Ánh nến lung linh Dận Trinh lên ngôi báu
Kiếm quang kinh mộng hiệp nữ vào thâm cung
Cam Phụng Trì lên tiếng an ủi, Lữ Tứ Nương rầu rĩ nói: “Nếu sư phụ còn sống, người chắc chắn càng đau lòng hơn”. Độc tý thần ni là con gái của vị vua nhà Minh cuối cùng, Cam Phụng Trì nhớ đến sư phụ cũng nói không nên lời.
Gần đến trưa, trên con đường dẫn vào lăng bụi bốc mù, mười mấy thớt ngựa chạy như bay, hai người Cam Lữ nấp sau gốc cây, một hồi nữa, những người ấy dừng lại nghỉ ngơi trước điện Tắc Tư trong khu mộ cung, Lữ Tứ Nương dõi mắt ra nhìn, chỉ thấy Đường Hiểu Lan lẫn trong đám thị vệ, rất cung kính đối với Dận Đề, Cam Phụng Trì nói: “Thế nào?” Lữ Tứ Nương im lặng không nói, một hồi sau mới bảo: “Có cách gì dụ y ra nói chuyện không?” Cam Phụng Trì nói: “Khó lắm!” nghĩ một hồi chợt nói: “Muội có mang theo ám khí không?” Lữ Tứ Nương nói: “Có”. Cam Phụng Trì nói: “Lát nữa muội hành thích Dận Đề. Cố ý xuất hiện để Đường Hiểu Lan thấy, xem thử y làm thế nào?” Lữ Tứ Nương giật mình, nhưng Cam Phụng Trì đã nói như chém đinh chặt sắt, vả lại việc này rất quan trọng, không tiện phản đối, trong lòng nàng vẫn thầm mong Đường Hiểu Lan không quay lưng với chính nghĩa giang hồ.
Bọn Dận Đề nghỉ ngơi một hồi, dắt chó săn ra khỏi khu mộ Trường lăng, bãi đi săn ở phía tây của Trường lăng, vừa khéo đi ngang qua chân núi hai người cam lữ đang mai phục, Lữ Tứ Nương thấy mồ hôi toát ra lòng bàn tay, thấy Dận Đề đi ngang qua, Đường Hiểu Lan đi bên cạnh y, Cam Phụng Trì huýt một tiếng sáo, thúc giục nàng mau ra tay. Lữ Tứ Nương đột nhiên phóng vọt người lên, vung tay phải, ba mũi trủy thủ nhỏ bay vèo vèo về phía Dận Đề!
Trong khoảng sát na này, chỉ thấy Đường Hiểu Lan rút cây Du Long kiếm quét ra, đánh rơi mũi trủy thủ ở giữa, Dận Đề thân thủ cũng bất phàm, y lập tức hụp người xuống, mũi trủy thủ ở bên trái lướt qua, một tên thị vệ giơ tay lên kẹp, hớt được mũi trủy thủ bên phải, trở tay phóng ngược ra lại, kêu lớn: “Có thích khách!”
Đường Hiểu Lan chợt thấy có một thiếu nữ nhảy bổ ra, tuy đã thay đổi dung mạo nhưng chàng đã biết đó là Lữ Tứ Nương, bọn thị vệ chạy ào ào nhảy bổ theo, Dận Đề nói: “Bắt ả lại!” Đường Hiểu Lan hơi chần chừ rồi múa kiếm xông lên.
Cam Phụng Trì thấy Đường Hiểu Lan cứu Dận Đề rất hăng hái, chàng ta đùng đùng nổi cáu. Bọn thị vệ đuổi theo Lữ Tứ Nương đến phía nam của quả núi, Đường Hiểu Lan hơi chậm chân nên lọt ở phía sau. Cam Phụng Trì không kịp suy nghĩ, vung tay phóng sáu mũi phi đao bay về phía Đường Hiểu Lan.
Khi Cam Phụng Trì vung tay phóng phi đao, chợt nghe tiếng đạn cung vang lên, sáu mũi phi đao đều bị bắn rơi xuống đất! Cam Phụng Trì thất kinh, chỉ nghe hai tiếng soạt soạt lướt qua đầu mình. Cam Phụng Trì chợt nhớ đến một người, quay người lại đuổi, ở phía Tây bắc có một bóng người cao gầy, thoắt cái đã chạy xuống tới chân núi, Cam Phụng Trì dùng khinh công Bát bộ cản thiền đuổi sát theo người ấy, chỉ trong chốc lát, vượt qua hai quả núi.
Cam Phụng Trì kêu lên: “Dương lão tiền bối, có chuyện gì thế?” người phía trước kịp dừng bước, quay đầu lại, chòm râu dài bay phất phơ trong gió, cười rằng: “Cam đại hiệp, suýt nữa đã bị ông làm hỏng việc lớn!” đó là Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh. Cam Phụng Trì chưng hửng, tưởng rằng ông ta quá yêu thương học trò nên bảo vệ cho Đường Hiểu Lan, không khỏi hỏi: “Lão tiền bối đến đây là vì Đường Hiểu Lan?” Dương Trọng Anh nói: “Đúng thế”. Cam Phụng Trì ngạc nhiên nói: “Lão tiền bối là lãnh tụ võ lâm, xưa nay làm chuyện hiệp nghĩa, chẳng lẽ cũng bao che cho phản đồ?” Dương Trọng Anh cười ha hả: “Lần này đến lượt tôi phải lên tiếng cho tệ đồ, Hiểu Lan làm thế là có nỗi khổ chứ không phải là kẻ bán bạn cầu vinh!” Cam Phụng Trì lại chưng hửng, trước kia chàng ta đã từng dùng những lời này để khuyên Dương Trọng Anh, thế rồi bất giác động dung, ôm quyền nói: “Hóa ra Cam mỗ đã quá lỗ mãng”.
Cam Phụng Trì đang định hỏi nguyên do, Dương Trọng Anh nói: “Lệnh sư muội cũng đến”. Cam Phụng Trì ngẩng đầu, chỉ thấy Lữ Tứ Nương từ trên sườn núi đối diện đã phóng xuống, chỉ trong chốc lát đã tới trước mặt, cười rằng: “Bọn thị vệ đã bị muội cắt đuôi!” lại nói: “Muội thấy Dương tiền bối dẫn sư huynh đến đây, chắc là hai người đã nói chuyện với Hiểu Lan?” Cam Phụng Trì lắc đầu, Dương Trọng Anh nói: “Không cần phải nói đến y nữa, có một nhân vật phi thường đang ở gần đây, y muốn nói chuyện với hai người”. Cam Phụng Trì lại thất kinh, không biết đó là ai. Lữ Tứ Nương nói: “Là vị hiệp khách nào thế?” Dương Trọng Anh nói: “Gặp rồi sẽ biết”. Rồi dắt hai người vào một thôn làng nhỏ, Dương Trọng Anh đến trước một ngôi nhà, người trong nhà hỏi “Ai đó?”
Lữ Tứ Nương nghe thế vui mừng kêu lên: “Té ra Tăng bá bá ở đây”. Rồi một ông già ăn mặc theo kiểu nhà quê bước ra, tuy quần áo tuềnh toàng nhưng đôi mắt sáng ngời. Ông già nhìn Lữ Tứ Nương, cười nói: “Té ra là tiểu nha đầu, còn đây chắc là Giang Nam đại hiệp”. Cam Phụng Trì ôm quyền thi lễ, nói: “Lão trượng có phải là Tăng lão tiên sinh hay không?” ông già cười ha hả: “Chúng ta nghe danh nhau đã lâu, không ngờ hôm nay mới được gặp mặt”.
Té ra ông già tên gọi Tăng Tịnh, là người ở huyện Phố Đàm tỉnh Hà Nam, xưa nay nức tiếng hay chữ, người ta gọi ông ta là Phố Đàm tiên sinh chứ không gọi tên. Hơn ba mươi năm trước, ông ta là một thư sinh bình thường, tuy hay chữ nhưng cũng chẳng có gì đặc biệt. Sau đó ông ta đến ứng thí ở phủ Vĩnh Hưng, nghe Lữ Lưu Lương giảng sách, đột nhiên hiểu ra, nói: “Người đọc sách phải nên như thế”. Thế rồi đốt văn chương bát cổ, không thèm ứng thí nữa rồi sai môn sinh của mình là Trương Hy (tự là Kính Khanh, người Hoành Châu Hồ Nam, cũng là một bậc danh nho thời Thanh) đến nhà Lữ Lưu Lương xin sách vở, lúc đó Lữ Lưu Lương đã chết, bá phụ của Lữ Lưu Lương là Lữ Nghị Trung tặng sách cho ông ta.
Sau khi nhận được sách của Lữ Lưu Lương, Tăng Tịnh kế thừa di chí, tiếp tục công việc bài Mãn. Ông ta tuy không phải là học trò của Lữ Lưu Lương nhưng đã kế thừa ybác của Lữ Lưu Lương. Sau đó Tăng Tịnh đến nhà Lữ ở triết gia, cùng Lữ Bảo Trung, Lữ Nghị Trung, Nghiêm Hồng Quỳ cùng nghiên cứu học thuyết của Lữ Lưu Lương. Nên từ nhỏ Lữ Lưu Lương đã biết ông ta.
Lữ Tứ Nương hỏi: “Tăng bá bá đến Bắc Kinh từ lúc nào?” Tăng Tịnh nói: “Sớm hơn các người ba ngày”. Cam Phụng Trì nói: “Hôm nay chúng tôi đến đây, chắc Tăng tiên sinh đã biết”. Tăng Tịnh nói: “Chính ta đã bày kế đưa Đường Hiểu Lan vào phủ Dận Đề”.
Lữ Tứ Nương hỏi: “Tại sao Tăng bá bá làm thế?” Tăng Tịnh nhấp ngụm trà, nói: “Mãn Châu nhập quan đã được tám mươi năm, cơ nghiệp đã vững, muốn dựng cờ nghĩa lật đổ Thanh triều, e rằng đã rất khó. Nên tôi bắt tay từ hai mặt, một mặt sách động các tướng lãnh người Hán trong quân Thanh tạo phản; mặt khác khiến cho chúng tự tàn sát lẫn nhau”. Cam Phụng Trì nghe xong thầm nhủ: “Đại nghiệp phục quốc sao có thể phiền người hành sự? Sách động tạo phản tuy là quan trọng nhưng rốt cuộc cũng không phải là kế sách hay”. Nhưng Tăng Tịnh là một bậc danh nho, lần đầu tiên Cam Phụng Trì gặp mặt ông ta, tuy không hài lòng với sách lược này nhưng cũng không lập tức tranh luận.
Lữ Tứ Nương chen vào: “Ý của bá bá là bảo Đường Hiểu Lan xúi giục Dận Đề và Dận Trinh đối chọi với nhau, để cho chúng tự tàn sát”. Tăng Tịnh nói: “Đúng thế. Bọn chúng liều mạng với nhau, dầu ai thắng ai bại cũng tổn thương nguyên khí của Mãn Châu. Nguyên khí của bọn chúng hao tổn một phần, thực lực của chúng ta tăng lên một phần”.
Rồi lại nói tiếp: “Có một chuyện các người vẫn chưa biết. Dận Đề quay về nửa tháng mà vẫn chưa gặp mặt Khang Hy” Lữ Tứ Nương ngạc nhiên nói: “Sao lại thế? Khang Hy thương yêu y nhất, tại sao không kêu y vào cung gặp mặt”. Tăng Tịnh nói: “Đó là bởi Dận Trinh giở trò, bảo Long Khoa Đa giúp y ngăn chặn cửa cung!” Lữ Tứ Nương nói: “Khang Hy hùng tài đại lược, không phải là người dễ đối phó. Nay trong cung đã bị bè đảng Dận Trinh nắm giữ, chắc là y bệnh nặng lắm”. Tăng Tịnh nói: “Chắc là thế. Nên muốn sách động bọn chúng đấu đá với nhau”.
Mọi người bàn một hồi, Lữ Tứ Nương hỏi Dương Trọng Anh: “Còn lệnh ái đâu?” Dương Trọng Anh nói: “Ta sợ nó gây sự nên không cho nó đến. Nó đã đính hôn với Đường Hiểu Lan”. Lữ Tứ Nương kêu: “Chúc mừng!” lòng lại thầm nhủ: “Đường Hiểu Lan xưa nay rất ghét nàng, có lẽ hôn sự này sẽ thay đổi?” trong lòng không yên nhưng không dám nói ra.
Lại nói Đường Hiểu Lan chợt thấy Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì, trong lòng kinh hãi, lo rằng sẽ bị lộ sơ hở, sau đó Cam Phụng Trì được Dương Trọng Anh dụ đi, chàng cũng cùng bọn lính truy tìm một lúc lâu mới trở về. Dận Đề bực bội nói: “Chỉ hai tên tiểu thích khách mà không bắt được, còn giữ các ngươi làm gì?” bọn lính không dám lên tiếng. May mà Dận Đề không truy cứu nhiều, chỉ vội vàng rút về thành.
Đường Hiểu Lan đang mừng rỡ, không ngờ về đến hoàng phủ, Dận Đề đột nhiên chỉ chàng quát: “Bắt tên tiểu tử này lại!” hai tên vệ sĩ đột nhiên nhảy bổ tới, Đường Hiểu Lan không hề chống cự, buông tay chịu trói. Dận Đề nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi thật gian trá, rõ ràng cùng một giuộc với thích khách, ngươi tưởng ta không biết?” Đường Hiểu Lan nói: “Tiểu nhân bảo vệ không chu đáo, tội đáng muôn chết. Nhưng nếu bối lạc bảo tiểu nhân cấu kết với kẻ địch, tiểu nhân chết không nhắm mắt”. Dận Đề nói: “Khi đuổi theo nữ tặc, tại sao ngươi lọt lại ở phía sau?”. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi bị thương nhẹ, bởi vậy hơi chậm chân”. Thế rồi chàng kéo tay áo lên, ở cổ tay quả nhiên có một vết đao dài ba tấc, té ra khi Đường Hiểu Lan hất phi đao của Lữ Tứ Nương, chàng cố ý đánh lệch mũi kiếm để phi đao lướt qua cổ tay mình. Sắc mặt Dận Đề hơi dãn ra, quát: “Tại sao ngươi không nói sớm?” Đường Hiểu Lan nói: “Chỉ bị thương nhẹ, không dám lên tiếng”. Sắc mặt Dận Đề càng tốt hơn, nói: “Thế ra ngươi rất trung thành với ta”. Rồi y đưa mắt nhìn Đường Hiểu Lan chằm chằm, Đường Hiểu Lan vẫn đứng yên không hề biến sắc. Một hồi sau, Dận Đề mới nói: “Được, vậy ta đã trách nhầm ngươi”. Đường Hiểu Lan dập đầu khấu tạ, Dận Đề chợt vui mừng nói: “Ngươi quả nhiên có lòng trung thành, ngày mai ta thăng ngươi làm Đô thống cận vệ quân”.
Suốt đêm ấy Đường Hiểu Lan không ngủ, chàng thầm lo Thập tứ bối lạc rất thông minh, chỉ e y vẫn chưa hết nghi ngờ. Quả nhiên tối hôm sau, Dận Đề đã sai người kêu một mình chàng vào mật thất.
Đường Hiểu Lan thấp thỏm không yên, chỉ nghe Dận Đề nói: “Ngươi giúp ta làm một việc”. Đường Hiểu Lan nói: “Xin vương gia căn dặn”. Dận Đề nói: “Việc này rất dễ”. Nói xong thì lấy một sợi dây thừng và một bình thuốc ra, bảo: “Ngươi hãy giúp ta giết một phạm nhân. Ngươi dùng sợi dây thừng này siết cổ cho y chết, sau đó dùng thuốc rưới lên người y. Sau khi rưới vào, xác của y sẽ chảy thành nước. Phạm nhân đang được nhốt ở căn phòng thứ ba trên lầu Đông Viện. Ngươi đi đi!”
