watch sexy videos at nza-vids!
doc truyen
Trang ChủTruyện
http://aff.mclick.mobi/ctxd/bigbang3g

Bá Chủ Tam Quốc

http://aff.mclick.mobi/swift-wifi/bigbang3g

Swift Wifi

http://aff.mclick.mobi/uc-in/bigbang3g

UC Browser

Giang hồ tam nữ hiệp - trang 11


Ám khí liên châu phi châm đả nữ hiệp 
Âm mưu mật kế độc thủ hại thiền sư

Lý Minh Châu kêu hoảng: “Sư phụ”, thiếu phụ áo xanh nghiêm mặt, tóm về phía Lộ Dân Đảm, quát: “Quay về!” Lữ Tứ Nương chợt hú dài từ trên mái ngói lao xuống!
Thiếu phụ áo xanh này chính là Diệp Hoành Ba vợ của Hàn Trọng Sơn, mụ ta cùng Hàn Trọng Sơn ở núi Côn Luân tu luyện, sau đó Hàn Trọng Sơn đến Tây Vực hái thuốc, dò la tung tích của Thiên Diệp Tản Nhân, đi một lần đến mấy năm trời vẫn không về núi, Diệp Hoành Ba xuống núi dò hỏi mới biết y tằng tịu với một nữ tặc vùng Tây bắc là Hồng Cẩm Nương, Diệp Hoành Ba rất nổi cáu, thế là hai vợ chồng trở mặt nhau. Sau đó Hàn Trọng Sơn theo Tứ bối lạc, Diệp Hoành Ba cũng đến phủ nha, làm sư phụ của Lý Minh Châu. Diệp Hoành Ba nội công thâm hậu, hơn năm mươi tuổi mà vẫn trông như người bốn mươi. Hàn Trọng Sơn chẳng có thành ý đối với nữ phi tặc, lâu ngày sinh chán nản, không khỏi lại nhớ đến vợ mình. Vì thế y nhờ Liễu Ân hòa giải cho mình. Lúc đầu Diệp Hoành Ba kiên quyết không chịu, sau đó nghĩ đến tình phu thê, chấp nhận hòa giải nhưng đưa ra một điều kiện độc ác đó là muốn Hàn Trọng Sơn cắt một lỗ tai của Hồng Cẩm Nương, mười đầu ngón tay đem về làm vật chuộc tội. Nhưng may nhờ Cam Phụng Trì xuất hiện mới cứu được Hồng Cẩm Nương.
Lữ Tứ Nương vọt xuống, tay đã rút sẵn cây Sương Hoa kiếm. Diệp Hoành Ba nhảy lướt ngang ba bước, cũng rút thanh bảo kiếm. Lữ Tứ Nương nói: “Lộ sư huynh, chúng ta ra ngoài!” Diệp Hoành Ba cả giận quát: “Lữ Tứ Nương, ta không sợ ngươi!” rồi đâm soạt tới một kiếm! Lữ Tứ Nương chém vào cổ tay trái của mụ ta, Diệp Hoành Ba lập tức lộn người, quét ra một kiếm vào vai trái của Lữ Tứ Nương.
Lữ Tứ Nương cười nói: “Kiếm pháp của ngươi cũng khá lắm”. Rồi đột nhiên chuyển thân kiếm, chập vào thân kiếm của Diệp Hoành Ba rồi xéo một cái, kiếm của Diệp Hoành Ba suýt nữa đã vọt khỏi tay! Mụ ta thất kinh, vội vàng vận lực kìm lại, giải chiêu trả chiêu. Trong chớp mắt Lữ Tứ Nương đã tấn công ba chiêu, mụ ta chỉ có thể chống trả, Diệp Hoành Ba vẫn không hề thối lui, vừa chặn vừa kêu lớn: “Người đâu!”
Võ công của Diệp Hoành Ba chẳng kém gì chồng, Lữ Tứ Nương không muốn đánh lâu, cây Sương Hoa kiếm đánh ra soạt soạt mấy chiêu, kêu: “Lộ sư huynh, nhảy lên mái nhà trước”. Lộ Dân Đảm vái Lý Minh Châu một cái rồi đẩy cửa sổ tung người vọt ra. Lữ Tứ Nương múa kiếm như gió, trong vòng mười chiêu đã khiến Diệp Hoành Ba hoa cả mắt, thối lui hai bước. Lữ Tứ Nương cười nói: “Tạm biệt!” rồi xoay eo nhảy tọt ra cửa sổ. Diệp Hoành Ba tức tối cầm kiếm đuổi theo, chỉ trong chớp mắt Lữ Tứ Nương đã vượt qua ba lớp nhà.
Chợt nghe Lộ Dân Đảm kêu hoảng ở phía trước! Lữ Tứ Nương phóng mình lên như tên bắn, lại băng qua một lớp nhà nữa, chỉ thấy một người đang tung chưởng đánh Lộ Dân Đảm xoay mòng mòng, còn một người kia thì cầm một cây trợ chặn đường chàng ta lại, người đó chính là Đổng Cự Xuyên và Hàn Trọng Sơn.
Số là Đổng Cự Xuyên rất xảo quyệt, y và Hàn Trọng Sơn bị ba người Cam, Lữ, Bạch hợp lực đánh lui, đoán rằng Lữ Tứ Nương chắc chắn sẽ thừa cơ cứu người bởi vậy mới cùng Hàn Trọng Sơn vội vàng chạy về.
Lữ Tứ Nương thấy Lộ Dân Đảm đang gặp nguy, người chưa vững đã liên tục phóng ám khí, hai mũi trủy thủ xé gió bay vèo ra, Hàn Trọng Sơn cũng vung tay ném ba vật sáng loáng ra, món ám khí của y tên là hàn quang phi bạt, bốn bên rất sắc bén, hai cây trủy thủ của Lữ Tứ Nương bị đánh rơi xuống, cái phi bạt ở giữa bay thẳng vào ngực nàng, Lữ Tứ Nương dùng kiếm hất lên, quét phi bạt bay lên đỉnh đầu, thuận tay lại phóng hai mũi trủy thủ về phía Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên.
Hàn Trọng Sơn phóng vọt người lên, dùng tị vân trợ đánh bay trủy thủ lên không trung, nhảy bổ tới Lữ Tứ Nương; Đổng Cự Xuyên cũng lách người tránh một cây trủy thủ nhưng hơi chậm lại, Lộ Dân Đảm đã thoát thân được. Đổng Cự Xuyên quát: “Chạy đi đâu!” rồi nhảy qua hòn giả sơn chặn lại!
Phía bên này Lữ Tứ Nương đang chặn cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn, trả lại một kiếm, nàng không muốn giằng co với y, Hàn Trọng Sơn chém ngang tới một trợ, nàng thuận thế điểm kiếm vào đầu trợ, mượn lực của Hàn Trọng Sơn bật ngược người lên rồi bổ nhào xuống Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên vội vàng tránh qua, kiếm quang của Lữ Tứ Nương lóe lên, đâm vào huyệt Phong Phủ sau lưng của y. Đổng Cự Xuyên vội vàng thu người, đột nhiên đẩy hai chưởng ra, thừa lúc Lữ Tứ Nương chưa đứng vững, đã đánh vào chỗ trống của nàng, đó là một tuyệt chiêu sát thủ của y, không ngờ kiếm của Lữ Tứ Nương thuần diệu vô cùng, biến ảo khôn lường, khi từ trên không trung đáp xuống, tựa như nàng đã đoán được y sẽ tấn công, cây Sương Hoa kiếm đột nhiên phát ra cuộn thành một vòng tròn, vừa nhanh vừa chuẩn, Đổng Cự Xuyên đẩy hai chưởng tới trước ngực, mũi kiếm của nàng đã quét thành một vòng tròn! May mà Đổng Cự Xuyên vẫn chưa đánh hết đòn, y vội vàng lộn người lăn xuống đất chứ nếu không mười ngón tay đã bị chặt đứt, dù như thế, vẫn bị Lữ Tứ Nương đạp cho một cái lăn ra ba trượng mới bò dậy nổi!
Lữ Tứ Nương kêu lên: “Lộ sư huynh, chạy mau, để muội đoạn hậu”. Tiếp theo nàng lại nói hai câu ám ngữ của bổn môn cho chàng biết Cam Phụng Trì đang ở đâu. Hàn Trọng Sơn đã chạy tới, cây tị vân trợ bổ xuống đầu, Lữ Tứ Nương khom eo, không lùi mà tiến, đâm soạt soạt hai kiếm vào huyệt Chiêu Môn của hai be sườn của y, Hàn Trọng Sơn buộc phải thối lui ba bước, đưa cây trợ chặn ngang qua. Lộ Dân Đảm đã nhảy vọt ra khỏi bức tường.
Lúc này Diệp Hoành Ba đã đuổi tới, thấy Hàn Trọng Sơn đang ác chiến với Lữ Tứ Nương, mụ ta chưng hửng, vừa mừng vừa tủi, kêu lên: “Lão quỷ, còn đến đây làm gì?” Hàn Trọng Sơn kêu: “Hảo thê tử, chuyện chúng ta lát nữa hãy tính. Giúp tôi chặn con tiện tì này lại!” lúc này Đổng Cự Xuyên cũng múa chưởng tấn công tới, buộc Lữ Tứ Nương phải chuyển công làm thủ.
Lữ Tứ Nương thầm nhủ, bản lĩnh của mình dù cao hơn nữa cũng không chặn được ba cao thủ thuộc hàng nhất lưu, thế là đánh hờ một kiếm, tay trái chợt mở ra, vạch vào mặt của Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên vội vàng hụp đầu né tránh, Lữ Tứ Nương trở tay đánh ra một kiếm đâm hờ về phía Hàn Trọng Sơn, người đã chui qua chưởng của Đổng Cự Xuyên. Diệp Hoành Ba đã chạy đến phía trước, vung kiếm chặn lại. Lữ Tứ Nương điểm mũi chân xuống đất, phóng vọt lên cao hơn một trượng, phẩy ra một đóa kiếm hoa đâm lướt về phía đầu của Diệp Hoành Ba, Diệp Hoành Ba giơ kiếm hất lên, gạt được kiếm của Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương đã lướt qua hòn non bộ đối diện, chỉ cần nàng vọt một cái nữa thì có thể phóng ra khỏi tường. Ngay lúc này, Hàn Trọng Sơn hú dài một tiếng, phóng ra năm cái phi bạt!
Lữ Tứ Nương nghe gió rít lên, nàng không dám chậm trễ, lia cây Sương Hoa kiếm lên đầu một vòng nhưng ba cái phi bạt bay cách đỉnh đầu nàng tới trên ba thước, thành kiếm không chạm trúng. Lữ Tứ Nương lấy làm lạ, nhưng tình thế cấp bách, khi năm cái phi bạt vừa lướt qua đỉnh đầu nàng, nàng đã điểm mũi chân thi triển khinh công phóng vọt về phía vách tường.
Nào ngờ nàng vừa mới vọt lên, năm cái phi bạt đột nhiên tách ra đổi hướng bay lại, một cái bay về phía đỉnh đầu nàng, một cái bay xuống hai chân của nàng; còn hai bên trái phải đều có hai cái bay tới, cái cuối cùng thì bay thẳng vào ngực nàng. Chỉ cần trúng một cái, không mất mạng cũng tàn phế.
Hàn quang phi bạt và hồi hoàn câu đều là ám khí thành danh của Hàn Trọng Sơn, y tưởng rằng Lữ Tứ Nương chẳng thể nào tránh được, bất giác cười ha hả.
