông bão, đôi bên phá giải hơn ba mươi chiêu, Lữ Tứ Nương vẫn chưa nhìn ra chiêu số của đối phương!
Kiếm pháp của chàng thiếu niên tuy quái dị nhưng Lữ Tứ Nương sử dụng kiếm thuật chính tông, tinh diệu vô cùng, tuy trong nhất thời không dò ra được lộ số của đối phương, không giám phóng tay tấn công nhưng muốn ứng phó vẫn còn dư.
Lữ Tứ Nương không biết rằng, chàng thiếu niên càng nôn nóng hơn nàng. Nàng không dò được lộ số của chàng, chàng cũng không biết lộ số của nàng, chỉ cảm thấy kiếm pháp của Lữ Tứ Nương tinh vi ảo diệu, tựa như rất giống Thiên Sơn kiếm pháp. Lại thêm công lực của Lữ Tứ Nương cao hơn chàng, đấu được đến khoảng năm mươi chiêu, chàng đã đỏ mặt thở hơi dồn dập, còn Lữ Tứ Nương vẫn khí định thần nhàn!
Chàng thiếu niên nôn nóng, thi triển kiếm chiêu càng nhanh hơn. Lữ Tứ Nương đánh cả thủ lẫn công, thầm quan sát đối phương, chỉ cảm thấy kiếm pháp của thiếu niên này tựa như tập hợp sở trường của các nhà, mỗi chiêu đều ngược lại với kiếm pháp bình thường. Ví dụ trong kiếm pháp của phái Võ Đang có một chiêu tên gọi Vô Thường Đoạt Mệnh, chiêu thế phải đánh từ trên xuống dưới, đâm xuống hạ bàn của đối phương; còn chàng thiếu niên lại đánh từ dưới lên trên đâm vào trung bàn của đối phương. Lại như trong phái Tung Dương có chiêu Trừu Triệt Liên Hoàn, lẽ ra phải đâm bên trái ba nhát kiếm, bên phải một nhát, rồi lại đâm hai nhát ở giữa; thế nhưng chàng ta lại đâm ba nhát bên phải trước rồi đâm hai nhát bên trái, sau đó mới đâm ở giữa một nhát. Lữ Tứ Nương đấu với chàng ta một trăm chiêu, chợt vỡ lẽ ra, chặn ngang thanh kiếm đẩy chàng thiếu niên thối lui ba trượng, cười nói: “Ngươi là hậu duệ của Bạch Phát ma nữ! Sư phụ của ngươi là Phi Hồng Cân hay Võ Quỳnh Giao?”
Lữ Tứ Nương đã vạch trần sư thừa của chàng thiếu niên, chàng ta cả kinh, giơ ngang kiếm không giám xuất chiêu! Lữ Tứ Nương đút kiếm vào vỏ, cười nói: “Không cần đấu nữa, ta đấu với ngươi một trăm chiêu mới biết được gia số của ngươi, ta đã cam bái hạ phong!”
Chàng thiếu niên trố mắt, vừa nghi hoặc vừa hổ thẹn, kiếm pháp của đối phương rõ ràng hơn mình, sao lại nhận thua? Điều khiến chàng ta càng hổ thẹn hơn là Lữ Tứ Nương đã nhìn ra gia số của chàng mà chàng chẳng hề biết gì về kiếm pháp của Lữ Tứ Nương. thế rồi chàng mới ôm kiếm vái dài: “Ta đã nhận thua, nếu ngươi muốn bắt ta, ta sẽ bó tay chịu trói!” Lữ Tứ Nương cả cười: “Ai muốn bắt ngươi, ngươi có nghe danh Độc tý thần ni chưa?”
Chàng thiếu niên kêu ối chao, vái dài sát xuống đất, nói: “Vậy huynh đài là môn hạ của Độc tý thần ni, người trong Giang Nam thất hiệp?” Lữ Tứ Nương nói: “Chính thế”. Chàng thiếu niên nheo mắt, chợt lộ vẻ nghi hoặc. Té ra chàng ta đã từng theo mẫu thân Võ Quỳnh Giao đến luận kiếm cùng Dịch Lan Châu, Dịch Lan Châu nói: “Trong thiếu hiệp hiện nay có bốn phái kiếm pháp, mỗi phái đều có sở trường, khó phân hơn kém. Một là Thiên Sơn kiếm pháp của Hối Minh thiền sư, hai là Đạt Ma kiếm pháp của phái Võ Đang phía Bắc do tông sư Quế Trọng Minh truyền lại; ba là Huyền Nữ kiếm pháp của Độc tý thần ni, bốn là kiếm pháp độc môn của Bạch Phát ma nữ”. Lúc đó Võ Quỳnh Giao nói: “Thiên Sơn kiếm pháp có sở trường bao la, Đạt Ma kiếm pháp hay ở chỗ kỳ lạ, Huyền Nữ kiếm pháp hơn người ở chỗ tuyệt diệu, cả ba nhà này đều khó phân cao thấp, còn kiếm pháp của tôi lại nghiêng lệch, tỷ tỷ cũng xếp chung với họ, thật khiến cho tôi nở mày nở mặt”. Dịch Lan Châu nói: “Tỷ tỷ đừng quá nhún nhường, nếu luận về kỳ dị hiểm hóc, kiếm pháp của tỷ tỷ còn hơn cả ba nhà kia”. Võ Quỳnh Giao than ràng: “Trong kiếm pháp của ba nhà, đáng tiếc tôi chưa từng gặp Huyền Nữ kiếm pháp”. Võ Quỳnh Giao chỉ nhắc đến ba nhà, rốt cuộc không dám xếp kiếm pháp của mình đứng chung, đương nhiên là vì bà ta khiêm nhường. Dịch Lan Châu nói: “Nghe câu nói này của tỷ tỷ, tôi chợt nghĩ rằng, nếu kiếm pháp của bốn phái đến Thiên Sơn tụ hội cũng là một thịnh sự. E rằng tuổi thọ còn người có hạn, chỉ mơ tưởng chứ không làm được. Tôi đã từng thấy Huyền Nữ kiếm pháp, ba mươi năm trước Độc tý thần ni lên Thiên Sơn, đáng tiếc tỷ tỷ không có ở đây. Kiếm pháp của bà ta chỉ truyền cho nữ đệ tử quan môn là Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương mang nợ nước thù nhà, suốt ngày rong ruổi trên giang hồ, e rằng không thể đến Thiên Sơn”.
Chàng thiếu niên nhớ lại những lời năm xưa, trong lòng thầm lấy làm lạ tại sao người trước mặt mình lại là một nam nhi. Lữ Tứ Nương mỉm cười kéo khăn trùm đầu, nói: “Tôi là Lữ Tứ Nương, dám hỏi huynh đài cao tính đại danh?” chàng thiếu niên nói: “Tôi là Lý Trị, gia mẫu là Võ Quỳnh Giao”. Lữ Tứ Nương cung tay nói: “Té ra huynh đài là hậu duệ của Sấm vương, thất kính, thất kính!”
Số là năm xưa thất kiếm qui ẩn Thiên Sơn, Võ Quỳnh Giao và Lý Tư Vĩnh thành thân, ẩn cư ở chỗ Bạch Phát ma nữ chỉ sinh được một người con trai là Lý Trị. Khi Lý Trị được mười tuổi, Lý Tư Vĩnh qua đời, Võ Quỳnh Giao truyền kiếm pháp độc môn cho chàng ta. Hai năm sau, Dịch Lan Châu dắt Phùng Anh về Thiên Sơn, lúc ấy Phùng Anh chỉ có bảy tuổi. Tuy họ cùng ở Thiên Sơn nhưng một người ở phía Bắc một người ở phía Nam, cách nhau đến ngàn dặm, mỗi năm Võ Quỳnh Giao đều đến thăm Dịch Lan Châu một lần nên Lý Trị với Phùng Anh coi như cũng là một đôi thanh mai trúc mã, Lý Trị lớn hơn sáu tuổi, vẫn xem Phùng Anh là muội muội. Sáu bảy năm trước, Dịch Lan Châu lại đến Trung Nguyên, bởi vậy nhờ Võ Quỳnh Giao chăm sóc cho Phùng Anh. Chính vì thế Lý Trị và Phùng Anh rất thân thiết nhau.
Lữ Tứ Nương và Lý Trị hỏi họ tên nhau, đôi bên nói mấy lời khách sáo. Lữ Tứ Nương nói: “Lý huynh rời Thiên Sơn được bao lâu rồi? Xa lão đầu là người thế nào?” Lý Trị nói: “Tôi rời Thiên Sơn chưa được hai năm, trước đây Sa thế bá là trọng sự của gia phụ ở Tứ Xuyên. Lần này tôi xuống núi, gia mẫu đã đưa một danh sách, bảo tôi thăm các thuộc hạ cũ của phụ thân, xem thử có bao nhiêu người còn sống? Mấy ngày trước tôi nhờ bằng hữu báo tin tôi đến Hàng Châu cho Xa lão bá, người hẹn tôi gặp nhau ở Tam Đàm Ấn Nguyệt, không ngờ lại gây ra họa, may mà từ lúc còn nhỏ tôi đã bơi lội ở Thiên Trì trên Thiên Sơn, cũng hơi thông hiểu thủy tính chứ nếu không đã mất mạng. Không biết tên hung tăng kia là ai mà võ công ghê gớm đến thế!” Lữ Tứ Nương kêu “hổ thẹn” rồi cho chàng ta biết lai lịch của Liễu Ân.
Lý Trị nói: “Thiếu nữ hôm trước là ái đồ của Dịch lão tiền bối, cũng là truyền nhân duy nhất của bà, mong cô nương giúp tôi tìm kiếm”. Lữ Tứ Nương chưng hửng, thầm nhủ: “Thiếu nữ này võ công rất phức tạp, làm sao là ái đồ của Dịch Lan Châu?” thế mới nói: “Hình như Lý huynh đã nhận lầm người?” Lý Trị cười nói: “Tôi lớn lên cùng nàng, làm sao nhận lầm? Có điều không biết tại sao hình như nàng ta bị mê lú, tôi thật lo lắng!” Lữ Tứ Nương nói: “Nếu đã là truyền nhân y bát của Dịch lão tiền bối, tôi đương nhiên phải dốc sức tìm kiếm”.
Khi đang nói chợt nghe ba mũi hưởng tiễn kêu lên u u, một tiếng dài hai tiếng ngắn từ phía Đông Nam phát ra. Lữ Tứ Nương thất kinh, nói với Lý Trị: “Mong huynh đài thứ lỗi, tôi có chuyện gấp phải trở về khách sạn”. Lý Trị nói: “Sao nửa đêm lại có người phát hưởng tiễn?” Lữ Tứ Nương nói: “Là tín hiệu liên lạc của đồng môn chúng tôi!” Lý Trị cũng thất kinh nói: “Nếu như thế, xin cứ tùy tiện!” Lữ Tứ Nương cung tay, đang định xuống núi, chợt nói: “Lý huynh, Xa lão bá của huynh đang ở chỗ chúng tôi. Ngày mai hãy đến”. Thế rồi nói địa chỉ của khách sạn cho chàng nghe, Lý Trị mừng rỡ nói: “Ngày mai tôi sẽ đến sớm”. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân lướt người đi như sao xẹt, trong chớp mắt đã biến mất! Lý Trị rất khâm phục.
Đến nửa đêm, mặt trăng dần dần chìm về phía Tây, chắc là đã canh năm. Lý Trị nhảy lên một mõm đá đưa mắt nhìn ra xa, núi vắng tĩnh mịch, chỉ có tiếng gió thổi qua tai nghe như nước triều. Lý Trị rất thất vọng, chợt nghe tiếng cười khanh khách, chàng vội vàng nhảy xuống kêu: “Anh muội, Anh muội!” thiếu nữ ban ngày chợt bước ra, cười khanh khách nói: “Ta ở đây!”