Đường Hiểu Lan dựng cả tóc gáy, nhận dây thừng và bình thuốc, Dận Đề lại nói: “Ngươi có đem theo bảo kiếm không?” Đường Hiểu Lan nói: “Có”. Dận Đề nói: “Sau khi ngươi siết y chết, hãy chặt ngón giữa của y đem về cho ta”.
Đường Hiểu Lan vâng lệnh đến nơi nhốt phạm nhân, chàng thấy bên trong tối om om, có một người đang rên rỉ. Chàng đóng cửa phòng lại, đánh đá lửa lên, chỉ thấy một người đàn ông nằm trong góc phòng, thều thào nói: “Hay lắm, ngươi giết chết ta! Ta là con dân Đại Hán, thề chết không chịu nhục, xem thử bọn chó Hồ các ngươi hoành hành được mấy lúc?”
Đường Hiểu Lan thất kinh, có lẽ đây là người đồng đạo với mình. Chàng bước lên quát: “Tên tù phạm kia, hôm nay đã đến ngày chết của ngươi. Ngươi có gì trăn trối?” Người ấy mở mắt, chợt nói: “Ngươi là người Hồ hay người Hán?” Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi mặc ta là Hồ hay Hán”. Người ấy nói: “Xem ra ngươi là người Hán, tại sao lại làm ưng khuyển cho bọn Hồ lỗ?” Đường Hiểu Lan rút sợi dây, trong lòng lo lắng: “Rút cuộc là giết y hay thả y? Nếu giết y phải chăng đã quá tàn nhẫn? Nếu không giết y, chắc chắn sẽ hỏng chuyện lớn”. Chàng đang chần chừ, người ấy trợn mắt: “Đây là giờ nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Sắp đến nửa đêm”. Người ấy nói: “Có một người bản lĩnh cao cường hẹn giờ Ngọ đến cứu ta. Ngươi hãy đi cùng chúng ta”. Đường Hiểu Lan thấy lòng nôn nao, chàng bước gần tới, người ấy lại nói: “Nếu ngươi giết ta mãi mãi sẽ trở thành tội nhân của người Hán!” Đường Hiểu Lan giật mình, chợt cười lạnh: “Ta chỉ nghe lời bối lạc, hôm nay phải đưa ngươi về trời”. Người ấy quát: “Ta là thủ lĩnh nghĩa quân Tây bắc, nếu giết ta, huynh đệ của ta sẽ không tha cho ngươi!” Đường Hiểu Lan lại quát: “Câm mồm!” rồi giở y dậy, tay trái tròng sợi dây vào cổ của y.
Người ấy nói: “Nhị ca đến đây!” cánh cửa sổ bật ra, một người nhảy tọt vào, trên tay cầm cây trường kiếm sáng loáng, Đường Hiểu Lan lách người, người ấy quát: “Mau thả đại ca của ta!” Đường Hiểu Lan kêu lớn: “Có thích khách!”, rồi chàng rút cây Du Long kiếm ra, chỉ trong chớp mắt, người ấy đã liên tục đánh ra năm chiêu, Đường Hiểu Lan cũng trả lại bốn nhát kiếm.
Người ấy vừa đánh vừa quát: “Thân thủ như ngươi mà cũng làm tay sai cho bối lạc Mãn Châu, có biết xấu hổ hay không?” Đường Hiểu Lan cũng quát: “Khi quân phạm thượng, đại nghịch bất đạo, đừng nói càn!” rồi chàng múa tít thanh kiếm, trong ánh kiếm quang chàng thấy người ấy đeo mặt nạ, Đường Hiểu Lan đánh ra hai chiêu Mục Phương Thần Tuấn và Vương mẫu thanh cầm trong Truy Phong kiếm pháp, một kiếm đâm vào hạ bàng, một kiếm hất lên thân kiếm của y, đâm vào mặt của y, hai chiêu kiếm này rất khó dùng nhưng là tuyệt chiêu hung hiểm nhất trong Truy Phong kiếm thức. Thân thủ của người ấy cũng rất ghê gớm, y quét ngang một kiếm, xoay nửa vòng, kiếm phong quét tới đẩy Du Long kiếm của Đường Hiểu Lan ra ngoài.
Đường Hiểu Lan cả kinh, cây Du Long kiếm đẩy về phía trước, hóa giải chiêu thế của kẻ địch, chui kiếm xoay một vòng, lưỡi kiếm chém ngang, người ấy cũng tạt ngang thanh kiếm, ánh lửa bắn ra tung tóe, Đường Hiểu Lan chợt thấy như mũi kiếm của mình bị một vật gì hút phải, mũi kiếm của chàng đâm tới hụt, kiếm của người ấy đã đâm vào bụng của chàng. Đường Hiểu Lan lách người tránh qua, người ấy tựa như nương tay, quát: “Hãy bỏ tối theo sáng!” Đường Hiểu Lan mắng: “Phản tặc, nếm một kiếm của ta”. Cây Du Long kiếm lướt lên, đánh ra một chiêu Phi Bộc Lưu Tuyền, kiếm hoa tuôn ra. Người che mặt tự nhiên đã nổi cáu, y vung cây trường kiếm đâm vào màng kiếm quang của chàng.
Đường Hiểu Lan gặp phải kình địch, tinh thần phấn chấn, thi chuyển hết tuyệt chiêu tinh diệu của Thiên Sơn kiếm pháp, trong chiêu có chiêu, trong thức có thức, tựa hư tựa thực, biến hóa vô cùng. Hán tử che mặt múa kiếm không tinh diệu như chàng, nhưng công lực rất cao, hóa giải thế công của Đường Hiểu Lan. Đánh được nửa canh giờ, Đường Hiểu Lan đã thi triển toàn bộ bảy mươi hai đường Truy Phong kiếm pháp mà chẳng làm gì được y, đang định đổi sang Tu di kiếm pháp, người ấy xỉa thanh kiếm tới trước, chập vào cây Du Long kiếm, trở tay xoáy một cái, Đường Hiểu Lan bước đồ cũng xoay theo y hai vòng, vù một tiếng, thanh kiếm trong tay chàng rơi xuống.
Người ấy cười ha hả, ngay lúc này căn phòng chợt sáng bừng, chỉ thấy Thập tứ bối lạc đang đứng trong phòng, mặt tươi cười, vẫy tay nói: “Quả nhiên ngươi trung thành với ta, đến đây!” Tên tử tù nằm co trong góc chợt vọt người dậy, gông xiềng trên người không biết đã được tháo từ lúc nào.
Đường Hiểu Lan lau mồ hôi, thầm nhủ: “Nguy hiểm thật!” Vốn là lúc đầu Đường Hiểu Lan không ngờ rằng Dận Đề thử chàng bằng cách nham hiểm này, suýt nữa đã mắc lừa, may mà chàng vẫn còn lanh lẹ, khi định thả “phạm nhân”, đã chợt nhìn thấy sơ hở, sau đó người che mặt đến, sơ hở càng nhiều, Đường Hiểu Lan cũng tương kế tựu kế, diễn trò cùng với y để cho chúng thấy rằng mình trung thành với Dận Đề.
Đường Hiểu Lan đã thấy những sơ hở gì? Thứ nhất, nếu phạm nhân này đã là tử tù quan trọng, lẽ ra phải bị đánh đến mức trọng thương hoặc chẳng thể nhúc nhích nổi, hoặc bị phong bế huyệt đạo, hay có cao thủ canh giữ. Nhưng tất cả đều không. Phạm nhân chỉ bị đeo gông bình thường, người có công lực cao cường chỉ cần vùng mạnh một cái, bao nhiêu gông cũng chẳng cùm được họ. Thứ hai, phạm nhân cố ý cho chàng biết mình là người quan trọng. Bảo với đao phủ thủ mình là đầu lĩnh nghĩa quân Tây bắc là điều đáng nghi ngờ. Thứ ba, nếu phạm nhân nói điều đó là thật, Đường Hiểu Lan là người mới vào vương phủ, Dận Đề có yên tâm để chàng làm chuyện này một mình không? Thứ tư, sau khi người che mặt đến, y không cứu bằng hữu trước mà lại lo đánh nhau với chàng thì thật vô lý. Nếu là những người hiệp nghĩa trên giang hồ, đi cứu một nhân vật quan trọng, không hề cứu đồng bọn của mình trước mà khuyên kẻ địch đầu hàng? Thứ năm, khi thích khách khuyên Đường Hiểu Lan, y bảo chàng không nên làm nô tài cho bối lạc Mãn Châu, nếu là hiệp sĩ người Hán, họ không gọi tôn hiệu của người Mãn Châu. Thứ sáu, thích khách đến gần cả canh giờ, Đường Hiểu Lan quát tháo ầm ĩ, trong phủ có rất nhiều cao thủ nhưng chẳng ai ra giúp chàng. Đó rõ ràng là cạm bẫy của Dận Đề, tất cả sáu sơ hở này xuất hiện từ khi Đường Hiểu Lan bước vào phòng tù cho đến khi Dận Đề xuất hiện, nhưng tuy là thế nếu không phải là người tỉ mỉ cũng không nhận ra.
Dận Đề đứng trong bức vách đôi, thấy rõ ràng nhất cử nhất động của Đường Hiểu Lan. Té ra phòng tù này là nơi bí mật trong hoàng phủ, có địa đạo thông ra ngoài.
Đường Hiểu Lan thấy Dận Đề chợt xuất hiện, chàng giả vờ kinh hoảng, nhảy tới chắn giữa Dận Đề và người che mặt. Dận Đề nói: “Y không phải thích khách. Xa tướng quân hãy tháo mặt nạ xuống”. Té ra đó là đệ nhất kiếm thủ trong phủ Dận Đề tên gọi Xa Tịch Tà. Xa Tịch Tà là người Kỳ, y học được Phong lôi kiếm pháp của phái Trường Bạch, cùng với thống lĩnh cận vệ quân Phương Kim Minh, được gọi là Quân Trung Nhị Bảo. Vì Xa Tịch Tà là người Kỳ nên được Dận Đề coi trong hơn.
Đường Hiểu Lan nói: “Đắc tội. May mà Xa đại nhân chỉ có ý thử thách, nếu là thích khách thật sự, mạng tôi đã xong từ lâu”. Xa Tịch Tà nghe chàng tâng bốc, cười ha hả: “Luận về kiếm pháp ngươi cao minh hơn ta nhiều. Thêm vài năm nữa, công lực của ngươi tăng dần lên, ta đã chẳng phải là đối thủ của ngươi”.
Dận Đề rất mừng rỡ, nói với Đường Hiểu Lan: “Đưa bình thuốc đây”. Đường Hiểu Lan lấy bình thuốc ra, may mà nó vẫn chưa vỡ, Dận Đề mở bình thuốc, uống ực một cái rồi đưa cho Đường Hiểu Lan: “Các ngươi đánh đã mệt, mỗi người hãy uống một ngụm”. Đường Hiểu Lan vừa uống vào chỉ thấy mùi hương lạ xông lên mũi, té ra đây là loại rượu rất ngon. Xa Tịch Tà cũng cầm bình rượu uống đánh ực một tiếng rồi đưa cho tên vệ sĩ cải trang thành tù phạm. Té ra kiểu ban rượu như thế do thống soái uống đầu tiên, mỗi người thay phiên nhau uống một ngụm, đó là vinh dự trong quân Mãn Châu, chỉ có tướng sĩ có công mới được thống soái mời rượu.
Dận Đề uống rượu xong, chợt nghiêm mặt lại nói với Đường Hiểu Lan: “Ngươi thân mang tuyệt kỹ, tại sao phải tự tiến cử, trước kia làm việc ở đâu?” Đường Hiểu Lan đảo mắt nói: “Xin Tứ bối lạc thứ cho tội mạo muội, tiểu nhân có lời bẩm cáo”. Dận Đề nói: “Bọn chúng đều là tâm phúc của ta, ngươi có việc gì cứ nói”.
Đường Hiểu Lan lấy mảnh Hán bạch ngọc mà Khang Hy đã ban cho, trao cho Dận Đề: “Chắc bối lạc đã thấy mảnh Hán bạch ngọc này”. Dận Đề vừa cầm thì thất kinh, rõ ràng đó là đồ của phụ hoàng sao lọt vào tay người này. Đường Hiểu Lan nói: “Tiểu nhân vốn là thị vệ bên cạnh Hoàng thượng, vì việc tuyệt mật nên mới vào hoàng phủ”. Dận Đề ờ một tiếng, nhìn chằm chằm Đường Hiểu Lan, chợt nói: “Ngươi vào cung khi nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Tôi vào cung mới năm ngoái”. Dận Đề nói: “Té ra là thế, năm ngoái ta ở Thanh Hải, chả trách nào không gặp. Ngươi có chuyện cơ mật gì muốn nói cho ta biết?”
Đường Hiểu Lan nói: “Hoàng thượng đã sớm chọn bối lạc nối ngôi, bối lạc có biết không?” Dận Đề tuy biết phụ hoàng thương yêu mình nhất, nhưng không dám hy vọng quá nhiều về chuyện được nối ngôi bởi vì trên mình còn có mười hai vị a ca nữa, nên mới nghe không khỏi vừa mừng vừa lo. Đường Hiểu Lan nói tiếp: “Chắc bối lạc cũng biết Tứ bối lạc đang rắp tâm giành ngôi”. Dận Đề trợn mắt, Đường Hiểu Lan nói: “Nô tài không dám ly gián tình thân cốt nhục của bối lạc, nhưng...” Dận Đề nói: “Nhưng sự thật là thế, đúng không?” Đường Hiểu Lan quỳ xuống dập đầu, Dận Đề cười lạnh nói: “Ta đã sớm biết Dận Trinh chẳng tốt lành gì!” Đường Hiểu Lan ngẩng đầu nói: “Nếu bối lạc không mưu tính sớm, chỉ e vịt đã nấu chín vẫn còn có thể bay được!”
Dận Đề trợn mắt, lại hỏi: “Sao ngươi lại nói thế?” Đường Hiểu Lan nói: “Hoàng thượng dưỡng bệnh đến nay đã nửa tháng; bối lạc quay về cũng sắp mười ngày. Tại sao Hoàng thượng không triệu kiến bối lạc?” Dận Đề vỗ bàn nói: “Chẳng lẽ có gian nhân giở trò?” Đường Hiểu Lan nói: “Quốc cựu Khoa Long Đa, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái, đại học sĩ Trương Đình Ngọc, ba người này cùng một phe với Tứ bối lạc”. Dận Đề nói: “Ta có nghe nói hôm nay ngoại trừ vài ngự y với các cung nữ nội giám thân cận, chỉ có ba người này là gần gũi với phụ hoàng. Chuyện này đúng là đáng lo. Vậy ngươi bảo phải nên thế nào?” Đường Hiểu Lan nói: “E rằng phải tìm cách gặp Hoàng thượng”. Dận Đề nói: “Chưa có chiếu thư tuyên triệu, làm thế nào mà gặp?” Đường Hiểu Lan nói: “Khi cần thiết thì xông vào. Vả lại bối lạc nắm đại quân, nếu bố trí sớm...” Dận Đề biến sắc, nói: “Ta hiểu ngươi có lòng trung. Đừng nói càn, ngươi lui xuống”.
Thật ra Dận Đề đã sắp xếp trước, y cũng biết trong tay Dận Trinh có nhiều người giỏi, lo sợ bị ám toán nên mới đóng quân ở ngoại thành, do đại tướng tâm phúc Bác Khách Đồ nắm giữ, y còn dặn rằng hễ mình có chuyện gì bất ngờ thì xua đội quân đối phó với Dận Trinh.
Lại nói vua Khang Hy xưa nay khỏe mạnh, ở ngôi được sáu mươi mốt năm, trong tháng mười năm này, ông ta còn đến Nam Uyển đi săn, cưỡi ngựa bắn hươu trông rất võ dũng. Không ngờ sau khi đi săn, đột nhiên ngã bệnh, hễ là những người già vốn khỏe mạnh xưa nay ít bệnh, một khi đã ngã bệnh thì rất khó trị nên không đầy mấy ngày đã trở nặng. Khang Hy dời giá đến dưỡng bệnh ở Ly cung thuộc Thưởng Xuân Viên, lúc đầu còn có thể cố gắng nắm giữ quốc sự, sau càng lúc càng tệ, bởi vậy mới bảo Quốc cựu Khoa Long Đa và đại học sĩ Trương Đình Ngọc nắm giữ triều chính.