Lữ Tứ Nương đang lơ lửng trên không trung, tiến chẳng được mà lui cũng không! Trong khoảnh khắc sinh tử ấy nàng đã dùng một loại tuyệt kỹ bình sinh! Chỉ thấy nàng chặn ngang kiếm qua hai bên trái phải, gạt hai cái phi bạt ra; thân kiếm xoay một cái, tay cầm ngược chui kiếm đẩy ra ngoài, cái phi bạt ở giữa cũng bị bắn ngược ra. Lúc này trên đầu và dưới chân nàng vẫn còn phi bạt, Lữ Tứ Nương đột nhiên thu người lại, hai chân co lên, hai cái phi bạt lướt vù qua! Lúc này Lữ Tứ Nương đã bật người lên vách tường!
Lữ Tứ Nương vừa thở phào nhảy xuống tường, chợt nghe phía sau có tiếng u u, nàng nghi là phi bạt nên không dám vọt về phía trước, buộc phải quét cây Sương Hoa kiếm ra sau, chỉ thấy một vật trông như cây thước gắp rơi xuống đất. Lữ Tứ Nương cười nói: “Ám khí của ngươi tuy lợi hại nhưng chẳng làm gì được ta!” chưa dứt lời, đột nhiên một luồng kình phong phả vào mặt, té ra Thiên Diệp Tản Nhân đột nhiên từ xó tối lao ra, vỗ một đòn Đại suất bi thủ, lớn giọng cười: “Tiện tì, vẫn còn có ta!”
Lữ Tứ Nương dù tài cao gan lớn, kiếm pháp cao cường cũng không khỏi lạnh mình! Công lực của Thiên Diệp Tản Nhân còn hơn cả Hàn Trọng Sơn, vả lại nàng không biết còn có cao thủ nào nữa hay không!
Thực ra Thiên Diệp Tản Nhân không phải mai phục trước mà đến tìm Hàn Trọng Sơn. Y nghe tiếng ám khí của Hàn Trọng Sơn rít trong gió nên chạy tới, vừa khéo gặp phải Lữ Tứ Nương xông ra ngoài, y biết Lữ Tứ Nương khinh công cao cường nên đã dùng Đại suất bi thủ đánh lui nàng mấy bước để đợi Hàn Trọng Sơn đến giáp trong.
Lữ Tứ Nương không dám tiếp chưởng lực của kẻ địch, quả nhiên nhảy vọt ba bước, món ám khí rơi dưới đất đột nhiên bay bổng lên lao về phía hai chân của Lữ Tứ Nương!
Đây là trái hồi hoàn câu của Hàn Trọng Sơn, Lữ Tứ Nương chưa kịp thấy bao giờ, nàng hoảng hồn nhảy lên, suýt nữa đã bị nó móc trúng! Nàng vội vàng điểm mũi kiếm xuống, bắn vọt người lên, trái hồi hoàn câu bay vù qua chân nàng, Thiên Diệp Tản Nhân đuổi tới vỗ hai chưởng, Lữ Tứ Nương nhảy nhót né tránh, cái hồi hoàn câu chạm vào vách tường bay ngoặt trở lại. Lúc này Hàn Trọng Sơn cũng đã nhảy xuống tường, lớn giọng nói: “Sư đệ, dùng chưởng lực đánh bay thanh kiếm của ả!” rồi vung tay, phóng hai cái phi bạt cuối cùng ra, lúc này y dùng thủ pháp cực kỳ thâm độc, một cái thì dùng thủ pháp phát ám khí tấn công hậu tâm của kẻ địch, một cái thì dùng thủ pháp ném xoáy, giữa hai cái phi bạt còn kẹp theo một cây thất sát châm.
Lữ Tứ Nương tránh chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân, cái hồi hoàn câu bay tới trước tiên, Lữ Tứ Nương nghe tiếng gió biết nó đã bay ba vòng sẽ mất đà, thế là nàng chém ngang cây Sương Hoa kiếm, chặt hồi hoàn câu làm hai đoạn, cái hồi hoàn câu rơi xuống đất vẫn không ngừng xoay nhưng không bay lên được nữa. Lữ Tứ Nương đứng yên giơ kiếm hộ thân, định rằng nếu phi bạt bay qua đầu thì sẽ dùng kiếm chém, nào ngờ cái phi bạt từ sau lưng bay tới được đánh bằng thủ pháp phóng ám khí bình thường, vừa nhanh vừa chuẩn, Lữ Tứ Nương chợt nghe tiếng ám khí xé gió, cái phi bạt đã đến sau lưng, nàng vội vàng trở kiếm chém ngược lại đánh rơi cái phi bạt xuống, cái phi bạt ở phía trước cũng bay ngược về nhanh như điện chớp, Lữ Tứ Nương rút kiếm hất một cái, Thiên Diệp Tản Nhân chợt quát lớn một tiếng, nhảy lên cao đến hơn một trượng, vận chân lực nội gia từ xa phát ra một chưởng, mũi kiếm của Lữ Tứ Nương bị đánh lệch qua, cái phi bạt ấy chạm vào lưỡi kiếm bay xéo xuống, Lữ Tứ Nương vọt người lên, đột nhiên thấy bụng đau nhói, cây thất sát châm đã bắn vào thịt! Hàn Trọng Sơn liên tục phóng ra ba loại ám khí kỳ môn, lại thêm chưởng lực của Thiên Diệp Tản Nhân, cuối cùng khiến Lữ Tứ Nương bị thương!
Lúc này Đổng Cự Xuyên và Diệp Hoành Ba đã đuổi tới, nhảy xuống vách tường. Lữ Tứ Nương lạnh mình, thầm nhủ: “Chả lẽ hôm nay mình mất mạng ở đây”. Nàng chợt nhớ thù người chưa báo, hận nhà khó quên, người yêu đang bận hoạn, bằng hữu đang mong chờ, chợt dũng khí tăng lên, thầm nhủ: “Mình quyết không thể chết ở đây!” nàng cố nén đau, lia cây Sương Hoa kiếm lên không trung đâm về phía mặt trái của Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp Tản Nhân thấy nàng trúng ám khí mà vẫn lợi hại như thế, cười lạnh một tiếng, hai chưởng vẫn tiếp tục đẩy ra, Lữ Tứ Nương vẫy thanh kiếm ra tay nhanh như điện chớp, mũi kiếm chợt đâm vào hai chưởng, xỉa thẳng vào huyệt Toàn Cơ trên ngực của Thiên Diệp Tản Nhân. Lúc này nếu Thiên Diệp Tản Nhân hợp hai chưởng lại, Lữ Tứ Nương khó giữ mạng mà y cũng sống không xong. Trong khoảng sát na điện chớp lửa xẹt, Thiên Diệp Tản Nhân hóp bụng thu ngực theo bản năng, tay trái chặn lấy chui kiếm của nàng, tay phải vạch vào cổ tay của nàng, đó là đòn nửa công nửa thủ, trước tiên hóa giải thế địch, Lữ Tứ Nương thừa cơ lách người, cây bảo kiếm vẫy ra đâm xuống be sườn của Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp Tản Nhân cũng buộc lách người, Lữ Tứ Nương xoay thanh kiếm, đột nhiên vẫy ra một đóa kiếm hoa thật lớn, vù một tiếng vọt qua đầu Thiên Diệp Tản Nhân. Thiên Diệp Tản Nhân cả giận, vội vàng đuổi theo, vợ chồng Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên cũng chạy theo phía sau.
Nếu luận về khinh công, Lữ Tứ Nương cao hơn Thiên Diệp Tản Nhân một bậc, song vợ chồng Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên còn cao hơn rất nhiều. Nhưng nàng đã trúng một mũi thất sát châm, bởi vậy khinh công không khỏi bị ảnh hưởng.
Lữ Tứ Nương chạy ở phía trước, bọn Thiên Diệp Tản Nhân đuổi theo sau, chỉ trong chốc lát đã chạy ra thành Hàng Châu. Bọn lính canh trong thành thấy mấy cái bóng trắng lướt qua, cả nam hay nữ cũng chẳng nhận ra chứ đừng nói là chặn lại.
Được nửa canh giờ đầu, Lữ Tứ Nương có thể gắng gượng cầm cự, giữ khoảng cách năm trượng với Thiên Diệp Tản Nhân. Còn bọn Hàn Trọng Sơn thì ở phía sau hơn mười trượng. Qua nửa canh giờ, chân của Lữ Tứ Nương càng lúc càng đau, Thiên Diệp Tản Nhân rướn sức đuổi theo tiếp, lúc này cách Lữ Tứ Nương không đầy ba trượng!
Lữ Tứ Nương nghe tiếng chạy ở sau lưng càng lúc càng gần. Nàng thầm nhủ mình đã đuối sức, xem ra khó thoát, chi bằng cứ quyết tử chiến với bọn chúng một trận. Tuy nàng biết lúc này chỉ một mình Thiên Diệp Tản Nhân thôi đã khó đối phó, nhưng thà tử chiến chứ không bị nhục, thế là nàng liều mạng bước chậm lại, trở tay chém một kiếm! Thiên Diệp Tản Nhân không ngờ nàng xuất chiêu ấy, y đang ra sức đuổi theo, suýt nữa đã bị nàng đâm xuyên ngực, thế là vội vàng xoay người tránh được kiếm ấy của nàng, hoảng đến nỗi toát mồ hôi lạnh. Lữ Tứ Nương đánh xong đòn ấy thấy có hiệu quả, trong lòng cả mừng nên cố nén cơn đau tiếp tục chạy!
Thiên Diệp Tản Nhân định thần, vẫn đuổi theo không ngừng, lại một chốc nữa, Lữ Tứ Nương lại thấy bụng đau nhói, nàng nghe tiếng chân thì biết Thiên Diệp Tản Nhân đã gần hơn, chỉ trong vòng khoảng hai trượng! Lữ Tứ Nương lại giở cách cũ, đột nhiên ngừng bước trở tay đâm một kiếm, nào ngờ Thiên Diệp Tản Nhân cũng đã đề phòng, y vận chưởng lực quát lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra, Lữ Tứ Nương vừa ngừng, chợt thấy kình phong dồn vào ngực, lúc này nàng đã sức cùng lực kiệt, bị chưởng lực đánh ngã vào bụi rậm bên đường, trong lúc nguy cấp, chợt thấy có người chụp mình lại rồi ném đi một cái, bên tai còn nghe tiếng: “A di đà Phật!” khi mở mắt ra nàng thấy mình nằm dưới đất. Người ấy ném nàng tựa như nhấc nàng lên rồi đặt nhẹ nhàng xuống đất.
Lại nói Thiên Diệp Tản Nhân tưởng rằng Lữ Tứ Nương đã bị chưởng lực của mình đánh ngã, trong lòng mừng rỡ định nhảy vào bụi rậm, chợt nghe một tiếng A di đà Phật, tựa như có người nói bên tai: “Khi đắc thủ nên buông tay, tha được cho người thì cứ tha!” mỗi câu mỗi chữ nghe rất rõ ràng! Thiên Diệp Tản Nhân giơ chưởng trái hộ trước ngực, chưởng phải chống địch, khi định thần nhìn lại chỉ thấy một nhà sư mặc tăng bào màu trắng, chân đi giày cỏ hai tai, tay cầm phất trần, trên cổ tay treo một tràng hạt, người ấy chẳng phải ai khác mà chính là Bản Vô đại sư!