Lý Trị cả mừng, thiếu nữ vẫy tay nói: “Đến đây!” Lý Trị hơi chần chừ, thiếu nữ cười nói: “Ta không đánh ngươi, ban ngày ta chỉ đùa với ngươi, ngươi còn giận ta ư?” Lý Trị bước tới nắm tay nàng, thiếu nữ giật tay ra. Lý Trị chưng hửng, chợt nhớ rằng nàng ta đã là một tiểu cô nương mười bốn tuổi, có lẽ đã biết hổ thẹn, cũng mỉm cười hỏi: “Thiếu phụ áo xanh là ai, sao muội lại quen bà ta?” nàng thiếu nữ nói: “Ngươi cứ mặc ta! Chả lẽ những người ta quen biết đều phải nói cho ngươi biết hay sao?” Lý Trị khựng người, thầm nhủ: “Sao tính tình của nàng lại thay đổi như thế, trước đây nàng có nói thế bao giờ đâu?”
Khi còn ở Thiên Sơn, Lý Trị và Phùng Anh tình như huynh muội. Phùng Anh rất nghe lời chàng ta. Lý Trị nghĩ bụng chỉ mới không gặp hơn hai năm mà nàng ta lại ăn nói như thế với mình. Thiếu nữ lại cười khanh khách: “Ngươi ngồi xuống, đứng sững nhìn ta làm gì?” Lý Trị ngồi xuống bên cạnh nàng, hỏi: “Dịch bá mẫu có khỏe không?” thiếu nữ nói: “Rất khỏe, người cũng đang nhớ ngươi!” Lý Trị nói: “Tóc của người thế nào rồi?” thiếu nữ nói: “Thì vẫn bạc như trước?” Lý Trị nhảy bật dậy nói: “Cái gì, tóc của Dịch bá mẫu đã bạc?” mấy mươi năm trước Dịch Lan Châu đã từng ăn hoa ưu đàm, mái tóc có thể đen mãi không bạc. Nếu đã bạc tức là sắp chết tới nơi, nên Lý Trị hỏi đầu tóc của bà ta, thực sự có nghĩa là bà ta có khỏe hay không, nay nghe thiếu nữ nói tóc của bà đã bạc, bởi vậy làm sao không lo. Nàng thiếu nữ chợt cười nói: “Ta lừa ngươi đấy, ngươi vốn rất thông minh kia mà, sao lần này lại ngốc đến thế? Ta không phải bảo tóc của người vẫn như trước sao? Tóc của người lúc trước thế nào, chả lẽ ngươi không biết? Ngươi xuống núi chẳng phải chỉ hai năm”. Lý Trị vừa nghe, quả nhiên nàng đã nói như thế. Cười nói: “Sao muội lại nghịch ngợm thế? Dám đem chuyện ấy ra dọa ta! Tóc của Dịch bá mẫu mãi mãi không bạc, muội nói đã bạc, chẳng phải nguyền rủa người sắp chết sao? Uổng cho người thương yêu muội, muội lại đùa như thế!” thiếu nữ thè lưỡi nói: “Lần sau ta không dám nữa!”
Thật ra thiếu nữ này không phải là Phùng Anh mà là Phùng Lâm. Nàng nấp sau tảng đá, đã nghe hết cuộc nói chuyện giữa Lữ Tứ Nương với Lý Trị. Trong lòng vừa kinh vừa mừng. Nàng tuổi tuy còn nhỏ nhưng cũng từng nghe người ta nói đến Dịch Lan Châu và Võ Quỳnh Giao, biết hai người này là nữ kiếm khách lợi hại nhất trên đời, trong đó Dịch Lan Châu là một cao thủ kiếm thuật, Liễu Ân hòa thượng và Thiên Diệp Tản Nhân thường hay mắng bà ta, còn bảo rằng sẽ mời mười cao thủ thuộc hàng nhất lưu quyết hạ bà ta cho bằng được. Phùng Lâm tuy nhỏ nhưng rất thông minh, thấy bọn chúng căm ghét bà ta như thế thì biết Dịch Lan Châu có bản lĩnh đến mức nào, trong lòng rất ngưỡng mộ.
Lúc nãy đứng sau tảng đá, nghe Lý Trị là con của Võ Quỳnh Giao, lại nghe Lý Trị nói mình là truyền nhân duy nhất của Dịch Lan Châu, lại cùng lớn lên với mình, trong lòng lấy làm lạ, lẽ nào trên đời lại có người giống hệt mình? Nhưng không biết người kia tên họ là gì? Thế là mạo nhận nàng thiếu nữ kia để trêu Lý Trị.
Lý Trị nằm mơ cũng không ngờ rằng thiếu nữ trước mặt mình không phải Phùng Anh, lại hỏi: “Hai năm qua muội có gặp mẫu thân của ta không?” Phùng Lâm cười hì hì, đáp bừa rằng: “Có gặp một lần”. Lý Trị nói: “Người thế nào?” Phùng Lâm nói: “Người vẫn đang luyện kiếm”. Lý Trị ngạc nhiên nói: “Sao lại luyện kiếm? Người không tọa quan sao?” té ra khi Lý Trị xuống núi, Võ Quỳnh Giao đã bắt đầu tọa quan, cứ bảy ngày là một kỳ, mỗi lần tịnh tọa bảy ngày, khi tịnh tọa chỉ ăn hoa quả, qua bảy ngày thì ăn uống lại bình thường. Sau đó nghỉ ngơi ba ngày rồi lại tịnh tọa tiếp. Lối tọa quan trường kỳ này là cửa ải cuối cùng của người luyện tập nội công thượng thừa nhất. Trong thời kỳ tọa quan, không màng đến việc đời, càng không cần luyện kiếm. Lý Trị vừa nghe Phùng Lâm bảo mẹ mình đang luyện kiếm thì rất lấy làm lạ. Phùng Lâm biết mình đã hớ, mỉm cười nói: “Ta và sư phụ cùng tới, sư phụ nói mẫu thân của ngươi đã tẩu hỏa nhập ma!”
Lý Trị càng kinh hãi, rung giọng kêu lên: “Tẩu hỏa nhập ma? Ôi chao, người thế nào rồi?” Phùng Lâm lớn lên trong phủ Tứ bối lạc, luyện tập võ công của các phái. Thế nhưng các dị nhân trong phủ Tứ bối lạc, ngoại trừ Liễu Ân, không ai biết nội công huyền môn chính tông, mà hễ luyện nội công của bàng môn tả đạo thì thường tẩu hỏa nhập ma nên Phùng Lâm đã nghe quen bốn chữ “tẩu hỏa nhập ma” vì thế mới nói: “May mà khi sư phụ ta đến, thấy bá mẫu có điều khác lạ, cơ mặt co rút, sư phụ ta vừa nhìn thì biết người đã tẩu hỏa nhập ma, vội vàng vận chân khí nội gia giúp người hít thở, người mới hồi phục lại bình thường. Sư phụ ta nói nếu người đến không kịp lúc, bá mẫu đã bán thân bất toại. Nên sau đó bá mẫu không tọa quan nữa, bảo rằng luyện kiếm đến mức xuất thần nhập hóa rồi mới tiếp tục”. Những câu nói này nghe ra cũng rất có căn cứ, Lý Trị không thể không tin. Chàng thiếu niên võ công của Bạch Phát ma nữ vốn chẳng phải huyền môn chính tông, chàng tưởng rằng nội công của mẹ mình thâm hậu, nếu luyện chẳng hề chi, nào ngờ cũng tẩu hỏa nhập ma. Bởi vậy trong lòng rầu rĩ. Phùng Lâm lại cười nói: “Sư phụ ta nói không sao, ngươi buồn làm gì? Người bảo mẹ ngươi có trải qua chuyện đó, sau này tọa quan cũng biết né tránh, người còn chỉ điểm cho mẹ ngươi yếu quyết luyện tập nội công thượng thừa nhất, đáng tiếc ta nghe không hiểu”. Lý Trị cả mừng, nói: “Ồ, té ra mẹ của ta vì họa mà được phúc”. Phùng Lâm mỉm cười lại nói: “Ngươi có thể dạy ta kiếm pháp độc môn của ngươi hay không?”
Lý Trị ngạc nhiên nói: “Thiên Sơn kiếm pháp của muội bao la rộng lớn, tại sao lại còn đòi học kiếm pháp của ta?” Phùng Lâm nói: “Sư phụ của ta nói: Kiếm pháp của hai nhà chúng ta một chính một phản vốn từ một nguồn, nên ta nghĩ, nếu được học cả hai thứ chẳng phải sẽ tốt hơn sao? Ta vốn muốn bá mẫu dạy cho nhưng đáng tiếc ta vội vàng xuống núi nên không có cơ hội”. Lý Trị chợt cười nói: “Thực ra sư phụ của muội cũng biết kiếm pháp của ta. Trước đây sư tỷ của mẹ ta Phi Hồng Cân đã từng dạy cho bà”. Phùng Lâm thầm thất kinh, không ngờ đã lộ sơ hở. May mà Lý Trị cười rồi lại nói: “Sư phụ cũng không dạy cho muội, chắc là thấy muội tuổi còn nhỏ, sợ muội học quá nhiều món nên chỉ bảo muội chuyên luyện Thiên Sơn kiếm pháp”. Lý Trị nói đến đây, chợt rùng mình hỏi: “Muội xuống núi được bao lâu?” Phùng Lâm nghĩ ngợi rồi đáp: “Ồ, được hơn nửa năm”. Lý Trị nói: “Trong vòng nửa năm, tại sao lại học được võ công của nhiều phái đến thế?” Phùng Lâm dẫu môi nói: “Ta thích kia mà, tại sao cứ thích quản ta thế? Ta giờ đây đã lớn dần lên, học nhiều một chút cũng không sao. Ồ, ta biết rồi, ngươi không muốn dạy ta nên cố ý trách ta”. Lý Trị nghe thế nhíu mày nói: “Sao muội lại nói thế? Muội muốn học, huynh sẽ dạy”.
Phùng Lâm cả mừng, lại nói: “Vậy khí hậu thiên là gì, khí tiên thiên là gì? Nội đan tu luyện thế nào?” Lý Trị lại ngạc nhiên một hồi nữa, lòng thầm nhủ: “Sao Dịch bá mẫu lại không dạy những điều cơ bản trong cách tu luyện nội công cho nàng”. Số là khí hậu thiên và khí tiên thiên là cách nói của đạo gia, sau đó những người luyện nội công cũng dùng. Khí hậu thiên là khí trong hung phế, bởi vì hít vào từ bên ngoài nên gọi là khí hậu thiên, khí trong khí hải và đơn điền gọi là khí tiên thiên, khi con người ra đời đã có. Người bình thường khi hít thở, khí trong hung phế và khí trong đơn điền không thể hòa lẫn với nhau; nếu người đã luyện qua công phu thổ nạp, có thể hòa hai khí thành một, gọi là “khí thông”, đến cảnh giới khí thông, khí tiên thiên và khí hậu thiên trên dưới kết hợp, vô hình trung đã kết thành một viên “đơn hoàn” trong người, có thể di chuyển lên trên và dưới, đó chính là nội đơn mà đạo gia vẫn thường nói, thực ra đó là một luồng khí kình được luyện thành trong cơ thể chứ không mang màu sắc mê tín gì cả.