Khang Hy là người cực kỳ háo cường, một đời nam chinh bắc phạt, trị hà tu thư, chính giáo võ công đều có thành tựu lớn, không ngờ đến buổi về chiều, mười mấy đứa con trai cứ đấu đá chèn ép lẫn nhau, Khang Hy chẳng làm được gì. Nên đến khi bệnh thì rất phiền não, không muốn thấy người thân, bởi vậy không những Dận Đề, dù Dận Trinh tìm trăm phương nghìn cách xin gặp cũng chỉ có thể đứng từ xa thỉnh an. Dận Đề và Đường Hiểu Lan đoán có gian nhân giở trò thật ra cũng chỉ đúng có một nửa. Song Dận Đề nhờ Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc làm tai mắt, lại mua chuộc các thái giám và cung nữ bên cạnh Khang Hy nên đều nắm rõ nhất cử nhất động của Khang Hy.
Hôm nay, tức là ngày mười ba tháng một năm Khang Hy sáu mươi mốt, Khang Hy đang nằm mơ màng, uống một chén canh sâm, thần trí hơi tỉnh táo, chợt nhớ lại những việc hơn sáu mươi năm qua, chỉ cảm thấy phú quý trôi qua như áng mây, con cái tuy nhiều nhưng bọn chúng chỉ lo tranh ngôi báu chứ chẳng có tình cha con thực sự. Bất đồ nhớ lại người bằng hữu thời trẻ Nạp Lan Dung Nhược, đáng tiếc Nạp Lan Dung Nhược đoản mệnh, chỉ mới ba mươi mốt tuổi đã qua đời, nếu không tuổi già ít nhất cũng có một người bầu bạn nói chuyện.
Nội giám thấy Hoàng đế nhỏm người toan ngồi dậy, bước đến hỏi. Khang Hy nói: “Trên ngăn giữa của giá sách có một cây quạt, ngươi hãy đem cây quạt đến cho trẫm!”. Tên nội giám rất ngạc nhiên, lúc này trời đang giá lạnh, lấy quạt làm gì? Nhưng nhà vua đã sai khiến, không dám không nghe. Khang Hy cầm cái quạt mà thở dài.
Trong khoảng sát na ấy, ông ta nhớ lại việc hơn bốn mươi năm trước cùng Nạp Lan Dung Nhược viễn chinh miền tái ngoại, lúc ấy là ở gần Thỗ Lỗ Phiên, ban ngày nóng bức, ban đêm lạnh giá, trên đại mạc chỉ có gió cát thổi ào ào, mình và Nạp Lan Dung Nhược ngồi trò chuyện. Nạp Lan Dung Nhược khuyên mình không nên chinh chiến nữa, Khang Hy còn cười ông ta là kẻ thư sinh, nay nhìn lại, dù suốt năm nam chinh bắc phạt, các tộc vẫn không khuất phục, lời Nạp Lan không phải là không có lý. Nay nhớ lại không khỏi bi thương. Long Khoa Đa và Ngạc Nhĩ Thái đứng hầu một bên, thấy Hoàng đế ngẩng người ra, họ đều không ngờ rằng, Hoàng đế Khang Hy ở ngôi lâu, được sống thọ, vinh hoa quý quý đến cực điểm mà trước khi chết mà cõi lòng lại thê lương quạnh quẽ đến thế.
Long Khoa Đa bước tới gần, nói: “Tinh thần Hoàng thượng vừa mới hồi phục, không nên suy nghĩ nhiều”. Khang Hy mỉm cười buồn bã, phẫy tay nói: “Mau truyền Thập tứ bối lạc Dận Đề!” Ông ta biết mình sắp không xong nên định căn dặn hậu sự.
Các bối lạc đều muốn giành ngôi, mấy ngày nay nghe Khang Hy bị bệnh nặng đều kéo đến Thưởng Xuân Viên, cho đến tối mịt mới về nghỉ ngơi. Huynh đệ gặp mặt nhau mà chỉ chào hỏi lạnh nhạt, chẳng hề trò chuyện gì cả.
Hôm nay các bối lạc đang nôn nóng chờ đợi chợt thấy Long Khoa Đa chạy ra, ai nấy đều xôn xao. Long Khoa Đa kêu lớn: “Thánh thượng có chỉ, tuyên triệu Tứ bối lạc kiến giá!” Dận Trinh cả mừng, chạy lên theo Long Khoa Đa vào trong.
Ai nấy đều thất vọng, Cửu bối lạc Dận Đường là người nóng nảy nhất, y vung tay kêu lớn: “Cứ mặt y, chúng ta xông vào!” các bối lạc đều hưởng ứng, dắt theo tuỳ tùng kéo nhau vào, bọn lính canh giữ nào cản được. Đường Hiểu Lan và Xa Tịch Tà là tùy tùng của Thập tứ bối lạc Dận Đề, lúc này cũng theo vào bên trong.
Sau khi Khang Hy tuyên triệu Dận Đề, thần trí lại mơ hồ, ông ta thấy mình chợt ở trên núi Ngũ Đài, một nhà sư gầy ốm đang trừng mắt nhìn mình người đó chính là Thuận Trị, không khỏi sợ đến nỗi hồn bay phách tán, kinh hãi kêu lên: “Phụ hoàng tha cho con!” Ngạc Nhĩ Thái đứng từ xa nói: “Hoàng thượng tỉnh lại, Thập tứ bối lạc đã đến!” Hoàng đế Khang Hy toát mồ hôi lạnh, xoay người chợt hỏi: “Đây là đâu?” Ngạc Nhĩ Thái nói: “Là Thưởng Tâm Viên!” Khang Hy nói: “Ngươi lừa ta, đây là núi Ngũ Đài!” Ngạc Nhĩ Thái thầm kêu khổ, Hoàng thượng đã hôn mê mà Tứ bối lạc vẫn chưa đến. Khang Hy lại trở mình, chợt kêu lớn: “Các ngươi mau đuổi lão hòa thượng kia ra! Mau lên! Đừng để y vào!”.
Lúc này Dận Trinh và Long Khoa Đa chạy vào. Ngạc Nhĩ Thái quỳ xuống bẩm: “Hoàng thượng, Thập tứ bối lạc đến!” Khang Hy hơi tỉnh trở lại, Dận Trinh quỳ trước giường. Khang Hy đưa tay sờ mặt y, chợt kêu: “Ngươi, ngươi, ngươi không phải là Dận Đề!” Dận Trinh nói: “Thần nhi xin vâng theo phụ hoàng!” Khang Hy chợt hồi quang phản chiếu, cả giận nói: “Hay lắm, ta vẫn chưa chết mà các ngươi cùng hùa nhau lừa ta!” rồi cầm một xâu chuỗi ngọc ném vào mặt Dận Trinh! Long Khoa Đa cả kinh lạc giọng. Lúc này, người bên ngoài ồn ào, Dận Trinh nghiến răng chợt lao bổ lên giường. Khang Hy kêu thảm một tiếng, chẳng lấy hơi được nữa, chết ngay tức khắc! Ở núi Ngũ Đài Khang Hy mưu sát cha (xem trong bộ “Thiên Sơn Thất Kiếm”), nay ông ta cũng chết trong tay con mình.
Các bối lạc dắt theo tùy tùng xông vào, một đám Ngự lâm quân chạy lên chặn lại, số là Long Khoa Đa đã lo các bối lạc không nghe lệnh nên mới sắp xếp trước. Đường Hiểu Lan đẩy Dận Đề, khẽ nói: “Bối lạc phải quyết định nhanh cho!” Dận Đề quát lớn: “Bọn ta thăm hỏi phụ hoàng, ai dám ngăn cản?” Các bối lạc đều quát lớn, bọn Ngự lâm quân nhìn nhau thất sắc, tuy đã cầm binh khí trong tay nhưng vẫn run lẩy bẩy!
Ngay lúc này, trong phòng vọng ra một tiếng kêu thảm, các bối lạc giật mình, bổ người bay lên lướt qua đầu bọn Ngự lâm quân chui tọt vào cửa sổ.
Tứ bối lạc Dận Trinh bóp chết phụ hoàng, hai tay buông ra, té xuống trước giường. Long Khoa Đa nói: “Chúc mừng Hoàng thượng, việc lớn đã định!” chợt thấy một bóng đen từ cửa sổ chui tọt vào, Ngạc Nhĩ Thái quát: “Ngươi là ai?” định xông lên ngăn cản, người ấy chẳng nói một lời, vung một quyền đấm ngã Ngạc Nhĩ Thái quỳ trước giường, người ấy chạy lên nhìn thì chợt quỳ xuống khóc: “Con đã đến muộn!”.
Người ấy chính là Đường Hiểu Lan, khi Khang Hy còn sống, chàng không nhận cha, nay thấy ông ta đã chết! Tình cha con rút cuộc là tính trời, bất giác quỳ xuống. Dận Trinh đã hồi phục thần trí, y vội vàng đứng vọt dậy, xỉa vào huyệt Kiên Tỉnh của Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan lập tức ngã xuống đất, miệng vẫn còn hả ra, nước mắt tuôn đầy mặt.
Long Khoa Đa nói: “Hoàng thượng đừng lo lắng”. Rồi kéo Dận Trinh bước ra ngoài, Dận Trinh tuy vẫn chưa lên ngôi báu, nhưng y đã gọi là “Hoàng thượng”. Dận Trinh định thần, giơ ống tay áo quệt nước mắt, lập tức khóc òa lên!
Lúc này các bối lạc đang ồn ào, nghe tiếng khóc thì ai nấy đều xông lên phía trước, bọn Ngự lâm quân giở binh khí nhưng chỉ làm cho ra vẻ. Thấy bọn họ xông bừa tới đều tránh ra. Long Khoa Đa kêu lớn: “Hoàng đế đã băng hà, nước không thể một ngày không vua, bổn quan nhận lời gửi gắm của tiên đế, mời các vị bối lạc mau đến điện Chính đại quang minh nghe đọc di chiếu!” các bối lạc quả nhiên im lặng, Hoàng đế đã chết, không ai muốn vào trong xem, tất cả đều kéo đến điện Chính đại quang minh nghe chỉ.
Long Khoa Đa trao Đường Hiểu Lan cho Ngự lâm quân dắt vào nội đình, hỏi ngay tại chỗ: “Người này là tùy tùng của bối lạc nào?” các bối lạc đều chạy vào cung, chẳng ai thèm để ý. Dận Đề trong lòng đang giận Đường Hiểu Lan lỗ mãn, sợ rằng hỏng việc lớn nên không dám lên tiếng, thầm nhủ: “Đợi ta ngồi lên ngôi vua rồi sẽ giết y”.
Lúc này trời đã chạng vạng, cửa ngọ môn vốn đã đóng kín. Vì tuyên đọc di chiếu, nên mở ra. Hoàng thân quốc thích văn võ bá quan đều lục tục kéo đến, cung phi trong cung cũng đến điện bên cạnh lắng nghe. Một hồi sau, văn võ cả triều đều đã kéo đến đông đủ. Dưới thềm có ba ngàn Ngự lâm quân đứng canh rất nghiêm ngặt. Các bối lạc đều chen nhau vào điện. Dận Đề tim đập thình thình, vươn cổ ra nhìn tấm biển đề mấy chữ to “Chính đại quang minh” treo ở giữa điện. Trong không khí căng thẳng ấy, chợt có người kéo y một cái, Dận Đề giật mình, té ra đó là thống lĩnh cận vệ quân Phương Kim Minh. Phương Kim Minh khẽ nói bên tai y: “Trong quân có biến!” Dận Đề cả kinh hỏi: “Sao?” Phương Kim Minh nói: “Niên Canh Nghiêu Bảo phụng thánh chỉ, nắm giữ chức phủ viễn phó tướng quân, tạm thời thay bối lạc xử lý quân vụ, một vạn quân thiết kỵ của y đã lập trại bên cạnh nơi đóng quân của chúng ta”. Dận Đề rất thắc mắc, Niên Canh Nghiêu chỉ là một đề đốc, quân của y tuy dũng cảm thiện chiến nhưng so với hai mươi vạn đại quân của mình chẳng khác gì trứng chọi đá, sao có thể để cho y tiếp thu. Vội hỏi: “Binh quyền của Bác Khách Đồ vẫn chưa bị tước chứ? Võ quan của các doanh có còn trung thành với ta không?” Phương Kim Minh nói: “Bác Khách Đồ vẫn còn. Cận vệ quân và mười hai doanh tướng đang bao vây quân Niên Canh Nghiêu, xin bối lạc lập tức trở về”. Dận Đề nghe Bác Khách Đồ vô sự, lòng thấy yên, nói: “Chỉ còn binh quyền vẫn còn, binh sĩ chưa biến sẽ không cần sợ, ngươi hãy về trước. Hãy truyền ý của ta, bảo bọn họ tìm cách bắt Niên Canh Nghiêu lại”. Sắc mặt Phương Kim Minh vẫn khó coi, các bối lạc nghe Dận Đề nói chuyện với người khác đều để ý, Dận Đề vội đẩy y nói: “Trở về mau!” Phương Kim Minh chẳng còn cách nào, chỉ đành chen ra ngoài.
Trong lúc ồn ào, thái giám truyên lễ gõ cái chuông lớn trên điện, kêu: “Thỉnh di chiếu!” Trong khoảng sát na, cả tòa đại điện đều lặng hẳn, tựa như có thể nghe được cả tiếng kim rơi. Chỉ thấy ba người Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc bước lên điện, trên điện bày sẵn hương án, ba người nhìn lên không hành lễ, bọn lính đã đặt sẵn thang, Long Khoa Đa trèo lên kính cẩn bưng cái hộp ngọc đựng di chiếu xuống. Các bối lạc đều vươn dài cổ, chỉ thấy Long Khoa Đa đứng trong điện, cao giọng đọc. Khi đọc đến chỗ “truyền ngôi cho...”, y cố ý kéo dài giọng, các bối lạc đều bất giác bước tới, Long Khoa Đa ho một tiếng, tiếp đó đọc rằng: “Tứ bối lạc!” lập tức dưới điện xôn xao! Mọi người đều nghĩ vua Khang Hy ghét nhất là Tứ bối lạc Dận Trinh, làm sao lại truyền ngôi cho y. Họ không biết rằng di chiếu vốn viết rằng “truyền ngôi cho Thập tứ bối lạc”, Dận Trinh sai Thiên Diệp Tản Nhân và Phùng Lâm vào xem lén, biết được chuyện này, được Long Khoa Đa hiến kế, đã thêm một nét ngang trên chữ thập, phía dưới thêm một nét móc trở thành chữ “vu” (có nghĩa là cho), vì thế dòng chữ trong di chiếu vốn là “truyền ngôi Thập tứ bối lạc” lại trở thành “truyền ngôi cho Tứ bối lạc”!
Trong tiếng ồn ào, Cửu bối lạc Dận Đường, Thập bối lạc Dận Nga kêu lớn: “Ta không tin!” bọn thị vệ trên điện xông đến cản lại, Dận Đường và Dận Nga đều biết võ công, lại tưởng rằng bọn thị vệ cũng giống như Ngự lâm quân, chỉ khoa trương thanh thế, không dám cản mình cứ xông bừa tới toan đoạt di chiếu, không ngờ Dận Trinh nghiêm mặt quát: “Bắt lại!” trong đám thị vệ có hai người chợt lao bổ lên, Dận Đường và Dận Nga đồng thanh đáp: “Ai dám cản ta?”.