Thiên Diệp Tản Nhân hít một hơi, y đã từng thấy bản lĩnh của Bản Vô đại sư trong chùa Thiếu Lâm bởi vậy chẳng dám làm hung. Bản Vô đại sư quét cây phất trần, chắp tay nói: “Tản nhân vẫn mạnh giỏi chứ!” Thiên Diệp Tản Nhân trả lại một lễ, nói: “Pháp thể của thiền sư vẫn an khang!” Bản Vô nói: “Xin đa tạ, Tản nhân là tông chủ của một phái, thế mà cũng rảnh rỗi đến Hàng Châu du sơn ngoạn thủy?” Bản Vô thiền sư biết mà vẫn hỏi, Thiên Diệp Tản Nhân đỏ mặt, ấp úng đáp chẳng ra lời, vợ chồng Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên đã chạy tới.
Ba người này chưa từng gặp Bản Vô đại sư, thấy Thiên Diệp Tản Nhân tỏ ra cung kính đối với một hòa thượng mà Lữ Tứ Nương đã đứng một bên, trong lòng không khỏi ngạc nhiên. Hàn Trọng Sơn nói: “Sao sư đệ ngừng tay?” rồi giơ cây tị vân trợ toan bổ về phía Lữ Tứ Nương. Bản Vô đại sư chợt tiến tới phía trước chặn lại, chắp tay cười nói: “Sao thí chủ cứ làm khó một thiếu nữ, xin nể mặt bần tăng, tha cho nàng đi thôi!”
Hàn Trọng Sơn nổi cáu: “Đừng nhiều chuyện!” rồi vung cây tị vân trợ bổ tới, Thiên Diệp Tản Nhân kêu lớn: “Đừng!” Bản Vô đại sư mỉm cười, quét cây phất trần chặt vào cây tị vân trợ, Hàn Trọng Sơn chợt thấy tựa như có một vật nặng ngàn cân đè xuống, Thiên Diệp Tản Nhân nói: “Sư huynh, đây chính là Bản Vô đại sư giám tự chùa Thiếu Lâm!”
Hàn Trọng Sơn thất kinh, Bản Vô buông cây phất trần, Hàn Trọng Sơn rút cây trợ về, nói: “Nữ tặc này là cháu gái của tên phản nghịch Lữ Lưu Lương, đại sư là cao tăng hữu đạo, bao che cho ả làm chi?”
Bản Vô đại sư cười lạnh nói: “Vãn thôn tiên sinh có phải là phản nghịch hay không vẫn chưa biết, nhưng hai vị là danh túc của võ lâm, tông sư của một phái, không biết đã làm việc công từ lúc nào, có công văn của quan phủ địa phương hay không?”
Lữ Tứ Nương nghỉ ngơi một hồi, khí lực đã dần dần hồi phục, nàng vung tay phóng ra ba mũi hưởng tiễn bay thẳng lên không trung, cây Sương Hoa kiếm chặn trước ngực, cười lạnh nói: “Thiên Diệp Tản Nhân, ngươi có sư huynh, ta cũng có sư huynh. Nếu ngươi muốn quần đả, bọn ta cũng sẽ có người tiếp ngươi. Nếu ngươi muốn đơn đả độc đấu, xin mời hẹn thời gian, ta chắc chắn sẽ chìu theo”. Thiên Diệp Tản Nhân nóng ran mặt, rất lúng túng. Hàn Trọng Sơn thấy Lữ Tứ Nương phóng hưởng tiễn, biết nàng đang gọi đồng môn, thầm nhủ: “Lão trọc Bản Vô này quả nhiên danh đồn không ngoa. Con tiện tì Lữ Tứ Nương tuy bị thương nhưng vẫn còn hung hăng. Bốn người bọn mình đấu với hai người bọn chúng chưa chắc nắm được phần thắng. Nếu Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan cũng kéo tới, mình chắc chắn sẽ thất bại”. Bản Vô thiền sư lại mỉm cười, nói: “Tứ Nương, trước mặt tiền bối đừng làm hung! Oan gia nên giải không nên kết, giữa các người chẳng có thù sâu hận lớn, cần gì phải hẹn ngày tỉ võ? Theo ý của lão nạp, chuyện hôm nay nên dùng lại đi thôi!” lời của Bản Vô bề ngoài tựa như trách Lữ Tứ Nương nhưng thực ra là trách huynh đệ Thiên Diệp Tản Nhân. Trong võ lâm, địa vị của Bản Vô đại sư cũng cao vời như Dịch Lan Châu, Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân đều thấp hơn ông ta nửa bậc. Vừa nói ra lời ấy, Thiên Diệp Tản Nhân đã cung tay nói: “Xin nghe theo lệnh đại sư”. Hàn Trọng Sơn nói: “Hôm nay coi như dừng lại ở đây, nhưng sau này vẫn chưa biết”. Bản Vô thiền sư cười nói: “Điều này bần tăng không quản!”
Bọn Hàn Trọng Sơn bỏ đi, Bản Vô thiền sư mới nói: “Ngươi cũng thật lớn gan, sao một mình chống lại bốn tên ma đầu ấy?” Lữ Tứ Nương nói: “Thưa chẳng qua chỉ vì bất đắc dĩ”. Rồi kể lại mọi chuyện lúc nãy. Bản Vô thiền sư thở dài: “Chùa Thiếu Lâm không may, đã dạy ra tên phản đồ Vương Tôn Nhất, khiến cho hiệp sĩ giang hồ gặp nhiều tai nạn”. Vương Tôn Nhất tức là tên của Dận Trinh, Bản Vô thiền sư đã gọi quen, tuy đã biết là Dận Trinh nhưng vẫn không thay đổi. Lữ Tứ Nương cười nói: “Dù Dận Trinh không theo quý phái, y cũng làm khó chúng tôi như thường. Điều này không liên quan đến Thiếu Lâm, đại sư đừng áy náy”. Khi họ đang nói chuyện, chợt nghe ba tiếng hưởng tiễn vang lên, Lữ Tứ Nương mừng rỡ: “Cam thất ca đã đến!”
Một hồi sau Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan quả nhiên đã kéo tới. Họ thấy Lữ Tứ Nương dáng vẻ tiều tụy thì đều thất kinh. Lại thấy Bản Vô thiền sư lại mừng. Biết Bản Vô thiền sư đã cứu Lữ Tứ Nương, hai người Cam, Bạch vội vàng cung tay tạ ơn. Sau khi hỏi han thương thế của Lữ Tứ Nương, Cam Phụng Trì nói: “Đại sư xuống núi có việc gì?” Bản Vô nói: “Tôi có một đồ đệ làm trụ trì của ở chùa Từ Ân huyện Tiêu Sơn”. Cam Phụng Trì nói: “Ồ! Có phải là Ấn Hoằng sư huynh không? Ông ta rất thân với Lộ sư huynh của chúng tôi. Mấy hôm trước chúng tôi đến Tiêu Sơn, vốn là tìm ông ta, đáng tiếc gặp phải chuyện bất ngờ nên vẫn chưa gặp mặt”. Bản Vô thiền sư nói: “May mà Cam đại hiệp không đến chứ nếu không đã uổng công”. Cam Phụng Trì nói: “Sao? Ông ta không ở Tiêu Sơn?” Bản Vô nói: “Hắn đã bị phủ nha Triết Giang bắt đi. Nghe có liên quan đến việc đưa thu cho Lộ đại hiệp”. Cam Phụng Trì kêu ối chao một tiếng, nghĩ lại trận kịch đấu mà mình đã thấy ở dãy Tiên Hà, và bức tranh còn để lại, thầm nhủ chắc người bị bắt chính là Ấn Hoằng hòa thượng, bèn nói: “Ấn Hoằng đại sư vì Lộ sư huynh của chúng tôi mà gặp nạn, nếu đại sư muốn huynh đệ chúng tôi giúp sức, xin cứ căn dặn”. Bản Vô đại sư cười nói: “Giờ thì không cần. Tôi định đến hỏi Niên Canh Nghiêu đòi người”.
Cam Phụng Trì ngạc nhiên nói: “Tại sao?” Bản Vô nói: “Nghe nói lần này Niên Canh Nghiêu áp giải khâm phạm về Bắc Kinh. Ngày mai tôi sẽ đến gặp y”. Cam Phụng Trì vội nói: “Đại sư, phải suy nghĩ kỹ mới được!” Bản Vô nói: “Cam đại hiệp có cao kiến gì?” Cam Phụng Trì nói: “Giờ đây Niên Canh Nghiêu đã là đại tướng của triều Thanh, chỉ e bất lợi đối với đại sư”. Bản Vô đại sư nói: “Từ nhỏ y được Thiếu Lâm tam lão chúng tôi thương mến, đích thân tôi truyền La Hán quyền pháp cho y, chắc là y không dám vô lễ đối với tôi”. Cam Phụng Trì nói: “Cẩn thận vẫn hơn”. Bản Vô thở dài: “Niên Canh Nghiêu là người tài hiếm có, dù y trở nên xấu xa, tôi cũng muốn đích thân xem thử y xấu đến mức nào!” Cam Phụng Trì định nói thêm, Bản Vô lại cười nói: “Hơn nữa, bần tăng tuổi tuy già nhưng binh mã của Niên Canh Nghiêu cũng chẳng vây được bần tăng!” Cam Phụng Trì không dám can nữa, chỉ bảo: “Vậy chúng tôi xin đợi tin tốt lành ở Thọ Sương thư viện”. Thế rồi họ chia tay Bản Vô đại sư.
Lý Vệ đón Niên Canh Nghiêu và Liễu Ân vào thành, Liễu Ân nghe Lộ Dân Đảm đã được Liễu Ân cứu đi, gào thét như sấm, Niên Canh Nghiêu mỉm cười, nói: “Một tên Lộ Dân Đảm có gì đáng lo? Thiên hạ đều trong tay chúng ta, dù y có chạy thoát cũng chẳng làm được trò chống gì”. Liễu Ân bớt giận, không lâu sau Hàn Trọng Sơn và Thiên Diệp Tản Nhân cũng về, báo rằng giám tự chùa Thiếu Lâm Bản Vô đại sư ra tay cứu Lữ Tứ Nương, Niên Canh Nghiêu nhíu mày, nói: “Lão già này thích lo chuyện bao đồng”.
Hôm ấy Lý Vệ giao mười tám khâm phạm cho Niên Canh Nghiêu, quả nhiên có Ấn Hoằng trong đó. Niên Canh Nghiêu cũng không lên tiếng, bảo phó soái Nhạc Chung Kỳ áp giải phạm nhân về doanh trại. Còn mình và Lý Vệ trò chuyện một hồi rồi cũng quay về.