Phùng Lâm chẳng hề biết gì yếu quyết nội công, nên mới hỏi như thế. Thấy Lý Trị ngạc nhiên thì đảo mắt, cười rằng: “Ngươi nhất định sẽ lấy làm lạ tại sao sư phụ ta không dạy điều đó chứ gì? Người bảo ta tuổi còn nhỏ, không kiên nhẫn tịnh tọa nên chỉ dạy ta luyện kiếm, không dạy ta nội công”. Khi Phùng Anh được bảy tám tuổi, do Võ Quỳnh Giao coi sóc, sau đó theo Dịch Lan Châu trở về phía Bắc, cho đến năm mười hai tuổi, trong bốn năm này, mỗi năm Lý Trị đến thăm nàng một lần mỗi lần gặp nhau khoảng nửa tháng, Lý Trị xem nàng như đứa trẻ nên không hỏi nàng có luyện nội công hay không. Lúc này chàng thầm nhủ: “Dịch bá mẫu chỉ truyền võ nghệ chứ không truyền nội công, cách dạy này há chẳng phải khiếm khuyết hay sao?” thế rồi nói: “Huynh nói cho muội nghe cũng chẳng sao, nhưng nếu bá mẫu mà biết chắc chắn sẽ cười huynh mất”. Phùng Lâm nói: “Ta không nói cho người biết là xong. Người vốn bảo ta ra giang hồ ba năm, khi về núi sẽ dạy cho ta phương pháp tu luyện nội công. Chỉ e lúc đó người đã già, nếu có chuyện gì bất trắc há chẳng phải suốt đời không được học hay sao!” Lý Trị nghe thế lại nhíu mày, nói: “Sao lại nói thế”. Thầm nhủ: “Đứa trẻ này xưa này dịu dàng dễ mến, sao chỉ có nửa năm mà hư hỏng đến thế, chỉ nghĩ đến bản thân mình. Nếu chẳng may ân sư chết đi, đau đớn còn không kịp, sao lại nghĩ đến chuyện khác. Nếu Dịch bá mẫu mà nghe chắc chắn sẽ tức chết đi được”.
Phùng Lâm thấy chàng ta lại sầm mặt, kêu ôi chao một tiếng nói: “Ta biết ta đã nói lỡ lời, hảo ca ca đừng giận, từ rày ta không nói càn nữa”. Lý Trị chỉ bảo: “Thôi được, ta không giận. Nếu muội muốn học nội công, ta sẽ dạy yếu quyết cơ bản cho muội”. Giảng được nửa canh giờ, Phùng Lâm đã hiểu cả mừng đáp tạ. Lý Trị lại nhíu mày nói: “Muội làm sao thế, tựa như đã biến thành người khác?” Phùng Lâm mỉm cười: “Trước đây muội thế nào? Huynh nói cho muội nghe thử”. Lý Trị vừa bực mình vừa buồn cười nói: “Muội cũng chỉ mới mười ba mười bốn tuổi mà cả bản thân cũng quên mất!” Phùng Lâm mỉm cười đứng lên, tựa như rất vui mừng vì được chàng chỉ điểm. Lý Trị nói xong, trong lòng đột nhiên thấy run sợ, thầm nhủ: “Chả lẽ có người mau quên bản tính của mình như thế?” bất giác sững người nhìn nàng, chẳng nói ra lời.
Lúc này trời đã hửng sáng, đám mây ngũ bay qua bầu trời. Cảnh buổi sáng trên Cát Lĩnh vốn là một trong tiền đường bát cảnh. Từ Cát Lĩnh nhìn về phía xa, sông Tiền Đường trắng sáng vươn mãi ra biển Đông. Lúc này vầng mặt trời dần dần từ biển nhô lên, tựa như một cái mâm đồng màu đỏ tía. Trong làn gió lạnh buổi sáng, Lý Trị tỉnh táo hơn, chàng đứng trên Sơ Dương đài, nhìn cái mâm đồng đỏ tía dần dần nhô lên cao, từ màu đỏ tía biến thành màu vàng cam, rồi lại từ màu vàng cam biến thành màu trắng chói mắt. Cúi xuống nhìn Tây Hồ, nước hồ long lanh trong vắt khắp núi rừng như nhuộm màu mặt trời!
Lý Trị hít một hơi dài, nhớ lại những lời Lữ Tứ Nương, nói với Phùng Lâm: “Chúng ta đi thăm Lữ Tứ Nương!” Phùng Lâm giả vờ không biết, hỏi: “Lữ Tứ Nương là ai?” Lý Trị nói: “Chính là người đêm qua đấu kiếm với ta”. Phùng Lâm nói: “Ta sợ đồng bọn của tỷ ấy, chính là hán tử mặt vàng đấy”. Lý Trị nói: “Người đó là Giang Nam đại hiệp Cam Phụng Trì, có gì đáng sợ? Muội cũng nên kết giao với người chính phái”. Phùng Lâm chỉ đành đi theo chàng.
Đêm qua hai người Cam, Bạch thấy Lữ Tứ Nương đi mãi mà không trở về, trong lòng lo lắng, chẳng ngủ được ngon giấc, đến canh tư, Cam Phụng Trì một mình ngồi dậy, thả bộ trong sân, mảnh trăng đầu tháng dần dần chuyển qua đầu. Lúc ấy trời trong vắt không gợn mây, chàng chợt nghe có tiếng kêu thất thanh của phụ nữ, tựa như ở trong khách sạn. Cam Phụng Trì tuy trong lòng có tâm sự nhưng cũng không khỏi chạy đến xem, khách sạn này rất lớn, có khoảng hai ba mươi gian phòng. Cam Phụng Trì nhảy lên mái nhà, nghe tiếng kêu phát ra từ căn phòng phía Đông, thế là vội vàng chạy tới, móc hai chân vào mái nhà thò đầu xuống nhìn, thế là chàng không khỏi thất kinh!
Chỉ thấy trong nhà có một ông già lưng đứng xoay ra cửa, mặt hướng về phía một thiếu phụ, lạnh lùng nói: “Ngươi kêu đi! Ngươi mà kêu nữa ta sẽ khiến cho ngươi muốn sống không được muốn chết không xong!” người phụ nữ ấy mặt tái xanh, hình như rất sợ hãi nhưng vẫn gằng giọng nói: “Ngươi đúng là mặt người dạ thú, vô tình bạc nghĩa, lừa ta đến Hàng Châu thi triển độc thủ!” ông già cười gằng nói: “Bà nhà ta không dung thứ cho ngươi, chẳng còn cách nào cả, chỉ đành mượn ngươi một vành tai mười ngón tay để chuộc tội cho ta. Ta vẫn còn nhớ đến ân nghĩa trước kia, ngươi hãy tự ra tay đi, ta có linh đơn cho ngươi cầm đau!” thiếu phụ run rẩy không ngừng, lão già rút soạt thanh đao ra.
Cam Phụng Trì nhận ra giọng nói của lão già rất quen tai, thấy lão ta rút đao thì đột nhiên kêu: “Hàn Trọng Sơn ngươi làm gì thế?” rồi phóng một mũi phi đao vào cửa sổ!
Hàn Trọng Sơn võ công cực cao, chỉ vì mãi chú ý người thiếu phụ nên không nghe hơi thở. Lúc này y trở tay hất được mũi phi đao. Cam Phụng Trì gầm một tiếng, nhảy tọt vào bên trong! Hàn Trọng Sơn thuận tay đâm mũi trủy thủ về phía trước, Cam Phụng Trì lộn người, đánh một chiêu Phúc Vũ Phiên Vân, chặt xuống cổ tay cầm đao của Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn lật cổ tay, cây trủy thủ rơi xuống đất. Người phụ nữ trong nhà vội vàng nhảy tọt ra cửa sổ. Hàn Trọng Sơn cả giận, hai tay đẩy ra phía trước, Cam Phụng Trì cũng đẩy chưởng ra cự lại, chỉ cảm thấy một luồng đại lực dồn ra, Cam Phụng Trì bất đồ bị đẩy ra ngoài cửa, cánh cửa bật tung ra. Hàn Trọng Sơn cũng bị thần lực của Cam Phụng Trì đẩy ngã chổng vó trên giường.
Chính là:
Tám lạng nửa cân, ngang tài ngang sức.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Mộng đẹp tiêu tan cấm cung sầu vĩnh biệt 
Trời Nam đất Bắc sa trường vui tương phùng

Hàn Trọng Sơn cả giận, vung tay phát ra ám khí độc môn hồi hoàn câu, Cam Phụng Trì nói: “Vật gì thế?” thế rồi vẫy hai mũi phi đao đánh tới, hồi hoàn câu trông giống như cái thước gấp, Cam Phụng Trì ném hai mũi phi đao một trước một sau đã đánh trúng, không ngờ món ám khí kêu vù lên một tiếng, đánh rơi phi đao rồi nay ngược trở lại, Cam Phụng Trì thất kinh, thấy món ám khí bay về phía Đông, vội né sang phía Tây, nào ngờ hồi hoàn câu của Hàn Trọng Sơn rất quái dị, đột nhiên đổi hướng giữa đường, bay như điện chớp về phía đỉnh đầu của Cam Phụng Trì, mũi câu sáng loáng móc xuống cổ của Cam Phụng Trì, Cam Phụng Trì né tránh không kịp, vung tay phẫy một cái, mũi câu móc vào bàn tay của chàng, Cam Phụng Trì vận nội công thượng thừa, hít lòng bàn tay vào, cơ bắp thu lại, mũi câu móc vào bàn tay tựa như đâm vào đống bông, lực bay tiêu biến. Cam Phụng Trì khép năm ngón tay bẻ gãy hồi hoàn câu làm hai đoạn.
Hồi hoàn câu là ám khí giúp Hàn Trọng Sơn thành danh, nay đã bị Cam Phụng Trì chụp được, Hàn Trọng Sơn không khỏi cả giận, tự trong phòng nhảy vọt ra, hai chưởng đẩy ra, Cam Phụng Trì lách người, đánh ra một chiêu Bính Đao Thắng Tiễn, hai ngón tay kẹp vào hổ khẩu của Hàn Trọng Sơn, Hàn Trọng Sơn trở tay đẩy một cái, trầm chỏ xuống thúc ra, hai người vừa phân đã hợp, đều nhảy xuống sân của khách sạn.
Khi đáp xuống đất, Hàn Trọng Sơn đã rút ra tị vân trợ, vốn Hàn Trọng Sơn dùng cây trợ này hái thuốc, tuy dài chỉ có ba thước nhưng được luyện bằng tinh kim, bổ xuống một trợ, kình phong quét tới, trong đêm tối trông rất uy mãnh!
Cam Phụng Trì không hề lo sợ, thi triển chưởng pháp hùng hậu. Đang lúc hăng say, Hàn Trọng Sơn chợt hú lên một tiếng quái dị, ở phía Tây lại có một người nhảy ra, Cam Phụng Trì đang đánh tới chiêu Khoa Hổ Tiến Chưởng, tay trái đẩy vào cây tị vân trợ, chưởng phải vỗ vào ngực của kẻ địch, người ấy đột nhiên xen vào, vận chưởng dẫn một cái, hóa giải chưởng lực của Cam Phụng Trì. Hàn Trọng Sơn bổ cây trợ xuống nhưng lại thu ngược về. Cam Phụng Trì vừa nhìn thì nhận ra người ấy chính là Đổng Cự Xuyên. Cam Phụng Trì thầm kêu khổ, Hàn Trọng Sơn đã khó đối phó, thế mà lại chui ra thêm một cao thủ nữa.
Hàn Trọng Sơn kêu: “Đổng huynh, huynh chặn hậu lộ của y, đừng để y chạy thoát”. Đổng Cự Xuyên mỉm cười lui xuống, trong tay cầm ba mảnh Thấu Cốt đinh, nhìn vào đấu trường không chớp mắt. Cam Phụng Trì và Hàn Trọng Sơn ác đấu một hồi, người trong khách sạn đều giật mình tỉnh dậy. Bạch Thái Quan chạy sang phòng bên, nói với Ngư Nương: “Muội trông chừng Xa lão bá, đừng tự tiện ra ngoài”. Rồi chàng chạy ra ngoài, Đổng Cự Xuyên vừa thấy đã cười nói: “Ồ, té ra là Bạch Thái Quan nhà ngươi! Nhạc phụ của ngươi đang giận ngươi lắm đấy!” Bạch Thái Quan tức giận nói: “Nói càn!” Đổng Cự Xuyên vung tay, ba mảnh Thấu Cốt đinh xé gió bay tới, Bạch Thái Quan vội rút đao chém rơi một mảnh, tay phải phất lên kẹp mảnh thứ hai trong tay, rồi lại búng lên trên, đánh rơi tiếp mảnh thứ ba.