Dận Đường và Dận Nga không biết rằng, hai kẻ này chẳng phải người tầm thường, Tứ bối lạc đã biết có chuyện hôm nay, không những đã mua chuộc Ngự lâm quân và Điện tiền thị vệ mà hai ngày trước đã cài mười tay tâm phúc của mình vào, hai tên thị vệ này là Hàn Trọng Sơn và Đổng Cự Xuyên, Dận Đường Dận Nga nổi cáu vung quyền, chỉ sau mấy đòn đã bị điểm huyệt đạo ngã xuống. Người của Dận Trinh trong Ngự lâm quân nhảy đến trói họ, rồi kêu lớn lên trước: “Vạn tuế!” ba ngàn Ngự lâm quân hô như sấm dậy, trăm quan biến sắc. Lúc này bọn thị vệ đưa Dận Trinh lên điện, Dận Trinh khoác lên bộ lông bào, bọn Long Khoa Đa đưa y ngồi lên ngai vàng. Bọn Ngự lâm quân dưới điện hô lớn ba tiếng: “Vạn tuế!” trong quan văn võ, có quá nửa đã bị Dận Trinh mua chuộc, còn một nửa kia cũng đành phải bước đến triều kiến. Các bối lạc đều tiu nghỉu, đành phải bước lên triều bái.
Lễ xong, Dận Trinh nói: “Dận Đường và Dận Nga quấy rối triều đường, phạm tội đại bất kính, trước hết tước vương vị, giao cho phủ tông nhân thẩm vấn!” lại nói: “Di chiếu của tiên đế các quận vương vốn không có quyền mở ra đọc, nhưng hôm nay đã xảy ra chuyện, vì muốn mọi việc công khai, ta cho phép các quận vương đích thân đọc”. Rồi đem di chiếu xuống, các bối lạc đều tranh nhau xem, quả nhiên thấy đó là bút tích của Khang Hy, ai nấy tuy không phục nhưng cũng không dám nói gì nữa. Dận Trinh lại nói: “Khi tiên đế còn sống, đã quyết định ta kế thừa ngôi báu, lại còn trao cho ta xâu chuỗi ngọc làm bằng, ta từ chối mãi mà không được, chỉ đành tuân theo di chiếu của phụ hoàng, mong các quận vương giúp đỡ cùng trị thiên hạ”. Nói xong lại lấy ra xâu chuỗi ngọc mà Khang Hy đã ném y, giả vờ đau đớn rơi nước mắt. Dận Trinh biết các bối lạc vẫn còn có tiềm lực, nên không thể không giả vờ mua chuộc lòng người. Thập tứ bối lạc tức đến nỗi tay chân lạnh ngắt, bỏ ra ngoài trước tiên, các bối lạc cũng theo ra về.
Đêm ấy Dận Trinh dời ngai vào cung Càn Thanh, triệu tập tâm phúc bàn việc luôn đêm. Đến khi xong xuôi đã đến canh tư, bọn Long Khoa Đa mới trở ra, Dận Trinh lại sai người liên lạc với Niên Canh Nghiêu, tên nội giám nói: “Xin Hoàng thượng nghỉ ngơi một lát. Ngày mai còn phải lên triều!” Dận Trinh cũng rất mệt, liền nói: “Nếu Niên Canh Nghiêu đến, hãy lập tức bảo y vào gặp ta”. rồi y gục xuống bàn mà ngủ, trong lúc mơ hồ tựa như thấy Khang Hy mặt mũi đầy máu, đang định kêu cứu thì chợt có Lữ Tứ Nương cầm kiếm xông vào, Dận Trinh kinh hãi bừng tĩnh, tên nội giám bẩm báo: “Bảo Quốc thiền sư đang cầu kiến!” Dận Trinh nói: “Gọi y vào!”.
Liễu Ân bước vào chỉ cúi đầu chứ không quỳ, nói: “Chúc mừng chúa công lên ngôi”. Liễu Ân ỷ mình có công lao, vẫn xử sự với Dận Trinh như khi còn ở vương phủ. Dận Trinh thầm không vui, nhủ rằng: “Thế nào cũng phải trừ khử bọn người này để bọn chúng khỏi nói bậy chuyện mình ở giang hồ”. Nhưng vừa mới nối ngôi, vẫn còn nhiều chuyện nhờ bọn họ, bởi vậy y không lộ ra mặt, hỏi: “Quốc sư gặp trẫm có việc gì?” Liễu Ân nói: “Bẩm Hoàng thượng, đã tra khảo được tên thích khách”. Dận Trinh nhíu mày, thầm nhủ: “Chuyện nhỏ như thế này mà cung làm phiền ta”. Rồi thuận miệng hỏi: “Là tùy tùng của ai?” Liễu Ân nói: “Không biết, nhưng người này có giấu di thư của tiên đế, từng tự xưng là đại nội thị vệ Đường Long”. Dận Trinh nói: “Được, dắt y vào!”
Dận Trinh vừa gặp chàng đã hừ một tiếng nói: “Tại sao ngươi cứ đối chọi với ta?” Đường Hiểu Lan lấy chiếu thư mà Khang Hy đã cho Đường Hiểu Lan trước kia, năm xưa Đường Hiểu Lan muốn gặp Dận Trinh nên nhờ Khang Hy viết cho, sau đó đến vương phủ của Dận Trinh chưa kịp lấy ra, vừa gặp phải Quan Đông tứ hiệp đến gây sự nên Dận Trinh vẫn không xem.
Dận Trinh thấy chiếu thư bảo phải lo lắng cho người này, bất giác nghiêm mặt, quát: “Ngươi có lai lịch thế nào?” Đường Hiểu Lan trừng mắt không đáp, Dận Trinh đang định ra lệnh tra khảo chàng, chợt nghe bên ngoài ồn ào, nội giám kêu lên: “Trong cung bốc lửa!” Dận Trinh cả kinh, đẩy cửa ra nhìn, chợt làn gió lạnh phả vào mặt, trên mái ngói lưu ly chợt có một người nhảy xuống múa kiếm như gió, đâm ra xoạt xoạt hai kiếm về phía Dận Trinh, người này chính là kẻ y vừa mới mơ thấy, Lữ Tứ Nương.
Chính là:
Khéo dùng quyền mưu lên ngôi báu, thâm cung lại thấy kín quan lạnh.
Muốn biết sau đó thế nào mời sang hồi sau sẽ rõ.
Ngựa sắt qua vàng tướng quân giỏi chinh chiến
Gió sáng trăng tàn ngọc nữ vung kiếm múa
Lữ Tứ Nương chợt xuất hiện khiến Dận Trinh kinh hãi. Liễu Ân gầm lớn, tung quyền đấm hờ vào mặt Lữ Tứ Nương, rồi đột nhiên giở chân đá ra một cước, suýt nữa cây bảo kiếm trong tay nàng đã bị y đá bay, nàng vội vàng bỏ Dận Trinh, lộn người qua liên tục đến hai chiêu, Liễu Ân xoay người lách ra phía sau Lữ Tứ Nương, lại tung cước lên đá vào lưng nàng, Liễu Ân đã dùng cả Phục Hổ quyền với Liên hoàn thoái, hung hiểm cực kỳ. Lữ Tứ Nương nghe phía sau có tiếng gió, chân điểm một cái, người vọt lên không; Liễu Ân đột nhiên thấy mất bóng địch, người lao về phía trước hai bước, Lữ Tứ Nương tay trái chụp vào sà ngang, tay phải vung lên, hai mũi trủy thủ sáng loáng bay về phía Dận Trinh và Liễu Ân!
Trong khoảnh khắc điện chớp lửa sẹt, Dận Trinh mới giật mình, đến khi Liễu Ân chặn Lữ Tứ Nương, y mới hơi vững bụng, vung tay điểm vào Hôn huyệt của Đường Hiểu Lan, nào ngờ Lữ Tứ Nương đột nhiên phóng trủy thủ đến, Dận Trinh lộn xuống đất, cây trủy thủ lướt qua đầu của y, khi lộn người đứng dậy thì đã rút kiếm trong tay.
Liễu Ân vung tay kẹp được cây trủy thủ, vận Kim cương chỉ ngực bẻ gãy làm đôi. Dận Trinh kêu: “Bảo Quốc thiền sư, giết Đường Hiểu Lan trước!” vì Đường Hiểu Lan có chiếu thư của tiên đế, Dận Trinh không biết lai lịch của chàng, y cực kỳ nghi ngại, trái lại khi nguy cấp vẫn không quên giết chết chàng. Liễu Ân phóng người tới, Lữ Tứ Nương đột nhiên từ trên không bay xuống, Liễu Ân chưa tới thì nàng đã xách Đường Hiểu Lan dậy, lại phóng lên, lúc này bọn thị vệ bên ngoài đã chạy tới cứu giá, Lữ Tứ Nương vung kiếm chém gông xiềng trên tay Đường Hiểu Lan, hỏi: “Có bị thương không?” Đường Hiểu Lan nói: “Không!” té ra Liễu Ân thấy chiếu thư của Khang Hy viết rõ bảo Dận Trinh phải lo lắng cho chàng, trước khi được Dận Trinh cho phép, y không dám lạm dụng hình phạt. Lữ Tứ Nương biết chàng không bị thương mới yên lòng, nói: “Được, chúng ta xông ra ngoài!” rồi phóng người lên, cây bảo kiếm quét tròn, đánh vỡ ngói lưu ly, mái ngói thủng một lỗ lớn, có hai tên thị vệ võ công cao cường phóng lên chụp nàng, Lữ Tứ Nương co người, tay trái nắm Đường Hiểu Lan ném ra ngoài, tay phải đâm mũi kiếm xuống, hai tên thị vệ vừa chạm gần tới chân nàng, đã bị nàng chém bị thương rơi xuống!
Liễu Ân võ công cực kỳ cao cường, thấy thế cũng không khỏi thầm lo. Dận Trinh cả giận lại quát: “Mau bắt con tiện tì lại cho trẫm!”. Lúc nãy Liễu Ân vừa mới đánh mấy chiêu với Lữ Tứ Nương, thấy kiếm pháp của nàng tựa như càng cao hơn trước, lúc này y không có cây thiền trượng, nếu đánh tay không với nàng chỉ e chẳng được lợi gì. Nếu cùng bọn thị vệ vây đánh nàng, lại mất thân phận sư huynh. Bởi vậy nghe Dận Trinh ra lệnh, bọn thị vệ vội vàng đuổi ra, chỉ có Liễu Ân vẫn đứng yên, bẩm với Dận Trinh rằng: “Chúa công, chỉ e bọn chúng còn có dư đảng, để tôi bảo vệ cho chúa công”. Dận Trinh nói: “Được, có ngươi ở đây cũng tốt”. Trong lòng rất không vui.
Lữ Tứ Nương rất giỏi khinh công, Đường Hiểu Lan cũng cao cường hơn bọn thị vệ bình thường, chỉ trong khoảnh khắc, họ đã vượt qua mấy tòa điện. Đổng Cự Xuyên và Cam Thiên Long từ hai bên đánh tới, hai người này võ công đương nhiên cao hơn bọn thị vệ. Lữ Tứ Nương phóng trủy thủ tới, Cam Thiên Long múa trường kiếm gạt một thanh trủy thủ bay xuống, nhắm đúng hướng bay của mũi trủy thủ thứ hai, lách người sang trái, nào ngờ Lữ Tứ Nương đã sớm dự liệu, khi phát ám khí đã ngầm vận thủ pháp, ném mũi trủy thủ thứ nhất bay thẳng tới, còn mũi trủy thủ thứ hai khi bay đến gần địch thì đột nhiên lệch sang trái, mũi trủy thủ bay vù một tiếng lướt qua vai Cam Thiên Long, vạch áo trên vai của y, Cam Thiên Long cả kinh không dám đuổi theo. Đổng Cự Xuyên ném ra ba mũi thấu khống linh, hai mũi bị Lữ Tứ Nương đánh rơi, mũi thứ ba lướt qua vai Đường Hiểu Lan, khiến Đường Hiểu Lan cũng kinh hãi.
Hai người giao phong bằng ám khí, thế là đà chạy chậm lại, thị vệ trong cung từ bốn mặt bay ra, Lữ Tứ Nương múa kiếm dẫn đường, dắt Đường Hiểu Lan chạy tới chỗ kín đáo, lúc này cả hai đã vào ngự hoa viên ở hậu cung, vừa mớt lướt qua một hòn non bộ, đột nhiên một toán thị vệ xông ra, người ở phía trước trông rất lanh lẹ, Đường Hiểu Lan vừa nhìn thì nhận ra người đó là Hầu Tam Biến. Chợt thấy Hầu Tam Biến phóng ra một mũi hưởng tiễn, Đường Hiểu Lan thất kinh, thầm nhủ: “Hầu Tam Biến là bằng hữu của Châu Thanh, sao lại không nương tay với mình như thế?” mũi hưởng tiễn lướt qua đầu Lữ Tứ Nương, Lữ Tứ Nương phóng người lên, chạy về nơi mũi hưởng tiễn rơi xuống, Đường Hiểu Lan giật mình, chạy sát theo Lữ Tứ Nương, Hầu Tam Biến chạy vọt ra phía trước đuổi theo, liên tục phóng ra mấy mũi hưởng tiễn, có lúc bay về phía bên trái, có lúc bắn về bên phải, Lữ Tứ Nương cứ chạy về phía trước theo mũi hưởng tiễn, tự như mũi hưởng tiễn này chỉ đường cho nàng, lúc này bọn vệ sĩ đã lọt ở phía sau, còn nàng chạy vào khu cây cối um tùm, chẳng có ai cản trở!
Hưởng tiễn vừa hát, Lữ Tứ Nương chợt ngừng bước, cười nói: “Lãnh Thiền quả nhiên có cách hay!” trong bụi hoa chợt có một người phóng ra, nắm lấy Đường Hiểu Lan, nói: “Ngươi cũng đến!” Đường Hiểu Lan nhìn lại, thì ra đó là một nhà sư, chàng chưng hửng, chợt nhận ra rằng đây chính là Chúc Gia Thụ, người đã từng giao thủ với mình trong cung ngày trước. Lãnh Thiền kéo một cái, sử dụng tuyệt chiêu Cầm Nã thủ, xương tỳ bà của Đường Hiểu Lan bị ba ngón tay ông ta bóp vào, chàng nhúch nhích chẳng được. Lữ Tứ Nương vội nói: “Là người của chúng ta”. Lãnh Thiền ngạc nhiên nói: “Y chẳng phải là thị vệ trong cung sao?” Lữ Tứ Nương cười nói: “Y là con trai của Hải Đường!” Lãnh Thiền rùng mình, vội vàng buông ra, dắt hai người Đường Lữ vào một cái hang. Trong bóng tối, Đường Hiểu Lan chỉ thấy hai mắt ông ta sáng ngời, cứ nhìn chằm chằm mình. Lữ Tứ Nương nói: “Hiểu Lan, ông ta là bằng hữu của bá mẫu”. Đường Hiểu Lan xốn xang trong lòng, nước mắt tuôn trào. Lãnh Thiền nói: “Ngươi có gặp mẹ của ngươi không?” Đường Hiểu Lan nói: “Đã gặp!” Lãnh Thiền nói: “Ngươi dắt ta vào lãnh cung tìm bà ấy!” Đường Hiểu Lan nghẹn ngào nói: “Ông không cần tìm nữa! Mẹ tôi đã chết từ lâu!”
Lãnh Thiền ngẩng người, chợt thấy lạnh mình, ông ta đã đợi hơn ba mươi năm, đã làm hòa thượng mà vẫn chưa quên tình yêu, không ngờ đến nay ý trung nhân đã chết.
Lãnh Thiền nghe thế, chẳng nói nửa lời. Lữ Tứ Nương nói: “Việc chúng ta đã xong, hãy ra ngoài đi thôi”. Lãnh Thiền đau đớn vô cùng, hỏi Đường Hiểu Lan: “Chết lúc nào?” Đường Hiểu Lan nói: “Chết trong đêm ông vào cung”. Lãnh Thiền mặt xám mét, chợt bên ngoài cái hang có một bóng người lướt vào, Hầu Tam Biến bước vào, cười nói: “May mà bọn thị vệ của Dận Trinh vẫn chưa quen đường lối trong cung, nếu không các người chẳng chạy thoát”. Chợt thấy Lãnh Thiền có vẻ khác lạ, y mới hỏi: “Chúc đại ca, làm sao thế?” Lãnh Thiền nói: “Hải Đường đã chết!” Hầu Tam Biến nói: “Hải Đường đã chết? Chả trách nào lãnh cung đã bị đóng cửa, tôi tưởng bà ta đã bị đưa đến nơi nào khác”. Lãnh Thiền chợt nói: “Hải Đường tuy chết nhưng tôi cũng muốn vào lãnh cung xem thử nơi mà bà ta đã sống hơn hai mươi năm nay”. Hầu Tam Biến lặng lẽ không nói. Trong bóng tối, Đường Hiểu Lan trào nước mắt, nói: “Tôi cũng muốn đi một lần nữa”. Hầu Tam Biến nghĩ ngợi một hồi, thở dài nói: “Một triều thiên tử một triều thần, sau này tôi cũng không muốn ở trong cung nữa, tôi sẽ dắt các người đi một chuyến”.