Đêm hôm ấy y mở tiệc đãi bọn Liễu Ân. Bọn Liễu Ân đều ra vẻ kẻ cả với Niên Canh Nghiêu, thấy y đã trở thành chủ soái, vừa thích thú vừa ghen tị. Sau khi tiệc tan, Niên Canh Nghiêu trở về lều của mình, lúc này đã canh ba. Y vừa vạch rèm lên, Phùng Lâm đã nhảy ra cười nói: “Ồ, té ra ngươi cũng là tên ma men, uống đến nỗi say lúy túy thế này”. Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi biết cái quái gì, ta không uống rượu thì ngươi sẽ bị giải về phủ bối lạc”. Phùng Lâm bật cười: “Ngươi uống rượu có liên quan gì đến ta?” Niên Canh Nghiêu suỵt một tiếng nói: “Bảo quốc thiền sư đang ở đây, ta đã chuốc say bọn chúng”. Phùng Lâm đảo mắt nhìn, chợt vỗ tay cười: “Ồ, ngươi thật thông minh, ngươi chuốc say bọn chúng sau đó thả ta đi”. Rồi nàng toan bước ra. Niên Canh Nghiêu nói: “Thong thả đã!” Phùng Lâm quay người lại, nói: “Ngươi lại không muốn thả ta đi sao?” Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi tên gì? Cha mẹ của ngươi đâu?” Niên Canh Nghiêu vốn muốn thử xem nàng biết được bao nhiêu điều về thân thế của mình. Thật ra Niên Canh Nghiêu cũng chẳng biết lai lịch của nàng, chỉ biết nàng là đứa bé gái Chung Vạn Đường dắt về. Phùng Lâm chưng hửng, nhíu mày nói: “Chưa bao giờ có ai hỏi ta như thê!” Niên Canh Nghiêu nói: “Vậy thì giờ đây ta hỏi ngươi!” Phùng Lâm nói: “Ta cũng chẳng biết. Trát bá bá nói từ nhỏ ta đã mồ côi cha mẹ, ông ta nuôi ta lớn lên. Họ đều gọi ta là Lâm nhi”. Niên Canh Nghiêu nói: “Ngươi không về phủ bối lạc, vậy ngươi định đi đâu?” Phùng Lâm mỉm cười, Niên Canh Nghiêu thấy nàng trông rất đáng yêu, nói: “Ồ, ngươi thật là nghịch ngợm, ta đang hỏi đàng hoàng tử tế thế mà ngươi cứ cười”. Phùng Lâm nói: “Ngươi hỏi thật lạ, chả lẽ ngươi sợ ta cứ ở lì ở nhà ngươi hay sao?”
Niên Canh Nghiêu chột dạ, nói: “Hỏi ngươi đi đâu có điều gì là lạ? Vài năm nữa ngươi sẽ lớn phổng lên, chả lẽ cứ lang bạc mãi hay sao?” Phùng Lâm nói: “Có gì mà không tốt, ta đói thì đánh cắp, đánh cắp đồ rất dễ, lại thú vị nữa, ngươi không biết sao?” Niên Canh Nghiêu vừa bực mình vừa buồn cười: “Người của phủ Tứ bối lạc thường đi lại trên giang hồ ngươi không sợ gặp họ sao?” Phùng Lâm nói: “Ta rất tinh mắt, vừa nhìn thấy bóng bọn chúng đã bỏ chạy. Vả lại ngoại trừ Bảo quốc thiền sư, bọn chúng cũng không biết ta đã lẻn ra. Mụ già kia không biết, gặp ta cứ kéo lại hỏi ngắn hỏi dài, hỏi Tứ bối lạc phái ta đi ra có chuyện gì!” Niên Canh Nghiêu biết nàng nói đến Diệp Hoành Ba, bất giác mỉm cười. Lại mừng vì nàng chỉ nói thật với mình, liền bảo: “Giờ đây chỉ có Bảo quốc thiền sư biết, sau này làm sao đảm bảo không có thêm người biết. Tứ bối lạc không thấy ngươi trở về phủ, chắc chắn sẽ sai người bắt ngươi”. Phùng Lâm nói: “Hừ, ngươi đừng dọa ta, ta không sợ!” Niên Canh Nghiêu thấy mặt nàng tái xanh, biết nàng thực sự rất sợ, bèn nói: “Chi bằng ngươi ở lại nhà ta cho xong”. Phùng Lâm nói: “Vậy nhà ngươi có ai?” Niên Canh Nghiêu nói: “Có cha mẹ ta, có bọn hạ nhân. Nhà ta có một khu vườn rất rộng, trong vườn có hoa có chim chơi rất vui. Ngươi có thể ở trong vườn”. Phùng Lâm mỉm cười không đáp.
Niên Canh Nghiêu lấy ra một mảnh ngọc trao cho Phùng Lâm: “Cha của ta tên gọi Niên Hà Linh, sống ở huyện Trần Lưu tỉnh Hà Nam, ngươi cứ đến Trần Lưu hỏi là biết ngay, ngươi gặp cha ta, đưa mảnh ngọc này cho người, cứ bảo ta kêu ngươi đến là được. Ngươi không được nói càn với người khác, có biết chưa?” Phùng Lâm cầm mảnh ngọc, nói: “Ồ, vật này thật là ngộ nghĩnh. Ngươi lắm điều quá, ta cũng chưa chắc đến nhà của ngươi!” vốn là Niên Canh Nghiêu đang dựa dẫm Dận Trinh, không nên mạo hiểm thả người của Dận Trinh đi. Nhưng không biết thế nào mà khi nhìn thấy nét cười vô tư của Phùng Lâm y đã quên đi mọi nguy hiểm, sau khi y quyết định, trong lòng đã có đối sách, dù bại lộ cũng chẳng hề chi.
Phùng Lâm toan xoay người bước ra, Niên Canh Nghiêu nói: “Này, nha đầu ngốc, ngươi đi ra như thế sao?” rồi ném một bộ quần áo cho nàng: “Vào bên trong thay đồ”.
Khi Phùng Lâm vào trong thay đồ, Niên Canh Nghiêu đã gọi quân gác đêm đến, ra lệnh cho y âm thầm đưa Phùng Lâm ra ngoài doanh trại.
Sáng sớm hôm sau, Niên Canh Nghiêu ra ngoài tuần tra, thấy bọn Liễu Ân vẫn còn chưa tỉnh, lòng thầm cười nói: “Đúng là cái dũng của bọn thất phu”. Rồi sai người nấu canh dã rượu cho bọn chúng uống còn mình thì vào hậu đường ở trong hổ trướng, chuẩn bị đem bọn khâm phạm ra thẩm vấn. Đột nhiên một tên phó quan vào báo: “Có một hòa thượng nói quen biết với đại soái, muốn gặp ngài”. Niên Canh Nghiêu nhíu mày, phẫy tay chợt nói: “Thôi được, kêu lão vào đây, tạm thời đừng đưa nghi phạm lên!” một hồi sau, Bản Vô thiền sư cầm phất trần bước vào! Niên Canh Nghiêu vội vàng nghênh tiếp, mấy năm không gặp, thấy Bản Vô thiền sư vẫn khỏe mạnh như xưa, hai mắt sáng quắc, không lộ mà oai, nhìn Niên Canh Nghiêu chằm chằm khiến y khiếp sợ.
Niên Canh Nghiêu vội thi lễ: “Đại sư từ xa đến đây, xin thứ vãn bối không thể nghênh tiếp”. Bản Vô đại sư hừ một tiếng, hất tay trái, nói: “Không dám! Ngươi đã là đại tướng quân, nào dám để ngươi nghênh tiếp!” Niên Canh Nghiêu định khom người thi lễ, chợt thấy một luồng đại lực giở mình lên, y vừa lo sợ vừa lúng túng.
Niên Canh Nghiêu đích thân bưng chiếc ghế bọc da hổ đến ngồi cùng Bản Vô đại sư, nói: “Vãn bối được công danh như hôm nay toàn nhờ năm xưa đại sư chỉ dạy!” Bản Vô hừ một tiếng nói: “Ta có dạy ngươi điều chi?” Niên Canh Nghiêu biết ông ta rất nóng nảy nên không dám nói nhiều. Một hồi sau mới đánh trống lãng: “Mỗi ngày vãn bối đều học bộ La Hán quyền của lão thiền sư truyền dạy”. Bản Vô lạnh lùng nói: “La Hán có ích gì? La Hán quyền đâu giúp ngươi lấy được công danh?” Niên Canh Nghiêu không dám trả lời. Bản Vô đại sư thấy y có vẻ sợ sệt, cũng bớt giận hơn nói: “Chính Vương Tôn Nhất đã đem lại công danh cho ngươi!” Niên Canh Nghiêu nói: “Tứ bối lạc cũng là sư điệt của lão thiền sư”. Bản Vô tức giận nói: “Ta đâu có được sư điệt như thế!” Niên Canh Nghiêu nói: “Năm xưa Bản Không chủ trì đã viết thư chỉ rõ Tứ bối lạc vẫn là đệ tử của phái Thiếu Lâm, y tuy tôn quý nhưng vẫn không dám quên ân tình của phái Thiếu Lâm, khi tôi xuất kinh, y còn bảo nếu một ngày ngồi lên ngôi báu, sẽ đến thăm lại Thiếu Lâm”. Thật ra Dận Trinh nói rằng nếu một ngày ngồi lên ngai vua chắc chắn sẽ san bằng Thiếu Lâm! Bản Vô thiền sư chỉ cười lạnh, chợt nói: “Năm xưa ngươi chứng minh bức thư ấy là thủ bút của sư huynh ta, công lao này thật lớn!” Niên Canh Nghiêu giật mình, thầm nghĩ cách đối phó.
Bản Vô thiền sư nhìn Niên Canh Nghiêu, thầm nhủ: “Gã này quả nhiên đã thay đổi, chỉ biết công danh lợi lộc, quên cả mình là người Hán”. Nhưng giới quy của Thiếu Lâm xưa nay không màng đến triều chính, cũng không cấm môn đồ làm quan, huống chi Niên Canh Nghiêu lại không phải là môn nhân của phái Thiếu Lâm, Bản Vô chẳng quản được y. Niên Canh Nghiêu thấy Bản Vô đại sư không nói, sắc mặt tựa như đã giãn ra, lại cười bảo: “Pháp thể Vô Trú thiền sư vẫn mạnh giỏi chứ?” Bản Vô nói: “Mạnh”. Niên Canh Nghiêu nói: “Từ xưa có câu tình thầy trò như tình cha con, vãn bối tuy vô phúc không được làm môn hạ của phái Thiếu Lâm nhưng được lão thiền sư chỉ điểm, xưa nay xem người như sư phụ. Lão thiền sư từ xa đến đây, xin cho đệ tử chuẩn bị bữa tiệc chay”. Rồi truyền lệnh xuống dưới, Bản Vô chợt nói: “Khoan đã!” Niên Canh Nghiêu nói: “Đại sư có gì căn dặn?” Bản Vô nói: “Ta đến đây không phải hóa chay, ta hỏi ngươi, trong số các nghi phạm ngươi sắp giải về kinh, có đồ đệ Ấn Hoằng của ta không?” Niên Canh Nghiêu hơi chần chừ, đáp: “Có”. Bản Vô nói: “Hắn phạm tội gì?” Niên Canh Nghiêu nói: “Đưa thưa cho tên phản tặc Lộ Dân Đảm”. Bản Vô nói: “Có chứng cứ không?” Niên Canh Nghiêu nói: “Vẫn chưa tìm ra”. Bản Vô nói: “Vậy mong đại tướng quân cho tôi bảo lãnh hắn”. Niên Canh Nghiêu vội nói: “Đại sư đã nặng lời!” Bản Vô nói: “Đừng nói nhiều lời khách sáo! Ngươi cứ nói cho hay không là được”. Niên Canh Nghiêu nói: “Điều này, điều này...” Bản Vô cười lạnh: “Đã không bằng không cứ, vậy theo qui tắc của triều đình các ngươi, cũng có thể được bảo lãnh, chả lẽ giám tự chùa Thiếu Lâm muốn bảo lãnh một người mà Niên đại tướng quân nhà ngươi không tin hay sao?” Niên Canh Nghiêu chỉ đành nói: “Đó là người Tứ bối lạc cần”. Bản Vô nổi cáu, lớn giọng nói: “Được, vậy ngươi cứ bảo với Tứ bối lạc là ta đã dắt đi, nếu y muốn đến đòi người cứ đến chùa Thiếu Lâm!”