Trong số các đồng môn, võ công của Bạch Thái Quan xếp hàng thứ tư nhưng công phu ám khí của chàng cũng thuộc hàng số một số hai, nên thủ pháp tiếp ám khí cũng rất thuần thục, Đổng Cự Xuyên thầm nhủ: “Sao Bạch Thái Quan lại lợi hại như thế”. Y không dám coi thường, thế là vọt đến mấy trượng, hai chưởng đẩy ra, sử dụng tuyệt chiêu của phái Hình Ý.
Bạch Thái Quan chém ngang một đeo, Đổng Cự Xuyên đột nhiên lật chưởng phải, chưởng phong phát ra, bổ vào be sườn phải của Bạch Thái Quan, Bạch Thái Quan chém ra hai đao nhưng đều hụt cả, chàng lách trái né phải, Cam Phụng Trì thấy thế thất kinh, chưởng pháp hơi chậm lại, suýt nữa đã bị tị vân trợ bổ trúng. Đổng Cự Xuyên múa chưởng nhưng gió, trong nhu có cương, toan đoạt binh khí của Bạch Thái Quan, Bạch Thái Quan xoay cả người lẫn đao, đột nhiên đánh một chiêu Bình Sa Lạc Nhạn, toan tìm thắng trong bại. Nào ngờ chưởng pháp của Đổng Cự Xuyên là tinh túy của Hình Ý môn, như hư như thực, hai tay phân ra, chưởng trái bạt vào chui đao, quát: “Trúng!” Bạch Thái Quan ngã lăn xuống đất, Đổng Cự Xuyên cả mừng toan bước tới, Bạch Thái Quan vung tay trái chợt quát: “Có đến mà không đi không phải lễ! Xem châm!” lập tức một mảng ngân quang loang loáng bay tới. Đổng Cự Xuyên thất kinh, nhảy vọt hơn một trượng, vội vàng phất ống tay áo, tuy quét được mảng Mai Hoa châm nhưng cũng luống cuống chân tay.
Đổng Cự Xuyên hạ người xuống đất, vung chưởng tấn công tiếp, thân pháp thay đổi, chỉ thấy người của y cứ xoay mòng mòng bên cạnh Bạch Thái Quan, khiến Bạch Thái Quan chẳng biết đề phòng ở nơi nào cũng chẳng rút ám khí ra được. Khi nắm chắc phần thắng trong tay, người có công lực cao hơn thường dùng công phu du đấu để đối phó với người yếu hơn, may ở chỗ Bạch Thái Quan tuy võ công tương đối kém hơn nhưng vẫn không cách quá xa, bởi vậy chàng có thể gắng gượng chống cự nổi. Lại đánh nhau thêm một hồi nữa, chưởng pháp của Đổng Cự Xuyên càng gấp hơn, phiêu hốt như gió! Đao quang của Bạch Thái Quan loang loáng, chẳng chạm vào được kẻ địch, chỉ đành che kín môn hộ. Nhưng dù như thế vẫn cảm thấy hai chưởng của kẻ địch như con thần long đánh loạn trước mắt mình.
Phía bên kia Cam Phụng Trì và Hàn Trọng Sơn đánh ngang tay, nhưng vì Cam Phụng Trì lo cho sự an nguy của Bạch Thái Quan, không khỏi bị ảnh hưởng, một trăm lẻ tám đường tị vân trợ pháp của Hàn Trọng Sơn biến hóa vô cùng, thấy Cam Phụng Trì hơi chậm tay thì liên tục đánh đòn sát thủ, trong lúc gấp gáp, Cam Phụng Trì hú lớn một tiếng, vỗ vù ra một chưởng bạt cái tị vân trợ ra, phóng vọt ra hơn một trượng, đột nhiên quát: “Xem tiêu!” Hàn Trọng Sơn giơ ngang trợ gạt qua, Cam Phụng Trì đã phóng ra ba mũi hưởng tiễn, một mũi phát ra tiếng dài, hai mũi phát ra tiếng ngắn, ba mũi hưởng tiễn bay vút lên trời cao kêu lên u u nghe rất chối tai. Hàn Trọng Sơn thấy Cam Phụng Trì không phóng hướng tiễn về phía mình, nói: “Ngươi làm trò quái gì thế?” y tưởng rằng ám khí của chàng quái dị nên giơ ngang trợ phòng bị, không dám lơi lỏng. Cam Phụng Trì lại như bổ về phía Đổng Cự Xuyên, đánh ra một chiêu Kim Long Thám Trảo chụp vào hậu tâm của Đổng Cự Xuyên. Đổng Cự Xuyên trở tay vỗ lại một chưởng, nhưng làm sao có thể chống nổi thần lực của Cam Phụng Trì, thế là bị đẩy ra hơn một trượng, suýt nữa đã ngã xuống. Hàn Trọng Sơn cả giận phóng vọt lên, y vung tị vân trợ chặn Cam Phụng Trì lại.
Đổng Cự Xuyên trúng một chưởng, lúc đầu chưa thấy gì, nhưng sau đó xương cốt đau nhói. Cam Phụng Trì đã dồn âm lực vào chưởng này, dù Đổng Cự Xuyên là cao thủ, trúng một chưởng cũng hao tổn nguyên khí. Y lại du đấu với Bạch Thái Quan, thân pháp không còn linh hoạt như trước nữa. Thế là Bạch Thái Quan tuy vẫn lọt xuống thế hạ phong nhưng không còn vất vả nhưng trước.
Trận ác chiến kéo dài đến một canh giờ, người trong khách sạn đều bị đánh thức, có vài người lớn gan thò đầu nhìn ra cửa sổ. Chủ khách sạn hoảng hồn, không dám đến khuyên ngăn. Có người kêu: “Mau báo quan!” Cam Phụng Trì vừa nghe thầm kêu không xong. Chàng đánh vội ra mấy chiêu, lấy tiến làm lui, Hàn Trọng Sơn đã hiểu dụng ý của chàng, lạnh lùng quát: “Hừ, còn muốn chạy!” cây tị vân trợ múa tít, một bước cũng không lui. Phía bên Bạch Thái Quan tuy còn có thể cầm cự nổi nhưng không thoát nổi phạm vi chưởng lực của Đổng Cự Xuyên.
Trên Cát Lĩnh, Lữ Tứ Nương nghe hưởng tiễn của đồng môn, vội vàng quay về. Khách sạn này được xây dưới chân núi, lưng dựa vào núi mặt hướng ra hồ, trên đường trở về Lữ Tứ Nương chợt thấy một thớt ngựa phóng tới chạy thẳng vào thành. Lữ Tứ Nương rùng mình, điểm mũi chân lướt lên lưng ngựa, vung tay tóm lấy người ấy kéo xuống. Thớt ngựa hí vang, chạy sang một bên. Lữ Tứ Nương nói: “Ai thế?” người ấy nói: “Ngươi có phải là Lý tướng công ở trong tiểu điểm hay không?” Lữ Tứ Nương nhận ra đó là người chăm sóc ngựa trong khách sạn người ấy nói: “Trong khách sạn có cường đạo đến cướp, đang đánh nhau với bằng hữu của tướng công, xin tướng công buông tôi ra”. Tên tiểu nhị trông ngựa này thật bạo dạn, Lữ Tứ Nương nói: “Được, ngươi đi báo quan, ta trở về giúp các ngươi bắt kẻ trộm”. Rồi nàng cúi xuống nhặt một viên sỏi nhỏ vung tay lên, ném bị thương chân ngựa. Con ngựa này đúng là ngựa tốt, nó hí vang một tràng, chạy không xa thì ngừng lại, vẫn đợi chủ nhân. Tên tiểu nhị trông ngựa không biết Lữ Tứ Nương là người tốt hay kẻ xấu, thấy nàng chịu thả mình thì vội vàng phóng lên lưng ngựa. Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan đang căng thẳng, Bạch Thái Quan càng lúc càng nguy, Đổng Cự Xuyên tiến dần tới từng bước, Bạch Thái Quan chợt kêu: “Bát muội!” Đổng Cự Xuyên nói: “Có kêu trời cũng vô dụng!” nói chưa dứt, chợt thấy một luồng bạch quang lóe lên, Lữ Tứ Nương cả người lẫn kiếm lao bổ đến trước mặt như cơn gió lốc, Đổng Cự Xuyên cả kinh lách người qua, vỗ một chưởng vào vai của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương rất nhanh nhạy, nàng lật cổ tay đánh ra một chiêu Thần Long Điêu Thủ, cây bảo kiếm chém vèo qua, dù Đổng Cự Xuyên là một cao thủ nhưng khi thu mình né tránh, ống tay áo cũng bị đứt một mảnh. Đổng Cự Xuyên kêu: “Nguy rồi!” Đổng Cự Xuyên khom eo, một mũi hỏa diệm tiễn đột nhiên bắn ra, đó là một trong những ám khí cứu mạng của y, Lữ Tứ Nương gạt ngang thanh kiếm, chợt nghe nổ bình một tiếng, Lữ Tứ Nương giật mình nhảy vọt ra mấy bước, may mà không bị cháy. Hàn Trọng Sơn thấy Lữ Tứ Nương đến, nào dám ham đánh, vội vàng phóng người lên mái nhà, cùng Đổng Cự Xuyên bỏ chạy. Cam Phụng Trì nói: “Chỗ này không thể ở lâu”. Rồi vội vàng ném cho lão chủ khách sạn hai lượng bạc.
Ngư Nương đang nóng lòng chờ đợi, không lâu sau bọn Bạch Thái Quan vào phòng. Ngư Nương nói: “Thế nào? Cam đại hiệp gặp ai thế?” Bạch Thái Quan nói: “Đừng hỏi nhiều, mau thu dọn, chúng ta đi ngay thôi!” Cam Phụng Trì nói: “Xa lão bá!” Xa Đỉnh Phong nghiêng người rồi chợt ngồi dậy.
Lữ Bảo Trung nói: “Xa lão bá, người có sao không?” Xa Đỉnh Phong nói: “Thiếu nữ ấy ra tay thật hiểm độc, may mà được hai vị tương cứu”. Cam Phụng Trì nói: “Ngũ ca, huynh hãy cõng Xa lão bá, tôi và bát muội đoạn hậu”. Xa Đỉnh Phong nói: “Học trò của Thọ Sương thư viện đều là những thiếu niên ôm lòng cứu quốc, nếu Cam đại hiệp không có chỗ nào dừng chân, chi bằng đến đấy tạm lánh mặt”. Cam Phụng Trì nói: “Thật là tốt”. Lữ Tứ Nương chợt nói: “Thất ca, muội lại đến phủ nha một chuyến”. Bạch Thái Quan nói: “Sao muội không đi cùng?” Lữ Tứ Nương nói: “Người trong khách sạn đã báo quan, Liễu Ân chắc chắn đích thân đến đây”. Cam Phụng Trì nói: “Huynh đã biết dụng ý của bát muội. Đó là kế điệu hổ ly sơn. Liễu Ân đến bắt chúng ta, còn chúng ta đi cứu Lộ sư huynh”. Ngư Nương nói: “Lữ tỷ tỷ, kế này tuy hay nhưng tỷ đã mệt suốt đêm, cũng nên nghỉ ngơi”. Lữ Tứ Nương cười nói: “Không sao”. Rồi ăn vội mấy miếng lương khô, uống một ly nước, xong xuôi thi triển khinh công tuyệt đỉnh phóng lên mái nhà.
Lý Trị và Phùng Lâm xuống Cát Lĩnh, Phùng Lâm thấp thỏm lo âu, Lý Trị nói: “Anh muội, Cam đại hiệp biết muội là đứa trẻ, chắc là không trách muội”. Hai người đi một hồi đã đến gần khách sạn, chợt thấy một toán quan binh chạy bên ngoài, Phùng Lâm nói: “Không xong, chúng ta mau chạy”. Trong khách sạn chợt có một nhà sư nhảy ra, đó chính là Liễu Ân.