Rất lâu sau, bên ngoài yên tĩnh, Hầu Tam Biến dắt bọn Lãnh Thiền theo đường nhỏ đến lãnh cung, tuy đôi lúc có người tra hỏi nhưng chẳng phải là người của Dận Trinh, Hầu Tam Biến chỉ cần nói ám ngữ là đi qua được. Đi một hồi, lại đến một hồ sen, nước trong hồ lấp lánh ánh sáng bạc, Hầu Tam Biến nói: “Gian nhà đá ở bên hồ sen chính là lãnh cung”. Đến trước lãnh cung, chợt thấy cánh cửa đá khép hờ, Hầu Tam Biến rất ngạc nhiên, Lãnh Thiền chạy tới phía trước, đẩy cửa bước vào, chợt nghe có người hỏi: “Ai đấy?”.
Té ra đó là hai cung nữ vào quét dọn. Lãnh Thiền hơi ngạc nhiên, hình như ông ta đã gặp hai cung nữ này ở đâu. Ông ta xông tới hỏi: “Các người có biết Hải Đường không?” hai cung nữ ấy hoảng hồn, nói: “Hòa thượng nhà ông vào đây làm gì thế?” Hầu Tam Biến bước tới, nói: “Y là người dắt đường cho Hoàng thượng, sao các ngươi không đáp lời?” Liễu Ân hòa thượng theo Dận Trinh vào cung, việc đó đã đồn ầm trong cung, hai cung nữ này tưởng Lãnh Thiền là “Bảo Quốc thiền sư”, sợ đến nỗi tái mặt, Lãnh Thiền quát: “Nói mau!” một người mới trả lời: “Hải Đường đã chết, chính tôi đã khiêng bà ta ra khỏi chỗ này!”
Ánh mắt Lãnh Thiền chợt hiện lên tia nhìn kỳ dị, ông ta đau đớn vặn tay, chợt hỏi: “Có phải khiêng ra bằng giường tre không?” cung nữ đáp: “Đúng vậy!” Lãnh Thiền đứng sửng ra, chợt nhớ lại chuyện lúc trước, bốn cung nữ khiêng một cái giường tre, trên giường có một người đàn bà bệnh hoạn đắp vải trắng, đầu tóc bạc phơ, sắc mặt rất đáng sợ, móng tay trông như vuốt gà. Chả lẽ trong đêm hôm ấy, người đàn bà xấu xí chính là nàng Hải Đường đẹp như tiên năm xưa hay sao? Nhìn kỹ lại, hai cung nữ này chính là hai người mà y đã gặp lúc đó. Vậy người đàn bà sắp chết kia chắc chắn là Hải Đường. Trong khoảng sát na, muôn vàn suy nghĩ đã dâng trào chợt trầm lắng xuống, Lãnh Thiền vừa trải qua một khoảnh khắc chưa từng có.
Hầu Tam Biến thấy Lãnh Thiền đứng sửng ra như pho tượng đá, mắt như đứng tròng, chỉ tưởng rằng ông ta đau đớn quá hóa điên, vội vàng kéo ông ta nói: “Chúc đại ca, hãy nên nhìn thoáng một chút”. Lãnh Thiền chợt cười ha hả: “Giải thoát khỏi cái túi gia thối tha, trả lại tướng trang nghiêm. Túi gia thối tha và tướng trang nghiêm vốn cùng một vật. Sắc tức là không, không tức là sắc, lúc này ta mới hiểu”.
Hầu Tam Biến thấy ông ta nói năng lung tung, lòng lo như lửa đốt, đang định tìm lời khuyên giải. Lữ Tứ Nương mỉm cười, chắp tay nói: “Chúc mừng đại sư đã hiểu ra thiên lý, từ rày Linh Sơn sẽ bằng phẳng!” Hầu Tam Biến và Đường Hiểu Lan ngạc nhiên, Lữ Tứ Nương nói: “Các người đừng quấy rối ông ta, ông ta đã hiểu ra mọi thứ”.
Lữ Tứ Nương cũng có nghiên cứu sâu sắc về kinh Phật. “Nhiên Đăng lục” có kể một câu chuyện, một cao tăng hỏi Phật Nhiên Đăng rằng: “Cổ Phật tâm là gì?” Phật Nhiên Đăng đáp rằng: “của cải tịnh châu nặng ba cân”. Và hỏi: “Đạo là gì?” Nhiên Đăng liền miệng nói: “Thiên cẩu quyết, thiên cẩu quyết!” khi hỏi lại, Nhiên Đăng lại giơ ngón tay nói: “Không thể nói không thể nói”. Đoạn “ngữ lục” này chính là Diệu đế đại thừa trong kinh Phật, có nghĩa là chân lý có khắp mọi nơi, trong những sự vật nhơ nhuốc nhất cũng sẽ thấy được thứ trang nghiêm nhất. Nhơ nhuốc và trang nghiêm vốn đối lập nhau, nhưng trong nhơ nhuốc vẫn ươm mầm giống mới, cũng giống như thế giới mới thoát thai từ thế giới cũ. Lãnh Thiền nhớ đến nàng Hải Đường xinh đẹp năm xưa, đến khi chết lại trở nên xấu xí như thế, lúc đầu không khỏi đau đớn muôn phần, nhưng tình cảm mau chóng tịnh hóa thăng hoa, đột nhiên thần trí sáng suốt.
Hai cung nữ thấy y tựa như điên dại, bộ dạng của Lãnh Thiền cũng không giống như Liễu Ân mà bọn thái giám đã tả, vì thế mới cẩn thận hỏi: “Các người có biết Vương đội trưởng không? Y sắp đến đây, chúng tôi còn phải quét dọn!”
Hầu Tam Biến nói: “Vương đội trưởng nào?” cung nữ đáp có vẻ nghi hoặc: “Nghe nói tên là Vương Lăng, các người đều là người theo Thánh thượng, chả lẽ không biết nhau?” Đường Hiểu Lan vừa kinh vừa mừng, thầm nhủ: “Đi mòn gót sắt mà chẳng thấy, kiếm được chẳng mất công phu”. Vội đáp: “Quen, quen chứ! Y là bằng hữu thân nhất của tôi, y sống ở đây à?” cung nữ trả lời: “Trời vừa sáng sẽ dọn tới, nên các tổng quản sai chúng tôi quét dọn nguyên đêm”. Đường Hiểu Lan nói: “Tốt lắm, chúng tôi đợi y ở đây” rồi đẩy cửa bước vào.
Bọn Hầu Tam Biến theo vào, Hầu Tam Biến nhìn sắc trời, khẽ nói: “Trời sắp sáng, các người chưa ra sao?” Lữ Tứ Nương cũng cảm thấy Đường Hiểu Lan có vẻ khác lạ, hỏi: “Vương Lăng là ai? Đợi chờ y làm gì, đến khi trời sáng rất khó ra”. Đường Hiểu Lan nói: “Y là sư huynh của tôi”. Rồi kể chuyện Vương Lăng phản thầy, đoạt sư tẩu. Lữ Tứ Nương vốn đã nghe chàng kể chuyện, có điều không nhớ Vương Lăng, nghe chàng nói thế mới cười rằng: “Té ra là thế, chúng ta phải ở lại trong cung thêm một ngày nữa”. Hầu Tam Biến cũng nói: “Trên đời có hạng tiểu nhân đê tiện như thế, họ Hầu này cũng không tha cho y”. Lãnh Thiền thì im lặng không nói, đi đi lại lại trong phòng, cầm cây dao cầm ở góc phòng lên, búng mấy tiếng, Đường Hiểu Lan nhớ lại chuyện xưa, bất giác buồn bã. Cung nữ bước vào nói: “Ồ, ở đây còn có một cây đàn cũ, ném đi thôi”. Lữ Tứ Nương nói: “Không cần, để ta mang ra ngoài cũng được”. Một hồi sau, sắc trời dần sáng. Bên ngoài có tiếng bước chân, Vương Lăng và hai tên thị vệ bước vào. Té ra y đã là một đội trưởng thị vệ nhỏ dưới trướng của Dận Trinh, Dận Trinh lên ngôi, y cũng theo vào cung. Lúc này Cáp Bố Đà cũng được thăng làm tổng quản thị vệ, Cáp Bố Đà biết võ công của Vương Lăng cũng bình thường, vì thế sắp xếp cho y làm một chức nhỏ, bảo y canh giữ ở một góc ngự hoa viên, cho y ở trong lãnh cung. Vương Lăng được phân vào ở trong cung điện, mặc cho có phải là lãnh cung hay không, trong lòng cũng rất đắc ý, vì thế mới sáng sớm đã đem hành lý tới, ngoài ra còn dắt theo hai tên thị vệ thuộc hạ.
Vương Lăng vừa bước vào lãnh cung đã ngửi thấy mùi ẩm mốc, y nhíu mày quát cung nữ: “Sao chưa quét sạch sẽ?” lại nói: “Vách tường này phải sơn lại một lượt”. Đang ra oai làm phúc, trong phòng chợt một người xông ra, Vương Lăng và hai tên thị vệ đã kêu thảm ngã xuống đất. Chỉ nghe Đường Hiểu Lan cười lạnh: “Vương thị vệ, lâu nay vẫn mạnh giỏi chứ? Giờ đây ngươi đắc ý, có còn nhận ra ta không?”.
Vương Lăng bị Đường Hiểu Lan dùng thủ pháp chớp nhoáng điểm ngã, sợ đến nỗi hồn bay phách tán, lúng túng nói: “Đường sư đệ, ngươi... ngươi...” Đường Hiểu Lan co chân đạp lên be sườn y, quát hỏi: “Phùng sư tẩu đâu?” Vương Lăng nói: “Không có ở đây”. Đường Hiểu Lan nói: “Có phải ngươi đã hại sư tẩu?” Vương Lăng nói: “Ngu huynh không dám”. Đường Hiểu Lan quát nói: “Ai xưng huynh gọi đệ với ngươi? Nói mau, sư tẩu ở đâu?” Vương Lăng nói: “Ta cũng không biết nàng ở đâu”. Đường Hiểu Lan cả giận, mũi chân hơi dùng lực, Vương Lăng đã đau đến nỗi chết đi sống lại, kêu: “Nàng đã thoát từ lâu!” Đường Hiểu Lan không tin, lại dùng lực đạp thêm một cái, Vương Lăng kêu thảm ngất đi. Hai ả cung nữ mặt tái mét đứng co rúm ở một góc. Lữ Tứ Nương nhảy ra, kéo họ vào trong phòng, mỉm cười nói: “Không cần dọa bọn chúng”.
Một hồi sau, Vương Lăng dần dần tỉnh dậy, Đường Hiểu Lan quát hỏi: “Ngươi còn không nói thực?”
Vương Lăng rên rỉ: “Nàng thực sự đã bỏ đi, ngươi có đánh chết ta ta cũng không biết nàng đi đâu”. Đường Hiểu Lan thấy y đau đến nỗi chết đi sống lại, thầm nhủ: “Sư tẩu võ công cao hơn y, có lẽ đã thực sự chạy thoát”. Rồi lại hỏi: “Chạy lúc nào?” Vương Lăng nói: “Vào kinh được ba ngày thì đã chạy”.
Đường Hiểu Lan đoán không sai, Quảng Luyện Hà vì võ công cao hơn Vương Lăng, may mà thoát khỏi miệng cọp, té ra năm ấy Quảng Luyện Hà bị Song ma bắt lại, trao cho Vương Lăng, Vương Lăng buộc nàng thành than, nàng bảo rằng: “Phải để tang cho cha và chồng, chưa đầy một trăm ngày không thể thành thân”. Vương Lăng có võ công không bằng nàng, không gần nàng được, sau khi đến kinh thành, hai tên ma đầu vào Vương Phủ, không còn gần gũi với Vương Lăng nữa. Trên đường Quảng Luyện Hà không dám bỏ chạy là vì sợ Song ma, nay Song ma đã đi, Vương Lăng chẳng phải là đối thủ của nàng, bị nàng đánh cho một trận rồi bỏ đi.
Hầu Tam Biến bước ra, nhíu mày: “Hỏi xong chưa? Trời sắp sáng rồi!”. Đường Hiểu Lan ngửa mặt cười thảm, kêu: “Phùng sư ca, hôm nay đệ báo thù cho huynh!” Rồi vỗ xuống một chưởng, đánh vỡ tim bên trái của Vương Lăng.
Hầu Tam Biến nói: “Chạy mau, coi chừng không kịp nữa!” Lúc này trời vừa sáng, tuyết vẫn chưa tan, ngoài vườn có tiếng tù và kêu lên tu tu, Hầu Tam Biến nói: “Tân tổng quản thật là vất vả, trời chưa sáng đã triệu tập thị vệ!” Rồi chạy ra khỏi lãnh cung, dắt theo bọn Lữ Tứ Nương.
Cáp Bố Đà trở thành tổng quản thị vệ trong cung, mới ngày đầu tiên mà chuyện lớn đã xảy ra, trong lòng rất bực dọc. Vì thế mới sáng sớm đã triệu tập thị vệ, chuẩn bị bỏ người cũ thay người mới. Vừa mới ra hoa viên, chợt thấy mấy bóng người chạy về góc Tây bắc, kẻ đi đầu là Lữ Tứ Nương. Cáp Bố Đà cả giận, thầm nhủ: “Ả tiện tì này thật lớn gan, dám qua đêm trong cung!”. Thế rồi vung hai tay lên, hai trái cầu tròn xé gió bay ra, Lữ Tứ Nương cười nói: “Huyết Trích Tử có thể làm gì được ta!” rồi phóng vọt người lên, cây Sương Hoa kiếm hất lên, ánh hào quang lướt tới, chém đứt Huyết Trích Tử, mười hai mũi khoái đao bên trong bắn ra bốn hướng, Hầu Tam Biến cũng bắt chước theo nàng, quét vù một gậy, đánh rơi trái Huyết Trích Tử vào trong đám thị vệ, một thị vệ vội vàng né tránh, Cáp Bố Đà kêu lớn: “Đuổi theo mau!” bọn Lữ Tứ Nương đã vọt qua mấy hòn non bộ, chạy đến cửa Thuận Trinh.
Hầu Tam Biến thở phào, chợt nghe có tiếng quát lớn, bên trái có Đổng Cự Xuyên, bên phải có Thiên Diệp Tản Nhân dắt thị vệ phóng tới, Lữ Tứ Nương và Hầu Tam Biến nói: “Theo ta!” Bên ngoài cửa Thuận Trinh là Cảnh Sơn, có quá nửa người giữ cửa là thị vệ cũ, Hầu Tam Biến chạy tới phía trước, quát: “Có thích khách chạy ra ngoài, các người có thấy không?” Thị vệ canh cửa nói: “Không thấy!” Hầu Tam Biến nói: “Mau mở cửa để ta đuổi theo!” Bọn thị vệ mới thấy bốn người bọn họ có nhà sư có thiếu nữ thì rất nghi hoặc, quát hỏi: “Các người là ai?” Hầu Tam Biến nói: “Ngự tiền thị vệ...” trong lúc hỗn loạn cánh cửa sắt bật mở, bọn bốn người Hầu Tam Biến phóng ra. Đến khi Đổng Cự Xuyên đuổi tới, cửa sắt đã đóng trở lại. Các thị vệ cũ tra xét thân phận của y, đến khi rõ ràng thì bọn Lữ Tứ Nương đã mất dạng. Cáp Bố Đà nổi cáu nhưng cũng không thể nào trách các thị vệ cũ. Bởi vì Hầu Tam Biến đúng là ngự tiền thị vệ rất có thế trong cung trước kia, không ngờ rằng tiên đế vừa chết y đã làm phản.