Bản Vô đại sư đã nổi cáu thực sự, không ngờ Niên Canh Nghiêu chợt cười, vái dài xuống đất, nói: “Đại sư đừng giận, vãn bối sẽ lập tức mời Ấn Hoằng sư huynh ra. Nếu có việc gì vãn bối sẽ gánh vác. Mong đại sư đợi một lát”. Rồi gọi lính ra căn dặn mấy câu, một chốc sau, bọn lính quả nhiên đã đưa Ấn Hoằng hòa thượng ra. Niên Canh Nghiêu tự tay tháo gông cùm cho ông ta, Ấn Hoằng kêu: “Sư phụ”. Bản Vô nói: “Ngươi cũng nên tạ ơn Niên tướng quân”. Ấn Hoằng đầy thắc mắc, chắp tay làm một lễ.
Bản Vô đã tắt lửa giận, nghĩ bụng Niên Canh Nghiêu rốt cuộc cũng là người có tuệ căn, vẫn chưa hoàn toàn thay đổi. Trong quân bưng lên món cơm chay, Niên Canh Nghiêu tự tay rót ba chén trà nóng, trà thơm xông vào mũi, nâng ly nói với Bản Vô thiền sư: “Đại sư từ xa đến đây, xin mời dùng chút đồ chay”. Bản Vô bưng chén trà, Ấn Hoằng chợt nói: “Sư phụ, chúng ta đừng làm phiền Niên tướng quân nữa, chi bằng cứ đi cho sớm!” Niên Canh Nghiêu uống cạn chén trà, nói: “Sao Ấn Hoằng sư huynh lại làm mặt lạ như thế? Hôm qua tôi vừa mới đến Hàng Châu, biết sư huynh bị nhốt đã lâu, trong lòng thấy ái ngại lắm. Nếu sư huynh không nể mặt, há chẳng phải vẫn còn trách tiểu đệ hay sao!” Bản Vô thấy Ấn Hoằng thúc giục, chợt chột dạ, lại thấy Niên Canh Nghiêu đã uống cạn chén trà, ông ta thầm cười Ấn Hoằng đa nghi. Thế rồi nâng chén trà lên nói: “Xưa nay ta không xu phụ quan phủ, hôm nay phá lệ uống với ngươi một chén trà”. Thế rồi uống cạn chén. Ấn Hoằng đưa chén trà lên môi, chần chừ một hồi, Bản Vô thiền sư chợt nhảy lên, đánh vỡ chén trà của Ấn Hoằng, lớn giọng nói: “Niên Canh Nghiêu, ngươi dám ám toán!” Niên Canh Nghiêu cười ha hả, đã sớm lui ra phía sau trướng. Bản Vô đại sư quét cây phất trần cuốn tấm rèm lên, vù một tiếng Liễu Ân hòa thượng đã đánh trượng ra!
Bản Vô nói: “Ấn Hoằng, xông ra!” rồi quét cây phất trần cuộn cây thiền trượng của Liễu Ân, chém một chưởng vào vai trái của y, Thiên Diệp Tản Nhân chợt nhảy ra, hai chưởng đẩy tới, vận hết lực tiếp chưởng ấy của Bản Vô, Liễu Ân rút cây phất trần nhảy ra, Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên cũng xông ra, bốn cao thủ thuộc hàng nhất lưu bao vây Bản Vô đại sư ở giữa! Niên Canh Nghiêu lại bước ra, ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bọc da hổ nhìn trận đấu đang diễn ra.
Bản Vô nổi cáu, quét cây phất trần về phía Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên vội vàng xoay người né tránh, vỗ ngược lại một chưởng từ trên mặt; Bản Vô đại sư lướt người ra, toan hạ thủ Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp giơ ngang chưởng trái trước ngực, chưởng phải quét ra, Bản Vô quát: “Trúng!” chưởng ấy tựa như sấm, đánh Thiên Diệp Tản Nhân bắn ra hơn một trượng! Cây phất trần trong tay phải lại quét vào mặt Liễu Ân! Bản Vô ghét nhất là Liễu Ân nên đã tung đòn sát thủ Ngũ long trảo diện! Hàn Trọng Sơn phất ống tay áo, ám khí phi hoàn châm bay ra như mư, Bản Vô đại sư buộc phải quét cây phất trần một vòng mấy mươi mũi phi hoàn châm nát thành bụi! Nhưng Liễu Ân đã tránh được đòn nguy hiểm lúc nãy, y vội vàng nhảy ra sau một trượng, nói: “Bao vây y! Y đã trúng kịch độc, chẳng thoát được đâu!” thế là triển khai cây thiền trượng đánh kêu lên vù vù, không để Bản Vô áp sát đến, Thiên Diệp Tản Nhân, Đổng Cự Xuyên, Hàn Trọng Sơn cũng đồng thời tấn công! Cây phất trần của Bản Vô tuy có thể cuộc binh khí nhưng ông ta đang bị bốn cao thủ vây đánh, nếu cuộn binh khí của một người thì sẽ để lộ chỗ trống, ba người kia chắc chắn sẽ đánh vào! Thế là chỉ đành du đấu với bọn chúng!
Chính là:
Thiền sư đang gặp nguy, ác tặc dùng gian kế.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Đau đớn giảng lời Thiền truyền kinh lánh nạn 
Thê lương kể chuyện xưa mượn rượu tiêu sầu

Bốn cao thủ tạo thành thế ỷ giác, bao vây thầy trò Bản Vô ở giữa. Nếu luận về võ công thực sự, Bản Vô dù một địch bốn, không thể nắm chắc phần thắng cũng có thể chống cự nổi. nhưng không may ông ta đã trúng độc khổng tước đảm, một hồi sau mắt dần tối sầm, người đau như kim chích. Bản Vô hít một hơi, đè độc khí xuống, quát lớn một tiếng quét cây phất trần cuộc vào cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn, Liễu Ân đã quét cây thiền trượng tới, Bản Vô lách người, vỗ một chưởng đánh bay Hàn Trọng Sơn ra ngoài, Thiên Diệp Tản Nhân vội vàng phóng tới đẩy chưởng, Bản Vô đã nhảy ra từ chỗ trống, trận thế của bọn Liễu Ân đại loạn, khi y hợp vây trở lại, Bản Vô đã nhảy đến rìa trướng.
Ấn Hoằng là đại đệ tử của Bản Vô, võ công đương nhiên không kém, nhưng so với bọn Liễu Ân thì còn thấp một bậc, ông ta đi sát theo sau Bản Vô đại sư, chỉ sai một bước đã bị Thiên Diệp Tản Nhân chặn lại. Bản Vô nghe phía sau có tiếng quyền chưởng giao nhau, trở tay đánh lại một chưởng, Thiên Diệp Tản Nhân chạy ra đứng góc phía Tây, đợi thầy trò Bản Vô đại sư hợp lại, cả bốn người lại tạo thành thế cậy giác.
Bốn người lại vây đánh một hồi, càng lúc càng gấp. Cây thiền trượng của Liễu Ân tựa như con quái mãng chặn ở trung lộ; cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn quét ngang bổ dọc, chặn Ấn Hoằng; Thiên Diệp Tản Nhân và Đổng Cự Xuyên tấn công hai bên cánh, khiến Bản Vô không thể nào đối phó riêng từng người. Đấu một hồi, Bản Vô toát mồ hôi trán, biết không xong, chợt quát: “Ấn Hoằng, hôm nay ta chết ở đây, con về Tung Sơn báo với sư thúc, cứ mặc ta!” rồi đột nhiên phát hai chưởng về phía Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên mới trúng một chưởng, công lực đã giảm xuống, y nào dám tiếp, thế là lách người, cây thiền trượng của Liễu Ân đã quét thẳng tới, bổ vào đầu của Bản Vô. Lúc này Bản Vô vung cây phất trần chặn Thiên Diệp Tản Nhân, tay trái đánh lui Đổng Cự Xuyên, chưa kịp rút chiêu, xem ra muôn phần khó thoát!
Ngay lúc này, Bản Vô hích qua một cái, bốp một tiếng, cây thiền trượng của Liễu Ân tựa như đánh vào tấm sắt bật lên trở lại, Bản Vô quát lớn một tiếng lướt qua đầu Thiên Diệp Tản Nhân, bay thẳng về phía Niên Canh Nghiêu!
Bọn Liễu Ân cả kinh, bốn người quay trở lại, Bản Vô quát: “Ấn Hoằng chạy mau!” Ấn Hoằng hơi chần chừ, chỉ nghe Bản Vô lại quát: “Ngươi muốn ta chết mà không ai biết sao?” lúc này, Niên Canh Nghiêu đã lẩn vào trong trướng, Bản Vô vừa gầm thét vừa đuổi theo vào bên trong. Ấn Hoằng khựng người, tên hiệu úy bên trong trướng vung đao chặn ông ta lại. Ấn Hoằng nghiến răng, gầm lớn một tiếng giật một cây trường thương, quát: “Sư phụ, con đi đây!” rồi cây trường thương múa tít, đâm trái chọc phải tựa như mưa. Bọn hiệu úy võ nghệ thấp hơn, làm sao có thể chặn nổi? chỉ trong chốc lát ông ta đã xông ra ngoài. Bọn Liễu Ân đuổi theo sau Bản Vô, Niên Canh Nghiêu ném cái ghế ra ngoài!
Bản Vô đại sư vỗ hai chưởng bốp bốp đánh cái ghế vỡ nát, Liễu Ân vung cây thiền trượng điểm vào lưng ông ta, Bản Vô quát lớn một tiếng, quét cây phất trần cuộc lại, dù Liễu Ân thực lực kinh người nhưng cũng không khỏi rê nửa bước. Thiên Diệp Tản Nhân đẩy hai chưởng ra, vốn là tiếp chưởng trái của Bản Vô đại sư, Đổng Cự Xuyên và Hàn Trọng Sơn ở phía hai bên tấn công tới, Bản Vô rút chưởng trái, Thiên Diệp Tản Nhân loạng choạng, suýt nữa đã ngã xuống. Liễu Ân trầm cây trượng xuống, Bản Vô đã rút cây phất trần ra đánh về phía Hàn Trọng Sơn!
Niên Canh Nghiêu kêu lớn: “Đừng sợ, y đã uống độc khổng tước đảm, không sống nổi đâu!” Thiên Diệp Tản Nhân múa chưởng đến cứu sư huynh! Không đầy ba chiêu, lại bị Bản Vô đại sư đánh văng ra hơn một trượng!
Bản Vô đại sư buông giọng cười lớn: “Niên Canh Nghiêu, ngươi giỏi lắm!” dù Niên Canh Nghiêu là một tên kiêu hùng cũng không khỏi khiếp vía. Niên Canh Nghiêu thầm nhủ: “Ngươi tuy có ơn với ta, nhưng Tứ bối lạc sẽ san bằng chùa Thiếu Lâm, ta phải trừ ngươi trước”. Nhưng y lại không dám đứng xem nữa mà lui ra phía sau.
Trong tiếng cười rộ, Bản Vô nổi giận cùng cực, liên tục ra đòn sát thủ! Hàn Trọng Sơn đang đánh đến chiêu Khai Sơn Phá Thạch, Bản Vô đại sư chợt quát lớn một tiếng, hích vai lên, chịu một trượng của Liễu Ân, chưởng trái vẫy ra, đánh bay cây tị vân trợ của Hàn Trọng Sơn! Đổng Cự Xuyên đang phát chiêu ở sau lưng, Bản Vô đẩy chân trái về phía trước, quát: “Đi!” đánh Hàn Trọng Sơn lăn một vòng, cây phất trần từ vai quét ngược trở lại, cuộn cổ tay của Hàn Trọng Sơn. Liễu Ân vội vàng giải cứu, Bản Vô đột nhiên xoay người, giở Hàn Trọng Sơn lên, đưa về phía cây thiền trượng của Liễu Ân, Liễu Ân kinh hoảng rụt tay, chỉ nghe Bản Vô quát: “Đi!” rồi dùng lực quét một cái, ném Hàn Trọng Sơn ra ngoài trướng!
Trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt ấy, Bản Vô liều mình tiếp hai trượng, đánh trọng thương Đổng Cự Xuyên và Hàn Trọng Sơn, khiến cả hai ngã xuống đất ngất lịm đi! Liễu Ân và Thiên Diệp đều kinh hãi. Bản Vô cười ha hả, quét cây phất trần và đầu Thiên Diệp Tản Nhân, Thiên Diệp vội vàng tung người vọt ra, Liễu Ân quét một trượng tới, Bản Vô phất tay phải, sau khi phất trần đánh ra, Thiên Diệp Tản Nhân không ngờ rằng ông ta còn mạnh như thế, kêu thảm một tiếng ngã ngay tại trận! Lúc này Liễu Ân vừa mới đánh tới một trượng. Bản Vô đỡ tay trái lên, quát: “Trúng!” tay phải giở lên tóm được cây thiền trượng của Liễu Ân, Liễu Ân bị kéo qua, y vội vàng buông tay toan bỏ chạy, Bản Vô tung người đá trúng một cước vào ngực của Liễu Ân, Liễu Ân bay ra ba trượng, ói ra một ngụm máu rồi ngã xuống đất.
Bản Vô đại sư cười ha ha, đột nhiên ngồi xuống đất, Niên Canh Nghiêu nghe thế kinh hãi, không dám bước ra nữa, bọn hiểu úy của sợ đến mất mật! Tiếng cười của Bản Vô chợt yếu dần, đột nhiên gục đầu xuống, miệng lẩm nhẩm: “Niên Canh Nghiêu ngươi giỏi lắm, Niên Canh Nghiêu ngươi giỏi lắm! Ngươi giỏi lắm...” tiếng nói dần dần nhỏ đi. Một hồi sau, có một tên lính lớn gan khẽ bước tới, lấy tay đẩy ông ta, Bản Vô chẳng hề nhúc nhích. Tên lính sờ vào ngực chợt kêu lớn: “Lão ác hòa thượng đã chết!” Niên Canh Nghiêu nghe thế bước ra mà chẳng dám bước tới gần, tên lính này bẩm: “Đại soái, lão ác hòa thượng đã chết!” Niên Canh Nghiêu chợt khóc lớn, nói với Nhạc Chung Kỳ: “Canh Nghiêu vì nước quên tình riêng toàn trung không thể tận nghĩa. Hòa thượng này tuy không phải là sư phụ của tôi, nhưng tôi đã được ông ta chỉ điểm võ nghệ; nay ông ta mưu đồ cướp phản tặc tôi không thể không giết, nhưng trong lòng vẫ thấy bất nhẫn”. Nói xong thì lau nước mắt, căn dặn bọn lính: “Mua một cỗ quan tài tốt để hậu táng cho ông ta”. Nhạc Chung Kỳ thầm nhủ: “Ngươi bày trò mèo khóc chuột cho ai xem?” từ đó y càng thấy rõ lòng dạ của Niên Canh Nghiêu, bởi vậy càng thêm giới bị.
Bọn Liễu Ân bị thương rất nặng, Thiên Diệp Tản Nhân bị chui phất trần đâm vào be sườn, bị thương càng nặng hơn. Niên Canh Nghiêu ra lệnh cho thủ hạ cứu tỉnh bọn họ, ai nấy đều rên ư ử chẳng nhúc nhích nổi. Cây thiền trượng của Liễu Ân bị Bản Vô đại sư bẻ cong vòng, vừa mới tỉnh dậy đã giận đến nỗi ngất đi. May mà bốn kẻ này công lực rất thâm hậu, tuy bị trọng thương nhưng vẫn không mất mạng, Niên Canh Nghiêu là đệ tử của Chung Vạn Đường, rất giỏi y lý, ra lệnh đưa bọn họ vào phòng kín chữa trị, đồng thời nghĩ cách đối phó với chùa Thiếu Lâm.
Bọn Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì nấp trong nhà Xa Đỉnh Phong, Xa Đỉnh Phong vừa mới thuyên giảm, Lữ Tứ Nương không phải trúng độc châm, dùng đá nam châm hút ra nghỉ ngơi hai ngày cũng đã đi lại như thường. Hôm nay họ đang ngồi trò chuyện trong nhà chợt có người vào báo: “Có một nhà sư áo quần rách rưới, mặt đầy máu xin được gặp Cam đại hiệp”. Cam Phụng Trì vội chạy ra mở cửa, một nhà sư loạng choạng xông vào, té sấp xuống đất, Cam Phụng Trì lật lên nhìn, thấy không phải là Bản Vô đại sư, Lộ Dân Đảm vừa bước ra đã kêu lớn: “Ấn Hoằng sư huynh, làm sao thế?” rồi vội vàng lấy nước lạnh phun cho ông ta tỉnh dậy. Ấn Hoằng khóc lớn: “Sư phụ của tôi e rằng đã gặp độc thủ!”
Lữ Tứ Nương lòng đau như cắt, vội hỏi sự tình. Ấn Hoằng kể lại mọi chuyện, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì nổi giận nói: “Hừ, nếu Bản Vô đại sư có việc gì, chúng ta thề trả thù cho người”. Ấn Hoằng nói: “Niên Canh Nghiêu đang nắm đại quân, trong trướng cao thủ như mây, e rằng không dễ báo thù! Tôi muốn nghỉ ngơi rồi quay trở về Tung Sơn, báo cho chủ trì Phương trượng biết chuyện này”. Cam Phụng Trì nói: “Được, tôi đưa đại sư về Tung Sơn”.
Đêm hôm ấy, người của Xa Đỉnh Phong quay về báo tin Bản Vô thật sự đã chết, mọi người đau buồn lập bàn thờ. Đang lúc đó, chợt nghe tiếng “đinh đinh” từ xa vọng tới, Cam Phụng Trì đẩy cửa ra nhìn. Thọ Sương thư viện nằm ở chân núi, gió núi đưa tới càng rõ ràng hơn, Cam Phụng Trì lên cao nhìn ra, không thấy bóng người, đang ngạc nhiên chợt nghe tiếng chuông lại vang lên, có một bóng người xuất hiện ở eo núi, chỉ trong chớp mắt đã lên đến lưng chừng núi. Cam Phụng Trì cả kinh kêu: “Bát muội!” nói chưa dứt lời, người ấy đã ở trước mặt, đó là một lang trung giang hồ tay cầm gậy, râu dài ba chòm, người ấy hỏi Cam Phụng Trì: “Xa Đỉnh Phong lão tiên sinh có ở đây không?” Lữ Tứ Nương và Xa Đỉnh Phong từ trong bước ra, nhưng chẳng nhận ra người đó là ai. Cam Phụng Trì lấy làm nghi ngờ, đang định hỏi dò, Xa Đỉnh Phong nhìn thấy cây gậy trong tay ông ta, chợt kêu lớn: “Có phải Võ lão tiền bối đấy không?”
Lang trung giang hồ ôm quyền nói: “Tiểu sinh họ Võ, lão tiên sinh làm sao biết?” Xa Đỉnh Phong nói: “Lý công tử đã từng nhắc”. Lang trung nói: “Té ra tôn giá chính là Xa tiên sinh”. Xa Đỉnh Phong nói: “Không dám, lão tiền bối có gặp Lý công tử chưa?” lang trung lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn Cam Phụng Trì và Lữ Tứ Nương. Xa Đỉnh Phong vội vàng giới thiệu cho họ biết, Cam Phụng Trì nghe nói người này chính là Võ Thành Hóa, vội vàng lấy lễ vãn bối ra tham kiến, Võ Thành Hóa nói: “Từ lâu đã nghe danh Giang Nam đại hiệp, tôi và lệnh sư tuy có gặp mặt một lần nhưng môn hộ không liên quan với nhau, chi bằng chúng ta cứ coi như bằng vai phải lứa”. Cam Phụng Trì không chịu, Võ Thành Hóa đành nhận lễ rồi theo mọi người vào Thọ Sương thư viện.
Ngồi xuống xong xuôi, Võ Thành Hóa nói: “Lý Trị có ở đây không?” Xa Đỉnh Phong nói: “Chúng tôi đang tìm y”. Võ Thành Hóa nói: “Thằng bé này thật chẳng biết điều, tôi khó khăn lắm mới cứu được nó ra, bảo nó đừng đi lại tùy tiện, thế mà chớp mắt đã chạy mất”. Xa Đỉnh Phong ngạc nhiên hỏi: “Chuyện là thế nào?” Võ Thành Hóa kể lại mọi chuyện. Lữ Tứ Nương nói: “Ồ, Lý công tử quả nhiên đã đi tìm chúng tôi. Còn tiểu cô nương kia thì sao?” Võ Thành Hóa nói: “Tôi chẳng thấy tiểu cô nương nào cả”.
Rồi ông ta nhắp một ngụm trà, nói tiếp: “Hắn bỏ đi mà chẳng để lại nửa dòng thư, tôi tưởng rằng hắn đến Thọ Sương thư viện tìm cô nương!”
Xa Đỉnh Phong và Cam Phụng Trì nhìn nhau lo lắng, Lữ Tứ Nương nói: “Lý công tử rất thông minh, kiếm thuật lại cao chắc không có chuyện gì xảy ra”.
Võ Thành Hóa ở lại Thọ Sương thư viện mấy ngày chờ đợi mà vẫn chẳng có tin tức của Lý Trị.
Mấy ngày sau, Niên Canh Nghiêu cũng đã rút quân đi, lúc này họ vẫn chưa nhận được tin tức gì của Lý Trị. Võ Thành Hóa thở dài nói: “Xem ra chỉ đành nhờ bằng hữu trên giang hồ tìm hộ”. Cam Phụng Trì nói: “Ở miền Giang Nam tôi sẽ dốc sức”. Võ Thành Hóa nói: “Tôi muốn về quê của Niên Canh Nghiêu, đem xác của Chung Vạn Đường chôn nơi khác”.
Cam Phụng Trì nói: “Còn chúng tôi đưa Ấn Hoằng đại sư về Tung Sơn, vậy sẽ đi cùng đường với tiền bối”.
Hôm sau, bọn Cam Phụng Trì từ biệt Xa Đỉnh Phong, hộ tống Ấn Hoằng về núi, Võ Thành Hóa đi cùng họ đến huyệt Đăng Phong thì chia tay.
Tới chân núi Thiếu Thất, Hoằng Pháp đại sư đích thân ra nghênh đón, Hoằng Pháp là cao tăng chủ tọa chưởng kinh đường, đại vị chỉ kém Thiếu Lâm tam lão, Ấn Hoằng vội vàng chạy đến tham kiến. Hoằng Pháp đại sư sắc mặt nặng nề, khẽ nói: “Chủ trì đã biết tin xấu”. Ấn Hoằng nói: “Xin sư thúc bẩm hộ cho chủ trì, đệ tử Ấn Hoằng muốn gặp”. Hoằng Pháp nói: “Chủ trì đang giảng kinh ở Đạt Ma viện, ta đã để sẵn chỗ ngồi cho ngươi, ngươi hãy đến nghe, lần này e rằng có lẽ là lần giảng kinh cuối cùng của người ở bổn tư”.
Hoằng Pháp đại sư ngồi nói chuyện cùng khách, Ấn Hoằng đại sư lẳng lặng vào Đạt Ma viện ngồi xuống, chỉ thấy hai mươi đại đệ tử đang ngồi lắng nghe.