Liễu Ân vừa thấy Phùng Lâm, cả giận quát: “Hừ! Chạy đi đâu cho thoát?” rồi phóng tới đuổi theo, Phùng Lâm nói: “Lý ca ca, huynh chặn y một hồi, muội dùng ám khí giúp huynh”. Khinh công của Liễu Ân tuy không bằng Lữ Tứ Nương nhưng lại cao minh hơn Phùng Lâm rất nhiều, chỉ thoáng chốc đã đuổi theo tới sau lưng, y vung bàn tay to bè chụp xuống đầu nàng. Chợt ánh hàn quang lóe lên, Lý Trị đã đâm soạt đến một kiếm, kiếm chiêu cực kỳ nhanh nhạy, Liễu Ân rụt chưởng bổ xuống, Phùng Lâm vung tay phóng ra hai mũi phi đao, Liễu Ân đưa cây thiền trượng hất lên, hai mũi phi đao đều bị y đánh bay lên không trung, rơi xuống lại mặt hồ. Phùng Lâm chạy vắt dò lên cổ, hơn mười tên bổ khoái phóng ngựa đuổi theo, Liễu Ân lách người, Lý Trị lại đâm soạt soạt hai kiếm, Liễu Ân quát: “Ngươi đã chán sống!” thế rồi đánh vù một trượng bổ xuống đỉnh đầu của Lý Trị, Lý Trị lách người, đâm mũi kiếm thẳng vào ngực của Liễu Ân, đây chính là một chiêu sát thủ trong kiếm pháp độc môn của Bạch Phát ma nữ, Liễu Ân đánh ra một trượng, môn hộ mở rộng, Lý Trị tưởng rằng có thể đắc thủ, nào ngờ cây thiền trượng của Liễu Ân lại xoay một vòng trên không trung, không cần rút trượng hộ thân, Lý Trị lại cảm thấy một luồng lực lớn dồn tới, người bất đồ thối lui hai bước, mũi kiếm cũng bị trượng phong đánh lệch qua. Liễu Ân quát lớn một tiếng, đuôi trượng vểnh lên quét ra vù vù.
Lý Trị cả kinh, không dám chống trả, chàng lộn người trong trượng phong, đột nhiên tấn công vào chỗ trống bên trái của y, Liễu Ân dựng cây thiền trượng quét ra. hai người đọ nhau ba mươi chiêu, thanh kiếm của Lý Trị đánh nhanh như điện xẹt, thế mà chẳng chạm được vào trượng của y, đang lúc đấu rất hăng, Lý Trị lại đâm thẳng vào huyệt Phong Phủ trên vai của y, Liễu Ân hướng vào kiếm thế của chàng, thân trượng đẩy về phía trước, nào ngờ kiếm pháp của Lý Trị lại ngược với lại kiếm pháp bình thường, rõ ràng là chàng đâm vào mặt trái nhưng không biết thế nào lại đổi hướng, Liễu Ân điểm vào trượng, chợt cảm thấy gió lạnh lượt tới, lưỡi kiếm đã đâm tới vai trái, Lữ Tứ Nương rùng vai trái, chưởng trái chụp về phía trước, mũi kiếm của Lý Trị đã điểm vào vai của Liễu Ân, chợt thấy mất trọng tâm đã bị Liễu Ân chụp trúng cổ tay, chẳng thể nhúc nhích được, cây trường kiếm rơi xuống đất.
Liễu Ân giở bổng Lý Trị lên, toan quăng xuống nhưng lại thu về, hỏi: “Ngươi là môn hạ của ai?” Lý Trị nói: “Ngươi muốn giết cứ ra tay, không cần phải hỏi nhiều!” Liễu Ân nghĩ bụng người này kiếm pháp quỷ dị, tựa như chẳng kém gì Lữ Tứ Nương, không nên tùy tiện giết y, nói: “Ngươi có thể tiếp hơn ba mươi chiêu của ta cũng coi như là một trang hảo hán. Tạm thời tha cho ngươi”. Thế rồi năm ngón siết lại, dùng thủ pháp Phân cân thác cốt lợi hại nhất bóp Lý Trị đến toàn thân mềm nhũn, thấy mồ hôi trên trán Lý Trị nhỏ xuống ròng ròng, mà chàng ta cũng chẳng hề rên rỉ. Liễu Ân cũng không khỏi thầm khen, bảo bọn quan sai trói chàng lại rồi ném lên lưng ngựa tiếp tục đuổi về phía trước.
Phùng Lâm chạy vắt giò lên cổ, phía sau có mười mấy thớt khoái mã đuổi theo, Phùng Lâm đợi bọn chúng đến gần, trở tay đột nhiên phóng ra hai mũi phi đao, phi đao cắm vào mắt ngựa, độc tính lập tức phát tác, hai thớt ngựa biến thành ngựa mù, hất hai tên bổ khoái xuống ngựa.
Phùng Lâm thở phào lại chạy tiếp. Tên bổ đầu lại xua người đuổi theo, khi bọn chúng đến gần, Phùng Lâm lại phóng phi đao đánh ngã hai thớt ngựa nữa. Cứ như thế mấy lần, trong túi ám khí của Phùng Lâm chỉ còn lại hai mũi phi đao, nàng cũng chẳng dám phóng ra tiếp. Bọn bổ khoái đuổi càng gấp hơn, đến một khúc quanh chợt thấy một toán quân xông ra, trên ngoạn soái kỳ cao hơn ba trượng có một chữ “Niên”. Chợt tên quân cầm cờ phóng ngựa ở phía trước thấy có một thiếu nữ chạy đến, sau lưng có bảy tám tên công sai đuổi theo rất lấy làm lạ, một tên tì tướng xông lên, chĩa cây trường mâu về phía Phùng Lâm, quát: “Đứng lại!” Phùng Lâm lớn lên trong phủ Tứ bối lạc, có quan sai nào mà chẳng gặp, bởi vậy nàng cũng chẳng hề lo lắng, chụp lấy cây trường mâu giật một cái, viên tì tướng bị nàng kéo từ trên ngựa xuống, Phùng Lâm cũng bắt chước theo giọng của y: “Đứng lại!” tên tì tướng tức giận quát: “Đứa trẻ nhà ngươi thật lớn gan, ngươi tên gì?” Phùng Lâm cũng nói: “Ngươi tên gì?”
Bảy tám tên bổ khoái đuổi tới, thấy đại quân ở trước mặt không dám làm càn. Tên bổ đầu bước tới bẩm rằng: “Bảo quốc thiền sư bảo chúng tôi đuổi bắt đứa trẻ này”. Tên lính cầm cờ nói: “Ai là Bảo quốc thiền sư?” Liễu Ân được phong làm Bảo quốc thiền sư, trong quân không hề biết. Tên bổ đầu nói: “Nghe nói đứa trẻ này là người trong phủ Tứ bối lạc, Tứ bối lạc sai Bảo quốc thiền sư đi bắt nó về”. Tên lính cầm cờ biến sắc, nói: “Té ra là thế, đợi ta một lát”. Rồi quay vào bẩm cáo.
Tên tì tướng bị Phùng Lâm trêu tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, bảo võ sĩ ùa lên bao vây, thấy Phùng Lâm nghênh ngang như thế vừa đáng yêu vừa buồn cười, Phùng Lâm vẫn còn nắm cây trường mâu, tên tì tướng giật cây trường mâu quát: “Ngươi có buông tay ra không?” Phùng Lâm cũng cười quát: “Ngươi có buông tay ra không?” rồi ngầm vận nội lực giật cây trường mâu, tên tì tướng ngã ngửa xuống đất.
Bọn binh sĩ thấy thế đều thầm cười. Tên võ quan thẹn quá hóa giận, nhảy bật lên vung quyền đánh tới. Bọn binh sĩ chợt tản ra xung quanh, một viên tướng trẻ tuổi cỡi con ngựa to lớn thong thả đi tới, quát: “Ai gây sự ở đây?” tên võ quan vội vàng ngừng tay, bẩm: “Chính là đứa trẻ này”. Phùng Lâm cũng nói: “Nhà ngươi là tướng quân sao không quản bộ hạ để y bức hiếp trẻ con?” viên tướng trẻ tuổi thấy nàng thiếu nữ mặt mày hớn hở, trông rất đáng yêu, còn viên võ quan kia mặt sưng lên quần áo lôi thôi bởi vậy vừa kinh ngạc vừa buồn cười, hỏi: “Nhà ngươi ở đâu ra thế? Tại sai lại đánh nhau với quan quân?” Phùng Lâm nói: “Ta đang đi yên ổn, thế mà y chặn ta”. Một tên quân đến báo: “Bẩm phó soái, nghe bổ khoái Hàng Châu nói, ả này là người trong phủ Tứ bối lạc”. Viên tướng trẻ tuổi hơn biến sắc, nói: “Ngươi mời đại soái ra đây”.
Phùng Lâm nói: “Ngươi mặc kệ ta là người ở đâu, ta chẳng làm gì phạm pháp, cả Hoàng đế cũng không chặn được ta”. Viên tướng trẻ tuổi nói: “Ngươi thật chua ngoa”. Ngập ngừng rồi lại nói: “Ngươi theo ai học võ nghệ?” Phùng Lâm nói: “Không nói cho ngươi biết”. Viên tướng cười nói: “Ngươi đánh vài quyền ta xem thử”. Phùng Lâm nói: “Ta không phải người mãi nghệ trên giang hồ, tại sao phải múa cho ngươi xem, có muốn thì cứ tỉ thí với nhau”. Viên tướng mỉm cười nhảy xuống ngựa, nói: “Được, ta tỉ thí với ngươi”. Phùng Lâm nói: “Ta thắng ngươi phải thả ta đi đấy”. viên tướng nói: “Được thôi, ngươi phát chiêu trước”.
Té ra đây là toán quân của Niên Canh Nghiêu, viên tướng trẻ tuổi là phó tướng của y tên gọi Nhạc Chung Kỳ. Từ sau khi Niên Canh Nghiêu theo Tứ bối lạc, lại học bốn năm binh thư, đến năm mười tám tuổi, Tứ bối lạc mới để y cầm binh, theo đại tướng Phó Định chinh phạt bộ lạc Chuẩn Cát Nhĩ lập được công lớn, được phong làm tổng binh, rồi được phong làm Đô đốc, trước sau không quá ba năm, từ một viên tì tướng đã trở thành chủ soái, có thể nói là người thăng tiến nhanh nhất trong thời Thanh. Lúc này Niên Canh Nghiêu mới hai mươi mốt tuổi. Nghe nói Nhạc Chung Kỳ là hậu duệ của Nhạc Phi, năm nay chỉ mới hai mươi hai tuổi, cũng là người do Tứ bối lạc đề bạt. Y tinh thông võ nghệ, thuộc lòng binh thư.
Nhạc Chung Kỳ đối xử với thuộc hạ rất khoan dung, còn Niên Canh Nghiêu trị quân rất nghiêm. Nên thuộc hạ trong quân đều sợ Niên Canh Nghiêu như cọp, nhưng trái lại thân thiết với Nhạc Chung Kỳ. Nhạc Chung Kỳ thấy Phùng Lâm chỉ là đứa trẻ mười ba mười bốn tuổi nhưng đã đánh ngã một tên võ quan, lại thấy nàng rất đáng yêu, nhất thời nổi hứng nên muốn trêu nàng chơi.
Phùng Lâm rất nghịch ngợm, Nhạc Chung Kỳ vừa nói “được thôi”. Nàng đã đưa chân đạp vào gối của Nhạc Chung Kỳ, Nhạc Chung Kỳ khom eo tiếp lấy, Phùng Lâm vỗ bốp bốp hai chưởng, Nhạc Chung Kỳ kêu “hay!” hai chưởng giáng thẳng xuống, chỉ vì sợ đả thương Phùng Lâm nên không dám dốc hết toàn lực, y chỉ hơi chần chừ, Phùng Lâm đã hóa chưởng thành quyền đánh ra một chiêu Lôi Tinh Cản Nguyệt đánh vào bụng dưới của y.