Lại nói bọn Lữ Tứ Nương được Hầu Tam Biến giúp đỡ chạy ra khỏi đại nội, Đường Hiểu Lan nói: “Lữ tỷ tỷ, thanh kiếm của đệ đã bị Liễu Ân đoạt mất”. Lữ Tứ Nương nói: “Sau này sẽ tìm y tính sổ. Chúng ta về chỗ thất ca thương lượng”. Hầu Tam Biến cũng nói: “Sau lần này, các thị vệ cũ chắc chắn sẽ bị trách tội. Nhân sự trong cung có điều động, phòng bị càng ngặt nghèo hơn, chúng ta không thể mạo hiểm nữa”.
Bốn người về đến Tây Sơn, Bạch Thái Quan bước ra mở cửa cười nói: “Sao lúc này các người mới quay về, suýt nữa thất ca và Quan Đông tứ hiệp đã vào cung tìm các người...”. Lãnh Thiền cười nói: “Quan Đông tứ hiệp cũng đến rồi ư?” Rồi phóng vào trong.
Lữ Nương và Đường Hiểu Lan lần lượt chào hỏi Quan Đông tứ hiệp, Lang Nguyệt thiền sư nói: “Bốn huynh đệ chúng tôi lần này thảm bại trong tay một thiếu nữ và một lang trung giang hồ đó...”. Lãnh Thiền kinh hãi nói: “Sao? Các người đã động thủ với họ?” Trần Nguyên Bá kéo tay áo chỉ vết đao trên tay, nói: “Ả tiểu nha đầu ấy thật độc ác, nếu không phải Huyền Phong đại ca biết y thuật, tôi đã mất cánh tay này!”.
Liễu Tiên Khai nói: “Lần này chúng tôi đến Bắc Kinh, khi đi ngang qua Vinh Dương, Huyền Phong đại ca có việc, bảo chúng tôi đi trước, chúng tôi vừa đến Hổ Lao Quan thì đã gặp một tiểu nha đầu và một thiếu niên đi cùng đường”. Đường Hiểu Lan nói: “Tiểu nha đầu nào thế?” Trần Nguyên Bá nghiến răng nói: “Chính là tiểu nha đầu mà Dận Trinh nuôi dưỡng, lần trước đại náo tứ vương phủ, chúng tôi đã gặp ả. Bởi vậy tôi thấy ả đáng yêu mới bước tới hỏi, nào ngờ ả vung tay phóng ba mũi phi đao, khoảng cách quá gần, tôi né không kịp nên đành gồng tay lên chịu đựng. Không ngờ võ công của ả nha đầu cũng rất cao cường, mũi phi đao ở giữa đâm vạch một đường trên cánh tay của tôi, da thịt lập bức bầm đen, té ra ả sử dụng phi đao tẩm độc!” Đường Hiểu Lan kêu: “Ồ, chắc chắn đó là Phùng Lâm!” Lữ Tứ Nương lại nói: “Có phải chàng thiếu niên đi cùng ả nha đầu sử dụng kiếm pháp rất kỳ lạ hay không?” Liễu Tiên Khai nói: “Đúng thế”. Lữ Tứ Nương nói: “Vậy ả nha đầu không phải là Phùng Lâm, mà là đệ tử quan môn của Dịch lão tiền bối”. Đường Hiểu Lan nói: “Phùng Anh ra tay không độc địa như thế, với lại cũng không biết dùng phi đao tẩm độc. Khi tôi ở Thiên Sơn, cũng từng gặp nàng, nàng ta rất hiền lành!” Lữ Tứ Nương rất ngạc nhiên, hỏi: “Nghe nói điệt nữ của đệ là tỉ muội song sinh, ắt hẳn rất giống nhau?” Đường Hiểu Lan nói: “Cả đệ cũng không phân biệt được”. Lữ Tứ Nương nói: “Phải rồi, chắc chắn Lý Trị đã nghĩ cô em là cô chị!” Liễu Tiên Khai nói: “Lý Trị là ai?” Lữ Tứ Nương nói: “Là con trai của Võ Quỳnh Giao trong Thiên Sơn thất kiếm”. Liễu Tiên Khai kêu ối cha một tiếng, nói: “Sao lại thế? Tôi đã giao thủ với y, tôi trúng một kiếm, y cũng trúng một vòng kim hoàn. Nếu Võ lão tiền bối mà biết chắc sẽ trách cứ đây!” Đường Hiểu Lan nói: “Võ lão tiền bối đã tu luyện đến mức lư hỏa thuần thanh, chắc là sẽ không giận”. Lữ Tứ Nương nói: “Liễu đại hiệp, các người hãy kể chuyện trước rồi tôi sẽ cho biết lai lịch cô ả nha đầu ấy”.
Liễu Tiên Khai nói: “Sau khi tứ đệ trúng phi đao tẩm độc của tiểu nha đầu, tôi động thủ với thiếu niên, cả hai đều bị thương, ả nha đầu còn muốn đuổi theo, may mà tôi giỏi khinh công mới cứu được tứ đệ. Chuyện sau đó, Huyền Phong đại ca sẽ nói...”
Huyền Phong nói: “Tôi để họ đi trước một đoạn, nào ngờ lại xảy ra chuyện, họ quay trở về gặp tôi, lúc đó tôi nổi cáu phải tìm cho bằng được ả nha đầu. Tôi nghĩ thiếu niên ấy đã bị thương, ắt hẳn không thể chạy xa được. Tôi băng bó vết thương cho tam đệ và tứ đệ liền đến vùng núi gần Hổ Lao quan tìm khắp, cho đến tối mới phát hiện thiếu niên nhưng chẳng thấy tiểu nha đầu đâu cả. Đột nhiên một tên lang trung giang hồ quái dị xuất hiện, thật không ngờ!” Lãnh Thiền thầm cười: “Những kẻ đã uy danh như Quan Đông tứ hiệp mà bại trong tay ả tiểu nha đầu ấy, chả trách nào Huyền Phong không tức giận. Nhưng gặp phải sư phụ của mình mà còn làm dữ, trách ai được”. Nhưng ông ta không nói ra, chỉ mỉm cười bảo: “Huyền Phong đạo trưởng, thật không ngờ thế nào?”.
Huyền Phong nói: “Thiếu niên đã gặp chúng tôi, khẽ nói mấy câu với lão lang trung. Lão lang trung ấy nổi giận, không đợi chúng tôi lên tiếng đã vung gậy đánh tới, chao ôi, đánh một hồi chúng tôi bỏ chạy”.
Lãnh Thiền mỉm cười, biết trong Quan Đông tứ hiệp, Huyền Phong lớn tuổi nhất, bản lĩnh cao cường nhất nhưng cũng là kẻ háo thắng nhất, liền nói: “Huyền Phong đạo trưởng đừng nổi giận, thua trong tay lang trung ấy có là gì”. Huyền Phong nổi sùng nói: “Ông còn nói, tôi thấy thủ pháp của lão và ông rất giống nhau, chắc là cùng một môn hộ!” Lãnh Thiền cười: “Đâu chỉ là cùng môn hộ, ông ta là sư phụ của tôi, và lão tiền bối ở Thiên Sơn chính là tỷ tỷ của người, người đã đắc tội với các vị, kẻ làm đồ đệ này xin lỗi các vị”. Huyền Phong cả kinh, chẳng nói ra lời. Lãnh Thiền nói: “Đã ba mươi năm qua người không đến Trung Nguyên nên không biết các vị, mong đạo trưởng đừng giận”. Huyền Phong cười ha hả: “Nếu đã là ông ta, chúng tôi thua cũng chẳng còn lời gì mà nói”. Lăng Nguyệt thiền sư nói: “Đại sư hình như không lớn tuổi hơn ông ta bao nhiêu”. Lãnh Thiền nói: “Đến tuổi trung niên tôi mới theo thầy học nghệ”. Cam Phụng Trì lại bảo: “Đáng tiếc ả tiểu nha đầu lại biến mất, các vị động thủ với Võ lão tiền bối mà ả vẫn không xuất hiện sao?” Huyền Phong bảo: “Không”.
Số là sau khi Phùng Lâm được Niên Canh Nghiêu thả đi, một lòng muốn học nội công chính tông, đêm ấy giả thần giả quỷ, dụ Lý Trị đi ra, Lý Trị thấy nàng rất vui. Phùng Lâm nói: “Cựu cựu của ngươi có việc lên Nam Sơn trước, bảo chúng ta đuổi theo”. Võ Quỳnh Giao vốn đã nhờ em trai âm thầm lo lắng cho con mình, nên trước khi đấu với Liễu Ân ở Hàng Châu, Võ Thành Hóa đều không gặp mặt. Phùng Lâm nói đùa một hồi mà lại trúng. Lý Trị nghĩ thầm: “Chắc là mẹ và cựu cựu muốn mình lăn lộn giang hồ nên cựu cựu không đi cùng với mình”. Rồi lại nghĩ: “Phùng Anh rất quen thân với cựu cựu, ắt hẳn sẽ không lừa mình”. Vì thế mới yên tâm theo Phùng Lâm rời khỏi Hàng Châu.
Trên suốt quãng đường Phùng Lâm nghĩ đủ mọi cách hỏi chàng bí quyết nội công, Lý Trị chỉ tưởng đó là Phùng Anh nên không hề cảnh giác, nói hết mọi thứ mà mình biết. Phùng Lâm chẳng ghét cũng chẳng thương Lý Trị, đi cùng với chàng chỉ có mục đích là lừa chàng truyền thụ tâm pháp nội công, nay mục đích đã đạt nên mới nghĩ cách bỏ chàng.
Thật trùng hợp, khi họ sắp đến Nam Sơn, thì gặp Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá ở Hổ Lao quan, Phùng Lâm dùng phi đao tẩm độc đả thương Trần Nguyên Bá, Lý Trị cũng đâm Liễu Tiên Khai một kiếm, nhưng Liễu Tiên Khai khinh công cao cường, Lý Trị cũng trúng một đòn của ông ta vào chỗ yếu hại, lập tức bị trọng thương. Phùng Lâm đỡ chàng đến chỗ rừng rậm, để lại một túi thuốc giải rồi lặng lẽ bỏ đi.
May mà Võ Thành Hóa đuổi theo sau, đến bìa rừng nghe Lý Trị rên rĩ, bước vào xem, thấy chàng trọng thương mới mở bao thuốc giải ra xem, thì thấy toàn là những thứ thuốc quý mới lập tức bôi cho chàng, đến khi hỏi ra mọi lẽ thì thấy rất lấy làm lạ. Ông ta nói: “Linh dược của Thiên Sơn tuy nhiều, nhưng Diệp lão tiền bối không có loại thuốc giải này”. Ông ta không biết rằng đó là thuốc Phùng Lâm lấy trong phủ Dận Trinh. Lý Trị cũng nổi lòng nghi ngờ, cả hai cậu cháu chưa kịp nói rõ, Quan Đông tứ hiệp đã nhất tề kéo tới.
Số là Quan Đông tứ hiệp mỗi người đều có võ công độc môn, nếu lấy một địch bốn, Võ Thành Hóa chắc không bại nhưng cũng chẳng chiếm được phần hơn, nhưng Liễu Tiên Khai và Trần Nguyên Bá đã bị thương, mà Lý Trị sau khi được bôi thuốc giải, cánh tay đã vận động tự nhiên, cả hai cậu cháu liên thủ, đã đánh Quan Đông tứ hiệp đại bại, may mà họ không đuổi theo.
Quan Đông tứ hiệp kể xong, Lữ Tứ Nương cũng nói ra lai lịch của Lý Trị và Phùng Lâm, ai nấy đều than thở. Đường Hiểu Lan nói: “Tôi thề sẽ tìm lại điệt nữ, nay mới biết tung tích của nó, tôi phải đi Hà Nam một chuyến”. Cam Phụng Trì nghĩ ngợi một hồi, nói: “Đệ hãy trở về chỗ Dận Đề trước. Huynh đoán Dận Trinh lên ngôi, chắc chắn không để Dận Đề ở lại kinh thành, nếu y cầm quân đánh phía Tây, chắc chắn sẽ đi qua Hà Nam. Đệ đến nơi hãy tùy cơ ứng biến, xúi dục huynh đệ bọn chúng đánh một trận. Dù không thành cũng lôi kéo được người Hán trong quân”. Ngập ngừng rồi lại nói: “Lẽ ra chúng ta phải tụ tập nghĩa quân, dựng cờ nghĩa. Nhưng đệ đã mất rất nhiều tâm huyết mới lấy được lòng tin của Dận Đề, bỏ qua cơ hội này thật đáng tiếc”. Lữ Tứ Nương đảo mắt, đang định lên tiếng, Cam Phụng Trì đã nói tiếp: “Bát muội sợ Đường hiền đệ một mình vào chốn nguy hiểm, nhưng trong quân của Dận Đề cũng có các huynh đệ. Vả lại, sau khi chúng ta biết được chính xác ngày giờ Dận Đề xuất phát, chúng ta phải chia thành từng tốp đến Hà Nam”. Lữ Tứ Nương nghĩ bụng rồi lại nói: “Cũng được, chúng ta lên Nam Sơn tảo mộ sư phụ, xong xuôi rồi trở về Tiên Hà lĩnh”.
Cam Phụng Trì đã đoán trúng ý nghĩ của Dận Trinh, y quả nhiên không để Dận Đề ở lâu trong kinh thành. Đêm ấy sau khi biết Dận Trinh lên ngôi, Dận Đề rất tức giận, suốt đêm quay lại chỗ đóng quân, không ngờ Niên Canh Nghiêu đã dùng thủ đoạn như sấm chớp tước đoạt binh quyền của y. Té ra Niên Canh Nghiêu vừa đến đã triệu tập các võ quan của hai mươi bốn doanh trong quân Dận Đề đến, tuyên bố Dận Trinh nối ngôi, bảo phải trung thành với bọn họ. Các tướng lĩnh này tuy là tâm phúc của Dận Đề, mong muốn Dận Đề lên nối ngôi nhưng vừa nghe nói Dận Trinh đã ngồi lên ngai vàng, quá nửa đã đổi lòng, bọn chúng chỉ cần giữ công danh lợi lộc của mình là đủ, lại còn có kẻ đã manh nha phản bội. Đến chiều hôm ấy, chiếu chỉ đổi niên hiệu thành Ung Chính đã ban ra, cả các võ quan ở Phi Long quân, các quân đáng tin cậy nhất của Dận Đề cũng dao động.