Ấn Hoằng vừa mới bước vào, Vô Trú thiền sư nói: “Mời Cam đại hiệp vào đây”. Một hồi sau, tri khách tăng đưa Cam Phụng Trì vào, Vô Trú thiền sư cung tay nói: “Cam đại hiệp nghĩa khí ngất trời, từ xa đến báo tin, chùa Thiếu Lâm chúng tôi rất cảm kích”. Cam Phụng Trì vội vàng trả lễ nói: “Bản Vô đại sư là một bậc tôn sư, thế mà bị ám hại, Phụng Trì đang ở Hàng Châu, không thể đến giúp đỡ thật là hổ thẹn”. Vô Trú thiền sư nói: “Kẻ kiêu hùng đang nắm quyền, một người khó tránh nổi hào kiếp, Bản Vô sư huynh tuy chết nhưng sự việc chỉ e vẫn chưa kết thúc!” Cam Phụng Trì im lặng không nói, Vô Trú nói: “Dận Trinh và Niên Canh Nghiêu ra khỏi Thiếu Lâm, nếu Dận Trinh lên ngôi báu, có Niên Canh Nghiêu giúp đỡ, chắc chắn Thiếu Lâm sẽ gặp đại kiếp”. Cam Phụng Trì nói: “Chả lẽ không có cách nào cứu vãn hay sao?” Vô Trú nói: “Trừ phi thay thời đổi thế, nếu không khó tránh trận hào kiếp”. Cam Phụng Trì nói: “Chắc là phải làm phản!” chỉ thấy Vô Trú thiền sư hai mắt sáng quắc, nhìn ra xa, biết ông ta đang trầm tư nên chàng không dám nói gì cả. Một hồi sau, Vô Trú chép miệng nói: “Bắt đầu từ ngày mai người trong chùa Thiếu Lâm sẽ dần dần tản đi, ta muốn đến Phổ Điền ở Phúc Kiến và Nam Hải ở Quảng Đông dựng lại cơ nghiệp, sau này e rằng sẽ nhờ đến Cam đại hiệp”. Cam Phụng Trì nói: “Nếu thiền sư cần gì cứ sai khiến”.
Bọn Cam Phụng Trì ở chùa Thiếu Lâm được vài ngày, thấy người trong chùa bận rộn liền từ biệt. Sau khi xuống núi, Lữ Tứ Nương nói: “Muội nghe Hoằng Pháp đại sư nói Tăng Tịnh đã đếnBắc Kinh”. Bạch Thái Quan nói: “Dù sao chúng ta cũng trở về Hà Nam, sao không lên Bắc Kinh một chuyến”. Tăng Tịnh là môn sinh đắc ý của Lữ Lưu Lương, mấy mươi năm qua phiêu bạt phong trần, mưu đồ phục quốc, là bằng hữu vong niên với Nghiêm Hồng Quỳ, Thẩm Tại Khoan. Cam Phụng Trì nói: “Tôi và Quan Đông tứ hiệp cũng có hẹn ở Bắc Kinh, đi thì đi, nhưng mọi người phải cẩn thận”.
Thu qua đông tới, thời gian đổi dời, lên đến kinh thành đã là thời tiết trọng đông, tuyết rơi như lông ngỗng bay. Mọi người vào cửa thành, chợt thấy có một toán Lạt ma đang đi đến hoàng cung. Họ nấp vào mái một căn khách sạn, nghe người trong khách sạn bàn rằng: “Nghe nói Hoàng đế đang bị bệnh, bởi vậy mời đại Lạt ma ở Tây Tạng đến niệm kinh”. Lữ Tứ Nương giật mình, nhưng lại không nói gì, đợi bọn Lạt ma đi qua mới khẽ nói với Cam Phụng Trì: “Chúng ta đến thật hợp lúc, có lẽ Dận Trinh sắp lên ngôi!” Cam Phụng Trì nói: “Huynh nghe bằng hữu trên giang hồ đồn rằng, mười mấy đứa con trai của Khang Hy đang đấu đá lẫn nhau, chưa chắc Dận Trinh sẽ lên ngôi”. Lữ Tứ Nương nói: “Dận Trinh suy tính đã lâu, thu nạp nhiều kỳ nhân dị sĩ, các bối lạc khác không phải là đối thủ của y”. Cam Phụng Trì cười nói: “Dù ai lên ngôi cũng chẳng có lợi cho người Hán chúng ta, cần gì phải nhọc lòng mà đoán”.
Cam Phụng Trì tuy chưa đến Bắc Kinh nhưng có nhiều bằng hữu ở đây. Nghe chàng đến, rất nhiều người mời chàng đến nhà, Cam Phụng Trì từ chối, chỉ ở khách sạn. Lữ Tứ Nương nói: “Tuy chúng ta đã thay đổi dung mạo nhưng không thể ở mãi trong khách sạn”. Cam Phụng Trì nói: “Huynh đoán còn có một người nữa mời đến chúng ta”. Lữ Tứ Nương hỏi là ai, Cam Phụng Trì cười rằng: “Có nói muội cũng không biết. Nhưng muội đã từng gặp sư phụ của người này”. Cam Phụng Trì chỉ cười chứ không hỏi nữa. Quả nhiên ba ngày sau, tên tiểu nhị vào báo có một nhà sư đến hóa duyên.
Cam Phụng Trì bảo mời ông ta vào. Một hồi sau, tên tiểu nhị dắt theo một hòa thượng sắc mặt xanh xao, trông khoảng năm mươi tuổi. Cam Phụng Trì đứng ở cửa cười ha hả: “Tôi còn tưởng là ai, té ra là ông. Sao ông làm hòa thượng thế?” người ấy nói: “Tôi đến đây hóa duyên!” thế rồi bọn Cam Phụng Trì trả tiền, cùng hòa thượng ấy ra ngoại ô.
Lúc này Cam Phụng Trì mới giới thiệu cho bọn chúng quen biết nhau. Té ra hòa thượng này tên gọi Chúc Gia Thụ, là truyền nhân duy nhất của Võ Thành Hóa. Đi một hồi, đến Tây Sơn, hòa thượng đi trước dẫn đường, bước đến một ngôi chùa tồi tàn ở chân núi, cười nói: “Đây là nơi ở của tôi”.
Hòa thượng quét sơ bụi, lấy ra hai cái hồ lô đựng đầy rượu, Cam Phụng Trì hỏi: “Còn chưa hỏi pháp hiệu của ông?” hòa thượng nói: “Tôi đã tự đặt cho mình một pháp danh, tên là Lãnh Thiền”.
Số là Chúc Gia Thụ vào cung tìm ý trung nhân nhưng thất bại, bởi vậy mới nhụt chí cạo đầu làm hòa thượng. Nhưng ông ta lại không biết ý trung nhân của mình đã chết nên tuy làm hòa thượng mà vẫn không nỡ rời khỏi Bắc Kinh.
Họ ở tại ngôi chùa ấy mấy ngày, một buổi tối nọ Lãnh Thiền vào Bắc Kinh trở về, báo rằng Hoàng đế Khang Hy đang bị bệnh, Thập tứ bối lạc đã trở về kinh đóng quân ở ngoài thành. Y còn bày hai lôi đài ở chùa Hộ Quốc để tuyển những người giỏi võ. Thế là bọn Cam Phụng Trì quyết định đến đấy xem sao.
Chùa Hộ Quốc là một trong những chùa lớn ở Bắc Kinh, vào những ngày lễ lớn rất náo nhiệt. Hôm nay tuy không phải là lễ lộc gì cả nhưng có rất nhiều người đến xem tỉ võ. Hôm nay là ngày tỉ thí đô vật, một tên võ sĩ Mông Cổ đứng trên đài, đánh cả nửa ngày mà chẳng ai hạ nổi y. Y toàn quay xuống, chợt một thiếu niên nhảy lên đài nói: “Ta xin lãnh giáo”.
Lữ Tứ Nương thất kinh, chàng thiếu niên này tuy đã thay hình đổi dạng nhưng giọng nói vẫn như cũ, nàng nhìn kỹ thì rõ ràng đó là Đường Hiểu Lan! Thầm nhủ: “Sao Đường Hiểu Lan lại đến đây?”
Võ sĩ Mông Cổ là tay giỏi đô vật, y nhìn Đường Hiểu Lan với đôi mắt khinh bỉ, hai tay tóm lấy tay của Đường Hiểu Lan, hai chân khuỳnh xuống, đầu gối hích về phía trước, quát: “Ngã!” Đường Hiểu Lan chẳng hề nhúc nhích, tên võ sĩ Mông Cổ thấy chân nhói lên một cái, đã bị Đường Hiểu Lan quật ngã xuống đất, y bật dậy nói: “Đây đâu phải là đô vật!” Đường Hiểu Lan nói: “Làm sao không phải? Rõ ràng ngươi đã bị ta quật ngã!” người xem bên dưới reo lên. Tên võ sĩ Mông Cổ rõ biết chàng không dùng thủ pháp đô vật nhưng cũng không biết tại sao tự nhiên mình bủn rủn tay chân, bị chàng quật xuống, tức giận nói: “Được, chúng ta thử lần nữa, nếu ngươi thật sự quật ngã ta, ta mới phục”.
Thật ra Đường Hiểu Lan không biết đô vật, lúc nãy chàng đã ngầm phất vào huyệt của tên võ sĩ Mông Cổ, bởi vậy mới quật ngã được y. Thấy y không phục, thầm nhủ: “Được, giờ đây ta sẽ quật ngươi”. Rồi chàng bắt chước tư thế của tên võ sĩ, hai chân khụy xuống, hai tay dang ra, nói: “Đến đây!” Tên võ sĩ Mông Cổ lao bổ tới, tóm chặt cổ tay của Đường Hiểu Lan. Lúc nãy Đường Hiểu Lan đã đứng xem bên dưới, thầm nhủ thuật đô vật cũng giống như thủ pháp Cầm nã, thế là chàng quyết định dùng chiêu số của y, tên võ sĩ Mông cổ này mạnh hơn Đường Hiểu Lan rất nhiều, y trầm cổ tay xuống, đầu gối hích về phía trước, rõ ràng là sắp quật ngã Đường Hiểu Lan, nào ngờ Đường Hiểu Lan rút tay ra trơ như cá chặt, người hơi lách qua, tay trái đẩy về phía trước, tay phải giật ra phía sau, chàng đã mượn lực đánh được, tên võ sĩ Mông Cổ bay xuống đài.
Chiêu này đúng là chiêu số lợi hại trong thuật đô vật, tên gọi là Tê Ngưu Vọng Nguyệt. Lúc nãy Đường Hiểu Lan đã học được từ tên võ sĩ này, lại ngầm dùng thêm nội kình, sử dụng thủ pháp Cầm Nã quật ngã y. Tên võ sĩ Mông Cổ bị chàng quật ngã, vốn tưởng rằng sức đầu mẻ trán, nào ngờ Đường Hiểu Lan ra tay rất vừa vặn, tựa như đẩy y xuống đất. Tên võ sĩ Mông Cổ phục lăn, giơ ngón tay cái: “Hay lắm!”
Đường Hiểu Lan mỉm cười, đang định lên tiếng, chợt một người nhảy lên, lạnh lùng nói: “Hay! Thuật đô vật pha lẫn thủ pháp Cầm nã, đúng là hiếm thấy, ta muốn tỷ thí với ngươi!” Đường Hiểu Lan thất kinh, chỉ trong chớp mắt người ấy đã thấy thủ pháp của chàng, chắc chắn là một đại hành gia. Chàng cung tay thỉnh giáo mới biết rằng y là giáo đầu của Thập tứ bối lạc tên gọi Vân Đại Bằng.