Nhạc Chung Kỳ cả kinh vội vàng lộn người, hai chưởng đẩy ra hóa giả thế công của nàng, thầm nhủ: “Đứa trẻ này tuổi còn nhỏ mà sao ra tay lại hiểm độc đến thế”. Bất giác thiện cảm đối với nàng giảm mất một nửa, Phùng Lâm tiến tới một bước, quyền phải thu về eo, tay trái biến thành chưởng chém vào mặt trái của đối phương, đây chính là chiêu Thản Đương Thiết Chưởng của Thiếu Lâm quyền. Nhạc Chung Kỳ gạt ngang chưởng chặn lại, nàng đã tung hai cước đá liên hoàn, chân trái đá vào huyệt Bạch Hải trên mặt gối của Nhạc Chung Kỳ, chân phải đá vào huyệt Củng Binh dưới đầu gối. Đó chính là đòn Liên Hoàn cước trong Thái Tổ quyền Bắc phái. Nhạc Chung Kỳ phải vận dụng mấy chiêu Tả Hữu Khai Cung, Thác Thiên Hoán Nhật trong Nhạc gia táng thủ mới chặn được nàng.
Phùng Lâm càng đánh càng dữ, chiêu số biến hóa vô thường phức tạp, lúc quyền lúc chưởng. Nhạc Chung Kỳ thầm lấy làm lạ, không ngờ rằng nàng tuổi còn nhỏ mà đã học được nhiều võ công kỳ dị đến thế. Phùng Lâm người lại thấp bé, nên chỉ chuyên tấn công vào hạ bàn của kẻ địch, Nhạc Chung Kỳ đành phải khom eo ứng chiến rất vất vả.
Đánh một hồi, binh sĩ xung quanh chợt yên lặng. Nhạc Chung Kỳ biết chắc chắn Niên Canh Nghiêu đã tới, thầm nhủ: “Mình đánh không lại một đứa trẻ, há chẳng phải bị y cười chê sao”. Thế là mặt nóng ran, không hề nhườnh nhịn nữa. Nhạc Chung Kỳ có môn Nhạc gia táng thủ tinh diệu tuyệt luân, Phùng Lâm tuy biết nhiều loại võ công nhưng rốt cuộc tuổi vẫn còn nhỏ sức còn yếu, hỏa hầu chưa đủ, Nhạc Chung Kỳ ra tay thực sự, Phùng Lâm dần dần lọt xuống thế hạ phong. Bộ pháp của Nhạc Chung Kỳ cứ như khỉ vượn, xuất quyền như hổ báo, đánh xong mười chiêu, Phùng Lâm chẳng thể nào tấn công tới nữa. Nhạc Chung Kỳ cười nói: “Tiểu cô nương nhà ngươi đã chịu thua chưa?” Phùng Lâm chẳng nói một lời, thối lui hai bước, đột nhiên trở tay phất lại, hai luồng ô kim bay xẹt ra. Nhạc Chung Kỳ hoảng hồn, biết ám khí chắc chắn có độc, thế là lách người vung tay búng một cái lên chui phi đao, cây phi đao thứ nhất rơi xuống đất. Mũi thứ hai bay đến rất nhanh, Nhạc Chung Kỳ không dám búng tiếp, cũng không dám hớt lấy, chỉ đành rùng vai lách qua, mũi phi đao lướt qua đầu, chỉ nghe Niên Canh Nghiêu quát: “Dừng!” Nhạc Chung Kỳ buông tay thối lui, tiếng quát này tựa như có uy nghiêm vô hạn, Phùng Lâm nghịch ngợm đến thế mà cũng giật mình ngừng tay.
Niên Canh Nghiêu cầm mũi phi đao trong tay, nhìn qua ngó lại, trầm ngâm chẳng nói. Nhạc Chung Kỳ bước tới nói: “Phi đao này có độc, đại soái hãy cẩn thận”. Niên Canh Nghiêu chỉ nói hai chữ: “Không sao”. Nhạc Chung Kỳ nói: “Đứa trẻ này thật lạ, có lẽ đúng là người trong phủ Tứ bối lạc”. Niên Canh Nghiêu kêu ừ một tiếng, mặt biến sắc, không nói ra lời. Nhạc Chung Kỳ rất lấy làm lạ. Y làm việc với Niên Canh Nghiêu đã được ba năm, chưa bao giờ thấy Niên Canh Nghiêu tỏ vẻ thất sắc như thế. Nhạc Chung Kỳ thầm nhủ: “Dù đứa trẻ này là người của Tứ bối lạc, đại soái cũng không sợ như thế, sao lại cứ trầm ngâm suy nghĩ”.
Nhạc Chung Kỳ không biết rằng, Niên Canh Nghiêu và Phùng Lâm từ nhỏ đã ở bên nhau, Niên Canh Nghiêu lớn hơn nàng bảy tuổi, lúc nhỏ thường bế nàng, tình như huynh muội. Từ sau khi Chung Vạn Đường qua đời bởi độc trảo của Tát Thiên Thích, Phùng Lâm bị Song ma bắt đi, giấu trong phủ Tứ bối lạc, thế là hai người chẳng gặp nhau nữa. Niên Canh Nghiêu chỉ nghe Liễu Ân nói Tứ bối lạc cũng rất yêu mến Phùng Lâm. Tứ bối lạc đã lấy thuốc trong đại nội pha vào trà cho nàng uống vì thế nàng đã quên hết tất cả mọi chuyện lúc trước.
Lúc đó Niên Canh Nghiêu cũng không hề để ý, thầm nhủ: “Ả nha đầu này thông minh xảo quyệt, để ả quên chuyện xưa cũng tốt”. Bảy năm trôi qua, Niên Canh Nghiêu dần dần trở nên người lớn, gần một hai năm nay, cũng có người mai mối cho y. Vì thế Niên Canh Nghiêu nhớ đến Phùng Lâm, không biết nàng ta đã như thế nào, nghĩ bụng nàng ta đã mất hết trí nhớ, thấy mình chắc cũng không nhận ra, mỗi lần nghĩ đến đó trong lòng thấy nôn nao.
Lúc nãy Niên Canh Nghiêu nghe đến báo có một thiếu nữ gây sự bên ngoài, y chột dạ bước ra xem. Thấy Phùng Lâm đánh với Nhạc Chung Kỳ đến khó phân thắng bại, trong lòng thầm thất kinh, nghĩ bụng thiếu nữ này quá nửa là nàng ta. Đến khi chụp được cây phi đao mới càng đoán chắc hơn.
Phùng Lâm gặp Niên Canh Nghiêu, tâm hồn nhỏ bé cũng nhói lên, thầm nhủ không biết đã gặp qua người này ở đâu nhưng nàng chẳng thể nhớ ra nổi. Niên Canh Nghiêu nói: “Tiểu cô nương, đến đây, ta có chuyện muốn hỏi”. Phùng Lâm chớp mắt nói: “Được, ngươi cứ hỏi”.
Niên Canh Nghiêu bảo bọn tham tướng gọi nàng lên xe ngựa của mình, chợt dặn Nhạc Chung Kỳ: “Bắt toàn bộ bổ khoái Hàng Châu lại, truyền lệnh không được để lộ chuyện này”. Nhạc Chung Kỳ rất lấy làm lạ nhưng cũng chỉ làm theo chứ không dám hỏi.
Niên Canh Nghiêu nhảy lên xe ngựa, bảo Phùng Lâm ngồi bên cạnh mình, nhìn kỹ nàng, thấy trên khuôn mặt bầu bĩnh của nàng có lún đồng tiền, hỏi rằng: “Ngươi nói thực cho ta nghe, có phải ngươi là người trong phủ Tứ bối lạc không?” Phùng Lâm nói: “Phải thì thế nào?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đang ở yên ổn sao ngươi lại chạy ra?” Phùng Lâm đỏ mặt, nói: “Không nói cho ngươi biết”. Niên Canh Nghiêu nói: “Tứ bối lạc sai Bảo quốc thiền sư bắt ngươi trở về, ngươi có biết không?” Phùng Lâm nói: “Ta không về”. Niên Canh Nghiêu nói: “Tại sao không về?” Phùng Lâm giận dỗi nói: “Không về thì không về chứ sao, hỏi mãi thế?” Niên Canh Nghiêu nói: “Tứ bối lạc có đối xử tốt với ngươi không?” Phùng Lâm nói: “Ồ, tốt...” nàng chợt rưng tưng nước mắt nói: “Ngươi là tướng quân gì, tại sao hỏi ta?” Niên Canh Nghiêu ngẩn người, tiếp theo đó giật mình, thầm nhủ nếu nàng trở về nói với Dận Trinh là mình đã tra vấn nàng thì Dận Trinh sẽ nghi ngờ, bèn nói: “Ta khuyên ngươi trở về thì hơn”. Phùng Lâm nói: “Hừ, té ra ngươi cũng là kẻ xấu!” Niên Canh Nghiêu ngạc nhiên nói: “Ta xấu thế nào?” Phùng Lâm nói: “Ngươi cầm binh bên ngoài tự do tự tại, lại khuyên ta trở về cái nơi buồn tẻ ấy”.
Niên Canh Nghiêu nói: “Ồ, té ra ngươi vẫn ham vui như thế”. Phùng Lâm mở to mắt hỏi: “Làm sao ngươi biết ta ham vui?” Niên Canh Nghiêu lại giật mình, gượng cười: “Trong bộ dạng ngươi như thế đã biết ngươi ham vui! Ngươi ham vui cũng không sao, chỉ cần ngươi không bỏ trốn, Tứ bối lạc cũng cho phép ngươi ra ngoài rong chơi, kinh thành Bắc Kinh to lớn như thế mà vẫn không đủ cho ngươi chơi hay sao?” Phùng Lâm tức giận nói: “Ngươi đúng là người xấu!” Niên Canh Nghiêu nhíu mày nói: “Tại sao ta là người xấu?” Phùng Lâm trả lời: “Tại sao ngươi cứ buộc ta trở về phủ Tứ bối lạc?” Niên Canh Nghiêu nói: “Khuyên ngươi trở về hướng phước mà là xấu ư?” Phùng Lâm nói: “Vậy không xấu là gì? Ta chết cũng không quay về!”
Niên Canh Nghiêu giật mình, Phùng Lâm nói kiên quyết như thế, chắc là có ẩn tình, liền nói: “Được, ta không khuyên ngươi nữa, ngươi cứ ở trong xe này, đừng chạy bừa”. Phùng Lâm nói: “Được, vậy Bảo quốc thiền sư mà đến, ngươi cũng đừng nói cho y biết”. Niên Canh Nghiêu không đáp vạch rèm xe, quát bảo: “Chém hết bọn bổ khoái Hàng Châu cho ta!” bọn lính thất kinh, Niên Canh Nghiêu phẫy tay: “Đi đi! Truyền quân lệnh không được để lộ chuyện này!” Niên Canh Nghiêu trị quân rất nghiêm, hễ không bằng lòng thì giết ngay, bọn lính thân cận đã thấy quen. Nhưng không ngờ y giết cả bổ khoái Hàng Châu, một lát sau bảy tám tên bổ khoái đều đầu một nơi thân một ngã. Nhạc Chung Kỳ muốn khuyên cũng không kịp nữa. Niên Canh Nghiêu sai hỏa thiêu những cái xác ấy, vãi tro xuống sông.
Hủy xác diệt tích xong, Niên Canh Nghiêu hạ lệnh đưa quân vào Hàng Châu. Đi một hồi, quân cầm cờ báo: “Có một hòa thượng cầm cây trượng to như miệng bát, mặt mũi hung hăng tự xưng Bảo quốc thiền sư, nói là bằng hữu của đại soái muốn đến cầu kiến”. Niên Canh Nghiêu nói: “Được, để ta đích thân tiếp y”.
Sau khi bắt được Lý Trị, Liễu Ân dùng thủ pháp Phân cân thác cốt đả thương các khớp của Lý Trị, khiến chàng trong vòng mười hai canh giờ không thể hồi phục lại, sau đó lại trao chàng cho vệ sĩ của phủ nha là Vương Phấn và Hàn Chấn Sinh còn mình tiếp tục phóng ngựa đuổi theo.