Dận Đề trở về trong quân, suốt đêm triệu tập các tướng lĩnh tâm phúc bàn bạc, trong mười hai viên thống lĩnh của quân Phi Long có đến bảy người không tán thành đối chọi với Niên Canh Nghiêu, phó thủ của Dận Đề là Bác Khắc Đồ cũng nói: “Tứ bối lạc đã lên ngôi báu, Niên Canh Nghiêu thay mặt thiên tử ra lệnh cho chư hầu, nếu chúng ta muốn trừ y, chỉ e lòng quân không nghe”. Dận Đề im lặng không nói, thầm nhủ: “Các tướng lĩnh thân tính nhất mà cũng nói như thế, chắc chắn là chẳng thể bàn được với các doanh khác”. Rồi lại nghĩ: “Ở lại núi xanh sợ gì không có củi đốt, Niên Canh Nghiêu dù lớn mạnh hơn nữa nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng của mình, binh quyền vẫn còn trong tay mình, mình có thể tạm thời nhẫn nhịn, sau này xuất chinh Tây vực, có thể dùng kế mượn đao giết người, đẩy cánh quân của Niên Canh Nghiêu đi tiên phong, để cho kẻ địch tiêu diệt y. Lúc đó đã cách kinh thành ngàn dặm, dù mình không thể đoạt ngôi báu nhưng cũng có thể tự củng cố, làm vua ở Tây vực, chẳng còn bị Dận Trinh bức hiếp”. Thế là ý vua đã quyết, liền bảo: “Nếu như thế, cứ để tên tiểu tử Niên Canh Nghiêu làm phó tướng, nhưng chúng ta phải phòng bị y”. Các tướng lĩnh quay ra, Dận Trinh lại cùng Bác Khắc Đồ bàn bạc, Bác Khắc Đồ cũng tán thành. Sáng sớm hôm sau Dận Đề lập tức dâng sớ xin được Tây chinh. Rồi mới gởi sớ đi, trung quân báo Đường Hiểu Lan xin gặp. Dận Đề cả mừng, truyền chàng vào trướng, nói: “Hoạn nạn mới thấy lòng người, khi ta thất thế chỉ có ngươi mới giúp ta. Ta chắc chắn không đối xử tệ với ngươi”. Rồi lại hỏi Đường Hiểu Lan làm sao thoát được, Đường Hiểu Lan nói: “Đêm qua trong đại nội có thích khách, tiểu nhân thừa lúc hỗn loạn chạy ra ngoài”. Dận Trinh đoán những thích khách ấy là do các bối lạc khác phái đến, thế là liền thăng Đường Hiểu Lan làm phó tổng binh quan của cận vệ quân, xếp ngang hàng với Xa Tịch Tà và Phương Kim Minh.
Dận Trinh nhận được tấu sớ, trong bụng rất mừng, liền truyền thánh chỉ bảo Dận Đề sang năm mới sẽ lập tức cầm quân đánh Tây vực. Đồng thời từ đó y lại nghĩ cách xử trí bọn người Liễu Ân, điều Liễu Ân, Tát Thiên Thích, Tát Thiên Đô, Đổng Cự Xuyên, Cam Thiên Long đến chỗ Niên Canh Nghiêu, bảo họ giúp Niên Canh Nghiêu Tây chinh, rồi âm thầm cho gọi Niên Canh Nghiêu, bảo rằng: “Trong số năm tên này ngoại trừ Đổng Cự Xuyên hiểu đại thể ra, bốn người kia đều là kẻ dã tính khó thuần, sau khi Tây chinh, nếu bốn tên này chưa chết ngươi hãy trừ bọn chúng cho trẫm”. Niên Canh Nghiêu lạnh mình, nổi da gà, nhưng nghĩ kỹ lại, cảm thấy Dận Trinh tin tưởng mình, y vừa tin vừa mừng, vội vàng dập đầu nhận chỉ. Y không ngờ rằng, mặt khác, y cũng căn dặn năm người này canh chừng Niên Canh Nghiêu. Đó là thủ pháp chế ngự các công thần của Dận Trinh.
Chớp mắt năm mới đã đến, Dận Đề dùng danh nghĩa Phủ viễn đại tướng quân, cầm quân Tây chinh, Niên Canh Nghiêu là Phó đại tướng quân, được thăng lên làm ba cấp, Dận Trinh lại phái năm vạn tinh binh cho Niên Canh Nghiêu nắm giữ, nên Niên Canh Nghiêu tuy làm phó tướng nhưng thực lực lại ngang bằng với Dận Đề, đôi bên phải đề phòng lẫn nhau.
Một tháng sau, đại quân đã đến trấn Chu Tiên tỉnh Hà Nam, cách quê hương Trần Lưu của Niên Canh Nghiêu không đầy một ngày đường, Niên Canh Nghiêu hạ lệnh cho đại quân nghỉ ngơi ba ngày. Hôm nay, Đường Hiểu Lan cùng vài võ quan trong cận vệ quân đến trấn uống rượu, đứng trên lầu cao nhìn về phía Bắc thấy Khai Phong, nhìn về phía Nam thấy Hứa Xương, tình thế quả nhiên hiểm yếu, nhớ lại đây chính là nơi năm xưa Nhạc Võ Mục đại phá quân Kim, lòng cảm khái muôn phần, thầm nghĩ Mãn Châu nhập quan, tàn bạo còn hơn cả năm xưa quân Kim chiếm Tống, lòng nghĩ mình lấy thân phận người Mãn dự vào việc phục quốc của người Hán, chàng thật không ngờ đến điều này. Đang suy nghĩ mông lung, chợt thấy dưới lầu ồn ào.
Đường Hiểu Lan bước xuống lầu xem, thì thấy có đám dân ùa nhau chạy trốn, Đường Hiểu Lan kéo một người hỏi: “Chuyện gì?” Người ấy thấy Đường Hiểu Lan ăn mặc theo kiểu võ quan, nói: “Đại nhân thứ tội, tiểu nhân sống theo vương pháp, không phải là kẻ xấu”. Đường Hiểu Lan nói: “Ngươi bảo gì thế?” người ấy thấy Đường Hiểu Lan ra vẻ thân thiện, y yên tâm nói: “Bên ngoài trấn có một toán quân, nghe nói là đến bắt tù phạm”. Đường Hiểu Lan buông tay, thầm nhủ: “Thật là lạ, đang lúc hành quân sao lại bắt tù phạm? Dận Đề và Niên Canh Nghiêu xưa nay trị quân rất nghiêm, không thể bảo có chuyện xua quân đi quấy rối, với lại đại quân đóng ở ngoài trấn, ngoại trừ các võ quan, binh sĩ không được vào thành, toán quân này ở đâu tới đây?” Chàng đang suy nghĩ, thấy phía trước bụi cuốn mù trời, người càng lúc càng đông, Đường Hiểu Lan cũng bị dòng người đẩy đi mấy bước, đột nhiên bị người ta đẩy mạnh một cái, Đường Hiểu Lan luyện võ nhiều năm, bị người ta đẩy một cái, chợt cảm thấy khác lạ, thế là chàng sờ vào người, túi tiền, bảo kiếm và mảnh Hán bạch ngọc của Khang Hy đã không còn nữa. Túi tiền thì không sao còn thanh kiếm là do Dận Đề tặng cho, phải lấy về cho bằng được, thế là chàng vung hai tay, lướt ra khỏi đám người, chỉ thấy phía trước có một người trừng mắt nhìn mình, cây kiếm của mình thì đeo bên hông của y, mảnh kháng bạch ngọc đang trong tay của y. Đường Hiểu Lan nổi cáu, co giò đuổi theo, thật là kỳ lạ, người ấy không lẫn vào đám đông mà cứ chọn những chỗ ít người lẫn vào, Đường Hiểu Lan nổi lòng nghi ngờ, đuổi sát theo sau.
Người ấy càng chạy càng nhanh, vả lại còn ngược hướng với chỗ đóng quân, Đường Hiểu Lan phấn chấn tinh thần, thi triển khinh công thượng thừa đuổi theo như điện chớp, càng chạy càng xa. Đường Hiểu Lan dốc hết bản lĩnh mà chẳng đuổi theo kịp, Đường Hiểu Lan rất kinh hãi. Khing công của chàng tuy không bằng Lữ Tứ Nương nhưng cũng hiếm thấy trong giang hồ, thế nhưng khinh công của người này còn cao hơn cả Đường Hiểu Lan, xem ra chẳng kém gì Vạn Lý Truy Phong Liễu Tiên Khai, rõ ràng đây không phải là kẻ trộm bình thường.
Đường Hiểu Lan giật mình, cố y chậm bước, người ấy hình như có mắt sau lưng, bước chân cũng chậm lại, Đường Hiểu Lan kêu lên: “Bằng hữu ở trước mặt, chúng ta không quen biết nhau, cớ gì lại trêu đùa như thế?” người ấy quay lại làm mặt xấu, nói: “Thanh kiếm vô dụng này đáng mấy đồng tiền, mảnh ngọc cũng chỉ có vài ba lạng bạc!” Đường Hiểu Lan chợt tung người vọt tới, chụp lấy y, người ấy kêu lên: “Ôi chao, không xong!” rồi hít ra một cái, lướt ra mấy trượng, cười nói: “Còn may, không thất thủ!” Đường Hiểu Lan chụp mấy viên sỏi, dùng thủ pháp Liên châu đạn ném về phía y. Vì chàng chưa biết lai lịch của y, nên không cố ý đánh y, chỉ dùng mấy phần lực, cố ý ném viên đá cách đỉnh đầu y mấy tấc, mục đích chỉ là muốn dọa y, thế nhưng người ấy đột nhiên tung người lên, viên sỏi trúng vào ót của y kêu lên bốp bốp lăn ra, người ấy ôm đầu kêu: “Tên bổ khoái này thật lợi hại! Ta sẽ chạy đây!” rồi co giò đuổi theo càng nhanh hơn.
Đường Hiểu Lan thấy rất ngạc nhiên, thầm nhủ: “Cao nhân như thế này không thể bỏ qua”. Kêu: “Anh hùng ở trước mặt, tôi xin cam bái hạ phong, xin mời ngừng bước nói chuyện”. Người ấy vẫn không màng đến, tiếp tục chạy về phía trước. Đường Hiểu Lan tức giận nói: “Sao lại có kẻ không thông tình đạt lý đến thế?” rồi đuổi gấp theo về phía trước, chạy được một hồi đã vào khu núi.
Đường Hiểu Lan tính toán cước trình, lúc này đã cách thị trấn Chu Tiên hai ba mươi dặm, chợt nghĩ: “Chả lẽ kẻ này cố ý dụ mình đến đây?” người ấy bước chậm lại, Đường Hiểu Lan đã vào trong sơn cốc, trong sơn cốc phủ đầy tuyết, ánh ngân quang lấp lánh, trong cốc có một căn nhà cỏ, Đường Hiểu Lan dừng lại, không dám tiến bừa vào. Người ấy quay đầu lại, vung tay lên, một vật lướt qua trước mặt chàng, Đường Hiểu Lan giơ tay chụp lấy, té ra đó là thanh kiếm của chàng, người ấy lại vung cả hai tay, ném túi tiền và mảnh kháng bạch ngọc đến, đột nhiên thở dài, lắc đầu nói: “Ngươi đối với chuyện bên ngoài thì coi trọng đến thế, thế mà chẳng biết tiếc thương cho tính mạng của mình, thật đáng buồn! Nếu ngươi đã coi tiền tài quý giá như thế, ta trả lại cho ngươi để ngươi khỏi bám lấy ta như một oan hồn”. Đường Hiểu Lan nghe nói thế thì chưng hửng, nói: “Vãn bối nào dám coi trọng tiền tài, mong tiền bối chỉ điểm lối mê”. Người ấy quay đầu lại nói: “Tiền bối vãn bối cái gì, ta ghét nhất thứ lễ nghĩa ấy. Ta hỏi ngươi, nếu ngươi không quý tiền tài, chẳng qua ta chỉ lấy ba món đồ của ngươi, sao ngươi lại liều mạng đuổi theo ta làm gì”. Đường Hiểu Lan nói: “Vãn bối mạo muội muốn kết giao cùng cao nhân”. Người ấy cười ha hả: “Ngươi nói lời không đúng với lòng, tuy ta mới lấy đồ của ngươi, ngươi làm sao biết ta là cao nhân?” đúng là lúc đầu Đường Hiểu Lan cứ tưởng y là kẻ trộm, chàng cứng họng chẳng nói gì được. Người ấy nói: “Rõ ràng ngươi chẳng nỡ lòng bỏ mấy món đồ này, có đúng không?” Đường Hiểu Lan nói: “Thanh kiếm là do một người bằng hữu tặng, tôi không muốn làm mất, nhưng đuổi theo mới phát hiện người là cao nhân”. Người ấy cắt lời: “Bằng hữu gì? Có phải quan trên của ngươi tặng cho hay không?” Đường Hiểu Lan chưng hửng, người ấy lại cười nói: “Ngươi sợ mất thanh kiếm, Dận Đề hỏi tới sẽ chẳng biết trả lời thế nào, có đúng không? Nếu không thanh kiếm này cũng chẳng phải là báu vật, ngày ấy Du Long kiếm của ngươi đã mất tại sao thanh kiếm này không thể mất?” Đường Hiểu Lan thấy người này biết rõ mọi chuyện của mình, chàng càng thấy cao thâm khó lường. Người ấy cười ha hả: “Người tặng kiếm cho ngươi giờ đây khó giữ thân, nào còn hỏi đến thanh kiếm của ngươi?” Đường Hiểu Lan càng thất kinh, người ấy nói: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi còn chưa biết sao?” Đường Hiểu Lan giật thót tim, chẳng hiểu ất giáp gì cả, người ấy nói: “Được, nếu ngươi không tin, ta cho ngươi gặp một người!” Rồi y chúm miệng huýt một tiếng sáo, một người từ trong nhà bước ra, Đường Hiểu Lan vừa nhìn thì lại thất kinh!
Người này chính là Phương Kim Minh, chỉ nghe Phương Kim Minh nói: “Đường huynh, huynh không sao chứ?” Đường Hiểu Lan nói: “Phương huynh, làm sao huynh lại ở đây?” Phương Kim Minh nói: “Huynh hãy vào đây, tôi sẽ từ từ nói cho huynh biết”.
Vào trong ngôi nhà cỏ, Đường Hiểu Lan hỏi họ tên người ấy, người ấy cười ha hả, hai tay đều vươn cả ra, Đường Hiểu Lan vẫn chưa hiểu gì, khi nhìn kỹ lại mới thấy hai tay người ấy khác hẳn người thường, người bình thường mỗi bàn tay có năm ngón tay, còn y mỗi bên lại mọc thêm một ngón, hai tay có cả thảy mười hai ngón, chàng chợt hiểu ra, kêu lên: “Huynh có phải là Thập nhị chỉ diệu thủ thần thâu Trần Đức Thái hay không?” người ấy khẽ gật đầu, cười nói: “Đúng thế”.
Đường Hiểu Lan mở to mắt, càng lúc càng nghi hoặc, tất cả chuyện hôm nay tựa như một cơn mơ.
Té ra Trần Đức Thái là đại cửu của Cam Phụng Trì, cũng có tiếng tăm trên giang hồ. Đường Hiểu Lan thầm nhủ: “Phương Kim Minh và Xa Tịch Tà là tâm phúc của Dận Đề, tại sao Phương Kim Minh lại đi cùng với đại cửu của Cam Phụng Trì, thêm nữa trông có vẻ như bằng hữu thân thiết?” Phương Kim Minh buồn bã nói: “Hôm nay chúa công e rằng khó thoát nạn lớn!” Đường Hiểu Lan lại giật mình, Phương Kim Minh vẫn gọi Dận Đề là chúa công, vậy y và Cam Phụng Trì rõ ràng không cùng một đường, nhưng tại sao lại như thế? Phương Kim Minh nói: “Nếu không phải Trần đại ca dụ huynh đến đây, e rằng mạng huynh đã khó giữ!” Trần Đức Thái đứng một bên nói: “Thế nào, ta không lừa ngươi chứ” Đường Hiểu Lan vái một cái, nói: “Đa tạ Trần đại ca đã cứu mạng, mong được nói rõ”. Trần Đức Thái nói: “Ngươi nên đa tạ Phương đại ca, nếu không có y, ta cũng không biết ngươi đang uống rượu ở ngoài trấn”.
Phương Kim Minh nói: “Huynh có biết Du Long kiếm của huynh đang ở đâu không?” Đường Hiểu Lan nói: “Kiếm của tôi đã bị Liễu Ân đoạt mất, chắc là trong tay Liễu Ân”. Phương Kim Minh nói: “Huynh có biết Liễu Ân đang ở đâu không?” Đường Hiểu Lan nói: “Chẳng phải ở trong cung sao?” bọn năm người của Liễu Ân ở trong trại của Niên Canh Nghiêu, quân của Niên Canh Nghiêu là một cánh khác, nên Đường Hiểu Lan không biết. Phương Kim Minh nói: “Không những Liễu Ân không có trong cung, kiếm của huynh cũng không phải trong tay Liễu Ân, hôm nay Niên Canh Nghiêu cất binh dành quyền chủ soái, thanh kiếm của huynh đã giúp cho y một tay”. Đường Hiểu Lan càng nghe càng lạ, Trần Đức Thái nói: “Liễu Ân ở trong trại Niên Canh Nghiêu, còn Du Long kiếm của huynh đã lọt vào tay Xa Tịch Tà”.