Đường Hiểu Lan không từ chối, thi lễ nói: “Xin mời Vân giáo đầu ban chiêu”.
Lữ Tứ Nương cũng lấy làm lạ, không biết Đường Hiểu Lan lên đánh lôi đài là có dụng ý gì.
Vân Đại Bằng thấy chàng ta khí định thần nhàn tựa như chẳng hề có chuyện gì, biết chàng là một nội gia cao thủ, thế là muốn thử công lực của chàng, tay phải xòa ra làm chưởng, tay trái nắm vào thành quyền, đẩy vù một chưởng tới trước ngực Đường Hiểu Lan, tâm chưởng cuộn vào trong, ngầm chứa Tiểu thiên tinh chưởng ngực, Đường Hiểu Lan trở tay đẩy ra một chưởng, chỉ cảm thấy chưởng ngực của đối phương đã thay đổi, không phải đẩy thẳng mà là kéo xéo, tay phải chàng vội vàng hất lên, hóa giải luồng câu kình của y, tay trái vẽ thành một vòng tròn đẩy vù ra, Vân Đại Bằng nói: “Hay!” rồi lách người, lao bổ đến chỗ trống bên mặt trái của Đường Hiểu Lan.
Lữ Tứ Nương thầm nói: “Hiểu Lan đã có tiến bộ nhiều”. Cam Phụng Trì ừ một tiếng, trong lòng rất không vui. Chàng ta chẳng đoán được ý của Đường Hiểu Lan như Lữ Tứ Nương, thầm nhủ: “Dù muốn thử võ nghệ của mình tiến bộ đến mức nào cũng không nên phô bày ở đây”.
Vân Đại Bằng thấy công lực của Đường Hiểu Lan tương đương với mình, y không dám coi thường, thế là năm ngón tay khép lại mổ vào sườn trái của Đường Hiểu Lan, chỉ pháp này được gọi là Điêu thủ, chuyên phá khí công nội gia, chỉ lực mạnh mẽ vô cùng; Đường Hiểu Lan xoay nửa vòng, cạnh chưởng dùng kình đẩy tới, quyền phải từ trong lòng tống ra, Vân Đại Bằng ngửa người ra phía sau, Đường Hiểu Lan đẩy chưởng trái, gạt điêu thủ của y qua một bên, đột nhiên tấn công, lách người đánh tới, chưởng trái lướt qua mặt quyền phải, quyền phải đấm vào mặt, chưởng trái chém xéo, Vân Đại Bằng lại kêu: “Hay!” rồi phá giải chiêu số hung hiểm của Đường Hiểu Lan, hai người vừa hợp đã phân, đôi bên đều giới bị.
Vân Đại Bằng kêu: “Tiếp nào!” rồi nhảy bổ lên, sau khi đôi bên thử chiêu, chưởng pháp đều thay đổi, Vân Đại Bằng xoáy hai cánh tay như bánh xay gió, tấn công về phía Đường Hiểu Lan. Loại chưởng pháp Phong Sa thủ này là do Quyền sư Địch Ngọc Đường sáng tạo, rất có lợi cho tấn công, Đường Hiểu Lan thối lui hai bước, hai tay vung lên dùng lối đánh trường quyền, tiếp hơn hai mươi chiêu, cảm thấy vất vả.
Lữ Tứ Nương nhíu mày, thầm nhủ: “Lẽ ra Đường Hiểu Lan chẳng kém gì kẻ này, nhưng sao lại không biết ứng phó với loại chưởng pháp này?” Một chốc sau, Đường Hiểu Lan đã bị đến mép đài, người xem gần mép đài vội vàng tản ra, nào ngờ Đường Hiểu Lan bốc người lên, lướt vù qua đầu Vân Đại Bằng, rồi chàng xoay người trở lại, chưởng pháp chợt thay đổi!
Người xem dưới đài reo ầm lên, Vân Đại Bằng thất kinh, chỉ thấy thủ pháp của Đường Hiểu Lan nhanh như gió, thủ pháp thần diệu kỳ ảo, chẳng thể nào lường nổi! Khi y tấn công tới phía đông, Đường Hiểu Lan đã lách tới phía tây, khi y đánh tới phía tây, Đường Hiểu Lan lại xuất hiện ở phía bắc tựa như đã hiểu rõ được chiêu số của y.
Số là Đường Hiểu Lan theo Dịch Lan Châu học được ba năm, chủ yếu là Thiên Sơn kiếm pháp, chưởng pháp thông mà không tinh. Tuy vậy, Thiên Sơn chưởng pháp rút tỉa tinh hoa của các nhà, chỉ cần vận dụng đúng đắn, đối phó với chiêu số của bất cứ nhà nào đều có thể không bại. Kinh nghiệm đối địch của Đường Hiểu Lan không nhiều, chưa từng thấy lối đánh kỳ lạ như Phong Sa thủ nên lúc đầu lọt xuống hạ phong. Đến sau khi hai ba mươi chiêu, chàng mới dần dần hiểu ra, thế là mới vận dụng Du Long chưởng trong Thiên Sơn chưởng pháp, chiêu khắc chế lối đánh sáp lá cà. Đường Hiểu Lan tuy chỉ học được mới năm thành nhưng vẫn dư sức đối phó với Vân Đại Bằng.
Đường Hiểu Lan càng đánh càng nhanh, Vân Đại Bằng đành quát dừng lại, bớt một tiếng, vai ra trúng một chưởng, may mà căn cơ của y rất tốt, người lại rắn chắc, chỉ lắc lư chứ không ngã xuống Đường Hiểu Lan kêu: “Đắc tội!” rồi thu hai chưởng lại, buông tay đứng chờ.
Người xem bên dưới reo ầm lên, một viên võ quan bước ra nói: “Vân Đại Bằng tôi xin tuyên bố cuộc đấu đô đài hôm nay kết thúc”.
Đường Hiểu Lan bước vào trướng, viên võ quan chìa tay ra nắm tay Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan chỉ thấy chưởng ngực của đối phương cực kỳ mạnh mẽ, năm ngón tay của chàng đau nhói. Người ấy cười ha hả, buông tay nói: “Quả nhiên là người có bản lĩnh!” rồi hỏi họ tên, Đường Hiểu Lan bịa ra một cái tên giả. Người ấy nói: “Tại hạ là Phương Kim Minh thống lĩnh cấm vệ quân của Thập tứ bối lạc, xưa nay xuất quân tây chinh, không thể kết giao với hào kiệt Trung Nguyên, xin đừng cười”. Đường Hiểu Lan nói: “Té ra là Phương thống lĩnh, thất kính!”.
Phương Kim Minh nói: “Xin tráng sĩ đợi một lát, để tôi bảo bọn chúng đem giải thưởng ra”. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi thường ngưỡng mộ Thập tứ bối lạc là bậc anh hùng, lần này đến đây không phải để nhận thưởng”. Phương Kim Minh cười ha hả: “Xin mời vào trướng rồi hãy nói!” Thật ra Đường Hiểu Lan đã biết dụng ý dựng lôi đài của Thập tứ bối lạc, chàng hỏi như thế là cố ý che đậy cho mình.
Lại nói bọn Lữ Tứ Nương rất thắc mắc, đợi trước lôi đài rất lâu, chợt thấy Đường Hiểu Lan cùng một đám võ quan bước ra khỏi doanh trại, phóng lên lưng ngựa lao ra khỏi đám người, Cam Phụng Trì tức giận nói: “Chúng ta quay về!”.
Lữ Tứ Nương chẳng nói gì cả, sau khi về đến ngôi chùa của Lãnh Thiền, Cam Phụng Trì đang định lên tiếng, Lữ Tứ Nương đã cướp lời: “Muội thấy Đường Hiểu Lan không phải là người bán bạn cầu vinh!”
Cam Phụng Trì nói: “Bát muội, dầu sao y cũng là con rồng cháu phượng”. Lữ Tứ Nương nói: “Y sinh chưa đầy một tháng đã rời khỏi chốn cung đình, chúng ta làm sao có thể coi y như bối lạc của người Mãn Châu? Nếu y bán bạn cầu vinh, ngày trước khi gặp lại Hoàng đế y đã làm khác rồi”. Cam Phụng Trì nói: “Tuy là thế nhưng không thể không phòng”. Lữ Tứ Nương trả lời: “Tứ ca lo lắng không phải là không có lý, nhưng chúng ta phải đợi vài ngày rồi mới đoán chắc được”. Cam Phụng Trì nói: “Được, trong vòng ba ngày, ta sẽ dò la tin tức của y”.
Ba ngày sau, Cam Phụng Trì quả nhiên đem tin của Đường Hiểu Lan về, chàng ta bực dọc nói với Lữ Tứ Nương: “Ta đoán không sai, quả nhiên Đường Hiểu Lan đã theo Dận Đề, trở thành đô thống trong cận vệ quân của Dận Đề”. Lữ Tứ Nương nhíu mày, trầm tư một lúc lâu rồi nói: “Dầu là thế, chắc cũng có nguyên nhân khác”. “Không phải chuyện gì cũng nghĩ từ mặt tốt, trước kia ta đã biện hộ cho y, nhưng nay nếu y làm thế, chúng ta không thể coi y như trước”. “Vậy theo ý huynh phải làm sao?” “Nhân lúc y chưa nắm quyền lớn, hãy giết y!” “Giết y?” “Chả lẽ để cho y đủ lông đủ cánh hại chúng ta hay sao?” “Nhưng cũng phải gặp mặt y hỏi cho rõ ràng” “Bát muội cứ mềm lòng, thôi được nếu muội đã muốn gặp y, ngày mai chúng ta đến Minh Thập Tam Lăng”.
Minh Thập Tam Lăng nằm dưới chân núi Trường Thọ ngoại ô phía bắc của Bắc Kinh, đó là khu lăng mộ của mười ba vị Hoàng đế thời Minh, khu lăng mộ này nằm rải rác trong một thung lũng nhỏ khoảng một trăm dặm, ba mặt đông Tây bắc đều có núi che chắn, mặt phía nam tựa như cái loa hướng về bình nguyên Bắc Kinh, hai bên cái loa có hai quả núi đó là Long Sơn và Hổ Sơn tạo thành thế ôm lại. Gần mỗi khu lăng mộ đều có một thôn làng, thôn làng này lấy lăng làm tên, ví dụ thôn Vĩnh Lăng, thôn Lệ Lăng,... Sau khi người Mãn Châu nhập quan, cắt một phần Minh Thập Tam Lăng làm nơi săn bắn, người dân bình thường không được vào.
Sáng sớm hôm sau, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì đến ngọn núi gần khu lăng mộ của Minh Thành Tổ chờ đợi. Khu lăng mộ này được gọi là Trường lăng. Trường lăng là kiến trúc to lớn nhất trong mười ba lăng mộ, tuy lăng mộ được liệt vào cấm khu nhưng từ trên núi nhìn xuống vẫn nhìn rất rõ ràng. Lữ Tứ Nương lên cao nhìn xa, không khỏi nhớ đến tình cố quốc, bất giác nước mắt tuôn trào.
Chính là:
Cố quốc sơn hà còn, đau lòng người mất nước.
Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.


Quay lại  l Xem tiếp 


BigKool BigKool
Vườn Hoàng Cung - Nông Trại Online Vườn Hoàng Cung
Khu Vườn Thần Kỳ Khu Vườn Thần Kỳ
Vườn Thủy Cung Vườn Thủy Cung
goPet Online goPet Online

C-STAT