Chạy được hơn mười dặm, tới quãng đồng vắng có hai tên bổ khoái chạy ra kêu lớn Bảo quốc thiền sư, Liễu Ân thấy mặt mũi chúng sưng vêu quát hỏi có chuyện gì. Hai tên bổ khoái kể lại chuyện Phùng Lâm ném phi đao, Liễu Ân cả giận nói: “Ả nha đầu này thật ngang ngạnh!”
Liễu Ân phẫy tay bảo hai tên bổ khoái trở về phủ nha trước còn mình thì đuổi theo. Chạy được hơn hai mươi dặm nữa, lại thấy hai tên bổ khoái chặn đường than thở, Liễu Ân nổi cáu lên, cứ thế đi được vài dặm lại có hai tên bổ khoái chạy ra, y gộp cả thảy đến tám người. Liễu Ân thấy quá nửa số bổ khoái đều bị Phùng Lâm đả thương, thầm nhủ: “Ả có cả thảy mười hai mũi phi đao, dùng tám mũi đả thương tám thớt khoái mã, bị mình đánh rơi hai mũi, trên người ả nhiều nhất chỉ còn hai mũi, cũng chỉ có thể đả thương được hai thớt ngựa nữa, xem thử bọn bổ khoái chưa bị thương làm ăn thế nào”.
Liễu Ân vỗ ngựa chạy được năm sáu dặm nữa, vẫn không thấy bọn bổ khoái bị thương, thầm lấy làm lạ. Đột nhiên thớt ngựa hí dài, tung vó loạn cào cào. Liễu Ân cả giận, kẹp hai chân vào bụng ngựa, thớt ngựa hí một tiếng rồi khụy xuống. Liễu Ân thất kinh, quát hỏi: “Ai dám ám toán?” chợt nghe tiếng chuông kêu lên leng keng, một lang trung giang hồ quẩy túi thuốc lắc chuông từ trên sườn núi bên cạnh đi xuống, hát rằng: “Thần y trại Hoa Đà, tinh thông y đạo, bất luận người ngựa, bị thương hỏi ta!” y vừa hát vừa lắc chuông.
Liễu Ân giật mình, lúc này ngựa của y đã chổng vó lên trời chết tốt.
Liễu Ân cả kinh, y tự phụ võ công tuyệt thế vô song, ngựa của mình bị người ta ám toán mà không hề biết chúng đã dùng thủ pháp gì. Chỉ thấy lang trung ấy lại hát rằng: “Bắn ngựa không bắn người, còn để lại chút tình; muốn chữa phải cho sớm, đừng qua quá giờ ngọ”. Liễu Ân mặt biến sắc, ngầm vận nội công hộ toàn thân, vẫy tay nói: “Này, đến trị cho ta!” lang trung lấy túi thuốc, chống cây gậy bước tới từng bước, Liễu Ân chợt quát lớn một tiếng, múa cây thiền trượng bổ xuống đầu.
Lang trung ấy cười lạnh: “Người xuất gia sao ngang ngược đến thế!” khi nói, cây trượng của Liễu Ân đã đánh xuống đầu, Liễu Ân thấy y không thể nào chống trả, muốn nương tay nên tạt xuống vai. Lang trung ấy chẳng hề nhúc nhích, khi cây trượng cách vai còn khoảng một thước, đột nhiên lách người, cây gậy trong tay đánh hất lên kêu keng một tiếng, lửa bắn ra tung tóe. Liễu Ân cảm thấy tay tê rần, cây thiền trượng suýt nữa đã vuột ra. lang trung cũng lảo đảo thối lui mấy bước, nói: “Đáng tiếc!”
Liễu Ân vừa lo vừa giận, nội công của kẻ này chẳng kém gì y. Thế là y vung cây thiền trượng quét một chiêu Hoành Tảo Thiên Quân vào mạng sườn của kẻ địch, lang trung tạt ngang cây gậy, quét cây thiền trượng ra. Liễu Ân sấn tới, cây thiền trượng điểm ra một chiêu Thanh Long Xuất Hải, đó là một trong những đòn sát thủ của y, cây gậy của lang trung chặn ở bên ngoài, không rút về kịp, Liễu Ân dốc hết toàn lực, liệu rằng chắc chắn sẽ trúng, nào ngờ lang trung ấy hơi nghiêng người, dùng chui gậy dẫn nhẹ một cái, cây thiền trượng của Liễu Ân đã bị đẩy ra ngoài, y vội vàng điểm về phía trước, hóa giải âm kình của kẻ địch, quát lớn: “Ngươi là ai, hãy mau báo tên, thiền trượng của Phật giá không đánh kẻ vô danh tiểu tốt!”
Lang trung cười hì hì nói: “Đại hòa thượng, ta không phải vương gia cũng chẳng phải nhà phú hộ, ngươi muốn hóa duyên chắc chắn sẽ thất vọng”. Liễu Ân nổi khùng nói: “Ai hóa duyên của ngươi!” rồi quét cây thiền trượng ra vù vù.
Liễu Ân dốc hết sức mình xuất chiêu, phóng trượng như con thần long nhe nanh múa vuốt. Nào ngờ cây gậy trong tay lang trung cũng loang loáng ánh hàn quang, hai người chẳng ai nhường ai, quần thảo được hơn năm mươi chiêu mà vẫn chẳng phân cao thấp. Trượng và gậy mỗi lần chạm nhau đều tóe lửa, cả hai người đều thấy hổ khẩu nóng ran, phải dốc hết toàn lực nắm binh khí mới không bị đối phương đánh bay.
Liễu Ân thầm thất kinh, nhủ rằng trên đời này chỉ có vài người đánh ngang tay với mình, nhưng lang trung giang hồ này tựa như chẳng kém gì mình.
Một hồi sau, lang trung ấy thay đổi chiêu số, tay trái lấy ra cái chuông đồng, Liễu Ân quét tới một trượng, lang trung tung mình vọt lên, cái chuông đồng chợt kêu leng keng trong tai, Liễu Ân quạt trượng ra, quát: “Ngươi dám bỡn cợt Phật gia!” rồi xoáy cây trượng về phía trước, lập tức bốn phương tám hướng đều có bóng của Liễu Ân, một cây thiền trượng đã hóa thành muôn ngàn bóng trượng, bao vây lang trung ấy đến nỗi gió mưa không lọt, đó là Thiên ma trượng pháp do Liễu Ân sáng tạo, chuyên dùng đối phó với những kẻ cường địch.
Lang trung ấy cười nói: “Ngươi còn có bao nhiêu bản lĩnh cứ đem ra hết đây”. Miệng tuy nói cười nhưng tay vẫn không hề chậm lại, cây gậy trong tay chặn trước quét sau, đâm ngang bổ dọc, che kín môn hộ. Trong tiếng trượng phong vù vù, tiếng chuông vẫn kêu lên leng keng không ngừng. Liễu Ân sử dụng Thiên ma trượng pháp mà vẫn không đắc thủ, tiếng chuông càng lúc càng dày, lang trung làm ra vẻ lăm lăm niệm chú tựa như người ta chiêu hồn bắt ma. Liễu Ân rối trí, Thiên ma trượng pháp dần dần thưa thớt, lang trung thừa thế phản công, chuyển khách làm chủ. Đang lúc kịch chiến, lang trung chợt cười lớn: “Đại quân đã đến, xin thứ không thể chìu theo! Khi ngươi đến Tây Thiên, ta lại sẽ gọi hồn cho ngươi!” thế rồi thu cây gậy về quay người toan bỏ chạy, Liễu Ân tức giận nói: “Chạy đi đâu?” rồi quét ra một trượng, lang trung ấy phất tay trái, cuộn ống tay áo lên, Liễu Ân thấy mắt mình hoa lên, y vội vàng rút trượng hộ thân, đến khi mở mắt ra, lang trung ấy đã chạy lên sườn núi!
Liễu Ân định thần lại, nghĩ bụng chỉ có công phu Lưu vân phi tụ của Phó Thanh Chủ phái Vô Cực là có thể dùng ống tay áo làm binh khí, lang trung giang hồ này sao lại biết tuyệt kỹ hiếm thấy như thế? Vậy y có phải là truyền nhân của Phó Thanh Chủ hay không? Nhưng truyền nhân của phái Vô Cực rõ ràng chỉ có một mình Chung Vạn Đường, nhưng thân pháp của người này lại không phải của phái Vô Cực, làm sao có thể sử dụng được tuyệt chiêu Lưu Vân Phi Tụ?
Liễu Ân điểm cây thiền trượng xuống đất mà lòng hoang mang. Đây là lần đầu tiên y bại trận từ ngày xuất đạo. Thực ra y cũng từng bại trong tay Dịch Lan Châu nhưng Dịch Lan Châu là người đồng vai phải lứa với sư phụ của y, thất bại cũng không lạ.
Liễu Ân đang suy nghĩ, chợt thấy phía trước bụi cuốn mù lên, một toán quân kéo tới. Liễu Ân thầm nhủ: “Tên lang trung này thật thính tai, đang lúc kịch chiến mà vẫn có thể nghe được tiếng hành quân trên đường”. Y chợt thấy lá soái kỳ có thêu chữ “Niên” tung bay trong gió không khỏi cả mừng, thầm nhủ: “Tên tiểu tử Niên Canh Nghiêu về nhanh như thế, chắc ả nha đầu đã bị y chặn lại”.
Niên Canh Nghiêu giấu xong Phùng Lâm, thúc ngựa ra phía trước rồi nhảy xuống cung tay, Liễu Ân cười lớn nói: “Lão đệ, đúng là ngươi, tựa như đại tướng quân trên sân khấu”. Niên Canh Nghiêu hơi bực bội nhưng vẫn cố nén, mỉm cười nói: “Bảo quốc thiền sư, tiểu đệ đang cầm quân, không thể đón tiếp đàng hoàng tử tế. Mời thiền sư đổi ngựa, chúng ta trò chuyện một lúc”. Bọn lính dắt tới một thớt ngựa khỏe Mông Cổ, Liễu Ân nhảy lên lưng ngựa, lại cười: “Lão đệ, ngươi vừa làm tướng quân đã đa lễ như thế, kẻ thô lỗ như ta không biết khách sáo. Này, ngươi có thấy ả nha đầu ấy không?”
Liễu Ân tự coi mình là trưởng bối của Niên Canh Nghiêu, làm ra vẻ nghênh ngang hống hách, Niên Canh Nghiêu rất không vui, nhưng y biết Liễu Ân là người của Tứ bối lạc, nên vẫn rất cung kính, giả vờ không biết hỏi: “Ả nha đầu nào?” Liễu Ân ngạc nhiên nói: “Ngươi không gặp ư? Còn ả nha đầu nào nữa? Chính là đứa cháu gái của Chung Vạn Đường”. Niên Canh Nghiêu nói: “Ả chẳng phải đang ở trong phủ Tứ bối lạc sao?” Liễu Ân nói: “Ồ, đúng là ngươi không gặp ả. Vậy bọn bổ khoái Hàng Châu đâu rồi?” Niên Canh Nghiêu nói: “Bổ khoái Hàng Châu nào? Bảo quốc thiền sư, tôi thật chẳng hiểu gì cả, tôi vừa mới từ Phúc Kiến về đây”.
Liễu Ân nói: “Ngươi đúng là tài giỏi, vừa mới từ Thanh Hải trở về lại đến Phúc Kiến đánh giặc, chắc là đã nhận được mật lệnh của Tứ bối lạc, sắp về kinh phải không?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đúng thế. Tôi đi ngang qua Hàng Châu, nhân tiện bắt theo một đám khâm phạm”. Liễu Ân nói: “Ngươi tuổi còn trẻ mà đánh trận thật giỏi, chả trách nào Tứ bối lạc coi trọng ngươi như thế”. Niên Canh Nghiêu mỉm cười nói: “Làm sao bằng Bảo quốc thiền sư võ công trùm đời vô song”. Liễu Ân bình thường thích nhất là người ta khen mình võ công cao cường, lần này vừa mới thất bại nghe thế trái lại lúng túng, lảng sang chuyện khác: “Tứ bối lạc có mật lệnh kêu ngươi về kinh, chả lẽ không nhắc đến chuyện ả nha đầu ấy sao?” Niên Canh Nghiêu nói: “Không có!” Liễu Ân cười rằng: “Xem ra Tứ bối lạc rất thích ả nha đầu này”. Niên Canh Nghiêu đỏ mặt tía tai, nuốt nước miếng rồi cố cười rằng: “Thế ư? Ả nha đầu vừa lanh lẹ vừa xinh xắn, ai gặp cũng mến”. Liễu Ân cười nói: “Không phải như thế. Ta thấy Tứ bối lạc có ý giữ ả, định rằng sau này nạp vào hậu cung”. Niên Canh Nghiêu gượng cười: “Hình như đại sư đã quá đa tâm?” Liễu Ân cười lớn một hồi rồi nói: “Ta hiểu rõ Tứ bối lạc hơn ngươi. Y cũng giống như ta, đều là kẻ háo sắc. Ả nha đầu tuổi tuy còn nhỏ nhưng sau này sẽ là một mỹ nhân, nếu Tứ bối lạc không có ý với ả, ta đã cướp làm của riêng! Năm nay ả cũng đã mười bốn tuổi, hai năm nữa đã là một cô nương xinh đẹp!” Niên Canh Nghiêu vừa căm tức vừa lo lắng, thầm nhủ: “Té ra là thế, chả trách nào Phùng Lâm không chịu quay về. Có điều Tứ bối lạc có ý với ả, mình làm sao giữ ả lại?”
Hai người vỗ ngựa sánh vai nhau, một lát sau Liễu Ân chợt thấy Hàn Chấn Sinh và Vương Phấn tập tễnh bước ra, y vội vàng kìm ngựa hỏi: “Làm sao thế? Phạm nhân đâu?” Vương Phấn nói: “Đã bị cường nhân cướp đi rồi!” Liễu Ân mắng: “Đồ vô dụng, hai người canh một phế nhân mà cũng không xong! Là kẻ nào lớn gan dám cướp người giữa thanh thiên bạch nhật?” Hàn Chấn Sinh nói: “Là một lang trung giang hồ, y xông bừa vào, thiếu niên vừa gặp đã kêu y là cựu cựu, chúng tôi định quát hỏi, nào ngờ thân pháp của y rất nhanh, chúng tôi nhìn chưa rõ đã bị y dựng ống tay áo phất một cái ngã lăn xuống đất. Khi mở mắt ra, phạm nhân đã biến mất”. Liễu Ân thất kinh, không dám mắng. Niên Canh Nghiêu chợt nói: “Cái gì? Dùng ống tay áo phất ngã các ngươi? Tới đây ta xem thử”. Hai người tập tễnh bước tới, Niên Canh Nghiêu bảo bọn chúng vén quần lên xem, quả nhiên thấy chân của hai người sưng đỏ. Niên Canh Nghiêu vội vàng dùng lực vặn chân bọn chúng, cả hai đều kêu ối lên một tiếng, kêu xong, cơn đau tựa như giảm mất, có thể đi lại như bình thường.
Niên Canh Nghiêu nói: “Bảo quốc thiền sư đừng mắng chúng, chúng đã gặp phải cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm!” Liễu Ân chợt nói: “Làm sao ngươi biết?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi quên lão sư phụ chết dẫm của ta là truyền nhân của phái Vô Cực hay sao? Công phu dùng ống tay áo phất huyệt này chính là chiêu số trong Lưu Vân Phi Tụ của phái Vô Cực. Nhưng công lực của người này còn cao hơn cả sư phụ của ta, đừng nói là hai tên này, dù người có võ công cao hơn bọn chúng cũng chịu không nổi một cú phất của y”. Liễu Ân ngạc nhiên, hỏi: “Sư tổ của ngươi Phó Thanh Chủ còn có truyền nhân khác sao? Chả lẽ ngoài sư phụ của ngươi phái Vô Cực còn có ai học được chân truyền của Phó Thanh Chủ?”
Niên Canh Nghiêu nói: “Sư phụ của ta là truyền nhân duy nhất của phái Vô Cực”. Liễu Ân nói: “Nếu đã thế, làm sao lại chui ra một tên lang trung giang hồ?” Niên Canh Nghiêu nói: “Y không phải là người của phái Vô Cực nhưng có liên quan đến Thái sư tổ của chúng tôi”. Liễu Ân nói: “Là ai thế?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ông có biết Võ Quỳnh Giao trong Thiên Sơn thất kiếm không?” Liễu Ân bực bội nói: “Làm sao mà không biết?” Niên Canh Nghiêu nói: “Tên lang trung giang hồ này chính là tiểu đệ của Võ Quỳnh Giao”. Liễu Ân ngạc nhiên: “Võ Quỳnh Giao còn có một tiểu đệ?” Niên Canh Nghiêu nói: “Người này tên là Võ Thành Hóa. Từ nhỏ đã đến tái ngoại, khi thất kiếm qui ẩn, y chỉ khoảng mười mấy tuổi, mấy mươi năm qua ở miền tái ngoại, không có sự tích gì lưu truyền trong võ lâm, chả trách nào đại sư không biết”. Liễu Ân nói: “Nếu đã thế, y có liên quan gì đến phái Vô Cực của các người?” Niên Canh Nghiêu nói: “Tôi cũng nghe sư phụ nói, Thái sư tổ là bằng hữu thân thiết với cha của Võ Thành Hóa, bởi vậy mới truyền tuyệt kỹ Lưu vân phi tụ cho y”. (mời xem trong bộ “Thiên Sơn Thất Kiếm”).
Liễu Ân nghe xong, thầm nhủ: “Té ra tên lang trung này lại ghê gớm đến thế, thua y nửa chiêu cũng đáng lắm”. Rồi chợt nói: “Trong số các khâm phạm Hàng Châu, có một người có liên quan đến ngươi!” Niên Canh Nghiêu nói: “Đại sư đừng nói đùa”. Liễu Ân nói: “Không phải đùa, quan hệ của ngươi với phái Thiếu Lâm như thế nào?” Niên Canh Nghiêu nói: “Một nửa võ công của tôi là do Thiếu Lâm tam lão truyền cho”. Liễu Ân nói: “Lộ Dân Đảm có một bằng hữu bằng hữu là Ấn Hoằng hòa thượng, y là đồ đệ của Bản Vô thiền sư chùa Thiếu Lâm. Lần này Lộ Dân Đảm bị bắt, nghe nói Ấn Hoằng đưa thư cho y, bị cao thủ phủ nha đuổi đến dãy Tiên Hà bắt về qui án. Chắc chắn Tuần phủ Triết Giang sẽ trao Ấn Hoằng cho ngươi áp giải bọn chúng về kinh”. Niên Canh Nghiêu cười nói: “Tôi nay đã làm đại tướng của triều đình, chỉ biết chấp pháp chứ không nương tay. Tuy tôi có quen biết Ấn Hoằng hòa thượng nhưng cũng phải áp giải y về kinh”. Liễu Ân hòa thượng cả cười nói: “Chấp pháp cái quái gì! Tiểu Niên, ta cười đến vỡ bụng mất. Vương pháp là cái quái gì, ta biết ngươi cũng biết, trước mặt ta cần chi phải nói những lời như thế. Thật ra Ấn Hoằng hòa thượng có đưa thư cho Lộ Dân Đảm hay không đến giờ vẫn không có chứng cứ”. Lần này Liễu Ân nói thật tình.
Hai người vừa đi vừa trò chuyện, đến trưa đã vào đến Hàng Châu, chỉ thấy trong thành cứ cách mười bước lại có một trạm gác, Liễu Ân ngạc nhiên nói: “Sao căng thẳng như thế?” đến khi nhận được tin báo, Tuần phủ Triết Giang Lý Vệ hớt hải chạy ra nghênh đón!
Đó là bởi vì Lữ Tứ Nương đại náo phủ nha. Lữ Tứ Nương giúp hai người Cam, Bạch đánh lùi Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên, đoán rằng Liễu Ân chắc chắn sẽ chạy ra truy đuổi, trong phủ nha thiếu cao thủ, bởi vậy thừa cơ cứu người, vì thế thi triển khinh công tuyệt đỉnh, trong đêm tối đến phủ nha. Đến Hàng Châu, gà vừa mới gáy sáng, bọn lính đổi phiên trực.
Lữ Tứ Nương hiểu rõ đường lối trong phủ nha, lại biết Lộ Dân Đảm bị nhốt ở đâu bởi vậy cứ đi thẳng tới. Nàng phóng lên mái nhà giở ngói nhìn xuống, chợt nghe có một thiếu nữ kêu: “Lữ Tứ Nương...” Lữ Tứ Nương thất kinh, tưởng rằng bị phát hiện, chỉ nghe thiếu nữ nói: “Lữ Tứ Nương không hổ là nữ trung hào kiệt, chỉ tiếc ta không thể học được như nàng”. Cánh cửa ngầm ở góc tường chợt bật ra, Lý Minh Châu dắt Lộ Dân Đảm chậm rãi bước ra.
Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Tại sao nàng ta lại nhắc đến mình? Sao lại lớn gan dám dắt phạm nhân ra mật thất”. Chỉ nghe Lý Minh Châu lại nói: “Lữ Tứ Nương đúng là nữ trung hào kiệt, thư sinh mà nàng thích cũng là một trang tuấn kiệt”. Lữ Tứ Nương mặt nóng ran, trong lòng rất thích. Lộ Dân Đảm cười nói: “Làm sao muội biết?” Lý Minh Châu cười nói: “Trước kia y đã từng bị nhốt ở đây, cha của muội lấy lợi dụ dỗ nhưng y không hề khuất phục”. Lữ Tứ Nương nghe thế cả mừng, có thiện cảm với Lý Minh Châu.
Lộ Dân Đảm thấy nàng ngưỡng mộ Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan, mỉm cười rằng: “Thực ra muốn học theo họ cũng không khó, chúng ta cứ cùng bỏ trốn rồi tìm họ”. Lý Minh Châu mặt biến sắc, lắc đầu nói: “Không được, muội không thể rời cha mẹ”. Nàng tuy khác lúc trước nhưng cũng chưa đến mức rời bỏ gia đình, rời bỏ địa vị tiểu thư thiên kim.
Lộ Dân Đảm hình như rất thất vọng, im lặng không nói. Lý Minh Châu nói: “Huynh hãy nhân cơ hội này chạy trốn. Trước khi trời sáng lão lừa trọc Liễu Ân vẫn chưa quay về. Sư phụ của muội đang ngủ, trong nha phủ không có cao thủ, huynh hãy yên tâm mà chạy!”
Lộ Dân Đảm thất bất ngờ, trong hơn một tháng bị giam lỏng, chàng đã nhận ra tình cảm của Lý Minh Châu đối với mình, trong lòng sợ nàng sẽ đeo bám mình, nào ngờ nàng lại chịu thả cho mình đi, trong lòng cảm động nhưng trái lại thấy chần chừ. Lý Minh Châu đẩy chàng nói: “Đi mau! Đợi một lát trời sẽ sáng, muốn chạy cũng không dễ!” nói xong mắt đã đỏ ửng, Lộ Dân Đảm càng thấy lòng nao nao.
Lúc này chợt nghe tiếng cười lạnh: “Hay thật, nữ sinh hướng ngoại, ngươi muốn thả y?” Thiếu phụ áo xanh đẩy cửa vào.
Chính là:
Tuy có hồng nhan tri kỷ đấy, nhưng biết cách nào chạy trốn đây.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Quay lại  l Xem tiếp 


BigKool BigKool
Vườn Hoàng Cung - Nông Trại Online Vườn Hoàng Cung
Khu Vườn Thần Kỳ Khu Vườn Thần Kỳ
Vườn Thủy Cung Vườn Thủy Cung
goPet Online goPet Online

C-STAT