Té ra Phương Kim Minh vốn là một Bang chủ ở Giang Nam, Dận Đề chiêu nạp hiền sĩ, khoảng mười năm trước đã lôi kéo được y. Trước khi y đi theo Dận Đề, đã từng quen biết Cam Phụng Trì nên cũng gặp mặt Trần Đức Thái mấy lần.
Phương Kim Minh nói rõ lại lịch của mình cho Đường Hiểu Lan nghe, sau đó mới bảo: “Chúa công tay nắm binh quyền, Dận Trinh đương nhiên không buông tha, nhưng khi ở trong cung sợ các bối lạc khác nổi cáu nên y không dám ra tay. Nhưng đợi sau khi Niên Canh Nghiêu đoạt được binh quyền sẽ bảo Niên Canh Nghiêu hạ thủ”. Đó vốn là chuyện trong ý liệu của Đường Hiểu Lan nhưng chàng vẫn hỏi: “Làm sao huynh biết?” Phương Kim Minh nói: “Xa Tịch Tà thích thanh bảo kiếm, Liễu Ân đã tặng kiếm của huynh cho y, lại lấy công danh lợi lộc dụ dỗ, bảo y phản bội chúa công. Xa Tịch Tà chấp nhận ngay, Niên Canh Nghiêu lại bảo y đến thuyết phục ta. Ta không chịu phản bội chúa công nhưng đã quen biết Xa Tịch Tà mười năm, cũng không muốn lập tức báo cho chúa công hay, bởi vậy ta dùng kế hoãn binh bảo rằng một hai ngày nữa sẽ trả lời, lẽ ra đó là chuyện của hôm nay. Sau khi các người ra thị trấn, ta vốn muốn đến nhắc nhở chúa công, nào ngờ ngài lại đến chỗ Niên Canh Nghiêu ăn tiệc, ta biết sự việc không xong, một hồi sau có người đến báo rằng Niên Canh Nghiêu đã ra tay”. Trần Đức Thái mỉm cười: “Trong quân của Niên Canh Nghiêu cũng có huynh đệ của chúng ta. Nên Phương đại ca mau chóng chạy ra báo tin này cho ta”.
Té ra Phương Kim Minh võ công tuy cao nhưng rất hồ đồ trong cách lập thân xử thế, coi trọng tình riêng, coi nhẹ đại nghĩa. Dận Đề chỉ dùng ơn nhỏ là đã lôi kéo được y, y vốn muốn lấy tấm lòng quốc sĩ để báo đáp. Nhưng y cũng kính trọng tấm lòng hiệp nghĩa của Cam Phụng Trì, nên một khi nạn lớn kéo tới, người của Cam Phụng Trì bảo y chạy, lại báo với y rằng Trần Nguyên Đức cũng đang ở đây, y cũng chạy theo. Đường Hiểu Lan nghe xong rung giọng hỏi: “Cam đại hiệp có biết việc này không?” Trần Đức Thái nói: “Có lẽ hai ngày nữa Cam thất ca mới đến, nhưng Quan Đông tứ hiệp đã đến”. Số là Cam Phụng Trì sợ nhiều người không tiện nên mới chia thành ba nhóm lên đường. Nhóm thứ nhất là Quan Đông tứ hiệp, nhóm thứ hai là Dương Trọng Anh, Lộ Dân đảm và chàng, nhóm thứ ba là Lữ Tứ Nương cùng Bạch Thái Quan với Ngư Nương. Tuy Cam Phụng Trì chưa đến nhưng chàng quen biết khắp trong thiên hạ, trong quân Niên Canh Nghiêu cũng có tai mắt của chàng nên Đường Hiểu Lan được người ta để mắt tới mà không hề hay biết.
Đường Hiểu Lan nói: “Phương đại ca, sau này huynh tính thế nào?” Phương Kim Minh cười khổ, nói: “Tôi tính đêm nay gặp Xa Tịch Tà rồi mới quyết định”. Đường Hiểu Lan nói: “Cái gì? Huynh còn định gặp Xa Tịch Tà?” Phương Kim Minh nói: “Tôi quen biết y mười năm, thân như huynh đệ, dù sau này tuyệt giao cũng phải nói cho rõ ràng. Vả lại tôi còn phải thăm dò tin tức của chúa công”. Đường Hiểu Lan thầm kêu: “Hồ đồ!”. Nhưng Phương Kim Minh vẫn gọi Dận Đề là chúa công, chàng không tiện khuyên nhủ, chàng chỉ hỏi: “Vậy huynh trở về sao?” Phương Kim Minh nói: “Không, tôi nhờ người hẹn với y sáng sớm mai sẽ gặp tại Tuyết Hồn cốc”. Đường Hiểu Lan nói: “Tuyết Hồn cốc là ở đâu?” Trần Đức Thái mỉm cười: “Chính là sơn cốc bên ngoài”. Đường Hiểu Lan nói: “Chả trách nào cảnh tuyết lại đẹp như thế, quả là xứng với danh”. Rồi lại nói: “Xa Tịch Tà đã bị danh lợi làm mờ mắt, Phương huynh không thể không đề phòng, sáng mai tôi sẽ đi cùng huynh”. Phương Kim Minh xua tay nói: “Tôi chỉ muốn gặp y một mình, người đông không tiện nói chuyện”. Trần Đức Thái mỉm cười, tỏ ý bảo Đường Hiểu Lan đừng nên nhiều lời.
Tin tức truyền ra bảo rằng Niên Canh Nghiêu vâng thánh chỉ, đã thay Dận Đề nắm giữ chức Phủ viễn đại tướng quân, toàn bộ cận vệ quân của Dận Đề bị giải tán, bảy võ quan thân tín nhất cũng bị giết chết, trong đó có ba người cùng Đường Hiểu Lan uống rượu, sau đó đã bị bắt đi ngay ngoài trấn Chu Tiên. Còn Dận Đề và Bác Khắc Đồ đã bị bắt ngay trong buổi tiệc, sống chết thế nào vẫn chưa biết. Phương Kim Minh nghe thế, đấm ngực khóc to.
Hôm sau trời vừa sáng, Phương Kim Minh đã đợi ở ngoài sơn cốc, hoa tuyết bay trong gió, lạnh lẽo rét buốt, Phương Kim Minh đứng trên tảng đá, quay đầu nhìn về phía Đông, lòng nghĩ có phải quá sớm hay không? Chợt nghe một tiếng hú dài vọng tới, Xa Tịch Tà đột nhiên nhảy ra, nói: “Phương huynh đến thật sớm, hai bằng hữu của huynh đâu, sao không tới?” Phương Kim Minh giật mình, thầm nhủ: “Chả lẽ đêm qua y đã đến đây?” nói: “Chúng ta chỉ hẹn gặp riêng nhau, sao có thể gọi thêm người khác?”
Xa Tịch Tà sắc mặt âm trầm, mỉm cười, nói: “Phương huynh có nghĩ đến những lời hôm qua tôi đã nói không?” Phương Kim Minh nói: “Chúa công đối với chúng ta không tệ...” Xa Tịch Tà cắt lời: “Kẻ biết thời thế là trang tuấn kiệt, huynh đệ họ tranh giành với nhau, chẳng lẽ huynh cũng muốn chết theo y?” Phương Kim Minh biến sắc, nói: “Vậy các người đã hại chúa công?” Xa Tịch Tà nói: “Tôi không động thủ”. Phương Kim Minh rơi nước mắt nói: “Không ngờ ngươi lại vong ân phụ nghĩa như thế!” Xa Tịch Tà nói: “Phương huynh yên tâm, chúa công vẫn chưa chết, huynh khóc cái gì?” Phương Kim Minh hỏi: “Niên Canh Nghiêu có chịu thả ngài ra không?” Xa Tịch Tà cười nói: “Hoàng thượng phái Cáp Bố Đà đến đưa y về kinh”. Phương Kim Minh vừa nghe, thầm nhủ: “Dận Trinh bí mật giải ngài về kinh, kết quả vẫn là chết, vả lại Dận Trinh lòng dạ độc ác, chỉ e rằng Dận Đề sẽ chết thảm”. Rồi tức giận nói: “Hoàng thượng khắc nghiệt vô ơn, lẽ nào huynh không sợ?” Xa Tịch Tà cười ha hả.
Phương Kim Minh tức giận nói: “Ngươi cười gì?” Xa Tịch Tà nói: “Chúng ta khác Thập tứ bối lạc, vả lại không tranh ngôi với Hoàng thượng, dù ngài khắc nghiệt vô ơn, có liên quan gì đến chúng ta?” Phương Kim Minh lạnh mình, run giọng nói: “Mười năm quen biết, không ngờ giờ đây mới biết ngươi là kẻ tiểu nhân!” Xa Tịch Tà nhíu mày nói: “Thế nào?” Phương Kim Minh chợt thở dài nói: “Ngươi đi đi! Kẻ quân tử tuyệt giao không cần lên tiếng, coi như giao tình trước đây của chúng ta sẽ xóa sạch, ngươi cứ đi làm quan, ta trở về làm cường đạo. Chỉ cần ngươi không vâng lệnh đến bắt ta, ta sẽ không động thủ với ngươi”. Rồi xoay người toan bỏ đi. Xa Tịch Tà nói: “Khoan đã!” Phương Kim Minh quay đầu lại: “Ngươi muốn thế nào?” Xa Tịch Tà nói: “Mong Phương huynh hãy suy nghĩ lại!” Phương Kim Minh lòng đau như cắt, chỉ cười lạnh rồi quay người. Vừa đi được mấy bước, chợt nghe tiếng cười ha hả vang lên, Phương Kim Minh quay đầu nhìn, chỉ thấy bên dưới xuất hiện hai người, đó là một nhà sư và một lão béo, hai người này là Liễu Ân và Đổng Cự Xuyên. Phương Kim Minh nổi cáu đùng đùng, nói: “Xa Tịch Tà, té ra ngươi đã hẹn người đối phó ta?” Xa Tịch Tà cười lạnh nói: “Ta cần gì phải hẹn người đối phó ngươi, bản lĩnh của ta và ngươi như thế nào đôi bên đều biết, ta chỉ muốn hỏi ngươi thêm một câu, ngươi có muốn theo ta về hay không?” Phương Kim Minh cười lạnh: “Té ra ngươi nhất định phải giữ ta lại?” Đổng Cự Xuyên cười lạnh nói: “Sa thống lĩnh, lần này bọn ta phải xem ông đấy!” Xa Tịch Tà rút soạt thanh kiếm, ánh hào quang loang loáng chiếu xuống tuyết đến chói mắt, đứng giọng nói: “Phương Kim Minh, nếu hôm nay ngươi không chịu theo ta về, ta cũng cắt đứt tình huynh đệ với ngươi!”
Phương Kim Minh nói lớn: “Hay lắm, ngươi hãy chặt đầu ta xuống!” rồi chưởng trái giơ lên hộ trước ngực, quyền phải từ dưới chưởng đấm ra, Xa Tịch Tà cười lạnh một tiếng, xoay người đảo bước, cây Du Long kiếm lóe lên đâm vào be sườn của Phương Kim Minh. Phương Kim Minh quát: “Hay lắm!” rồi lại phóng vọt người lên, thủ pháp nhanh như điện, vỗ thẳng chưởng tới trước ngực của kẻ địch. Xa Tịch Tà quát: “Ngươi muốn chết!” rồi vòng kiếm trở lại chém vào cánh tay của đối phương, Phương Kim Minh đột nhiên bốc người lên cao, chưởng trái đẩy vào cùi chỏ của y, chưởng phải biến thành Cầm Nã móc vào cánh tay của Xa Tịch Tà. Phương Kim Minh biết kiếm thuật của Xa Tịch Tà rất cao cường, nên vừa ra tay đã liều mạng, đánh ra những đòn hung hiểm!
Xa Tịch Tà lâm nguy không loạn, y giật lui người về phía sau hóa giải đòn Cầm Nã của Phương Kim Minh, đẩy chui kiếm về phía trước, điểm vào huyệt Tiếu Yêu trên hông trái của Phương Kim Minh, đó là tuyệt chiêu cứu mạng của y, Phương Kim Minh vội vàng thối lui, sau một tiếng, mũi kiếm của Xa Tịch Tà đã chém lướt qua vai y. Phương Kim Minh quát lớn: “Hôm nay ta liều với ngươi!” rồi phóng vọt người lên, sử dụng mười tám lộ trường quyền luồn qua lách lại trong màn kiếm quang.
Xa Tịch Tà và Phương Kim Minh võ công đều cao cường, một người giỏi quyền thuật, một người có sở trường kiếm pháp, đôi bên tám lạng nửa cân, nhưng Xa Tịch Tà đã có Du Long kiếm, uy lực vô hình tăng lên mấy phần, lại thêm Phương Kim Minh đang nổi cáu, hễ xông lên là liều mạng, khí lực không đủ, đánh được nửa canh giờ, kiếm chiêu của Xa Tịch Tà càng lúc càng nhanh, Phương Kim Minh chỉ có thể chống đỡ, một lát nữa, Phương Kim Minh đã đuối sức, bị màn kiếm quang vây kín.
Đổng Cự Xuyên và Liễu Ân khoanh tay đứng nhìn. Đổng Cự Xuyên nói: “Người này quả nhiên có lòng quy thuận, tặng cây Du Long kiếm cho y cũng đáng”. Liễu Ân nói: “Dù sao cũng là mượn hoa kính Phật, có đáng là gì?” rồi lại nói: “Kiếm pháp của người này cao cường, không biết khinh công của y thế nào?” Đổng Cự Xuyên biết lòng dạ Liễu Ân, cười nói: “Xem ra khinh công cũng không tệ, sau này nếu gặp sư muội của ông, có thể bảo y ra tay”. Té ra Liễu Ân tuy có công lực cao hơn Lữ Tứ Nương, nhưng lại ngại kiếm pháp và khinh công của nàng, mấy lần gặp nhau chỉ đánh ngang tay, không bắt nàng được. Nên muốn nhờ một người kiếm pháp và khinh công cao cường giúp cho mình.
Lúc này hai người càng đánh dữ dội hơn, Đổng Cự Xuyên cười nói: “Không đầy ba mươi chiêu Phương Kim Minh sẽ chết dưới kiếm của Xa Tịch Tà!” Liễu Ân nói: “Tên tiểu tử Niên Canh Nghiêu đã có lợi, bắt được Dận Đề, cũng giải quyết luôn cả hai tên trợ thủ đắc lực nhất của y, lập được công lớn”. Khi họ đang cười nói, chợt nghe Phương Kim Minh kêu thảm một tiếng, chắc là đã trúng một kiếm, Đổng Cự Xuyên vỗ tay cười, đắc ý vì nhãn lực của mình không kém, nào ngờ cười chưa dứt thì tiếng quát nổi lên, bên dưới xuất hiện mấy bóng người. Kẻ đi đầu là Huyền Phong đạo trưởng, ông ta quát lớn: “Lão giặc trọc Liễu Ân, mau chịu chết!” ngoại trừ Quan Đông tứ hiệp còn có cả Trần Đức Thái và Đường Hiểu Lan.
Té ra Trần Đức Thái đã đoán trước Xa Tịch Tà sẽ hẹn người cùng đối phó với Phương Kim Minh, nếu không phải Xa Tịch Tà sợ Phương Kim Minh mà bởi Niên Canh Nghiêu không yên tâm nên sai người đi theo giám sát. Trần Đức Thái thấy Phương Kim Minh quá hồ đồ, nên không khuyên ông ta, âm thầm hẹn Quan Đông tứ hiệp. Lúc nãy khi Đổng Cự Xuyên và Liễu Ân đang cười nói, Trần Đức Thái và Đường Hiểu Lan cũng nhìn nhau cười, Trần Đức Thái nói: “Cứ để Phương Kim Minh thấy bộ mặt thật của người bằng hữu chí thân, y mới nản lòng”. Lúc này Đường Hiểu Lan mới biết dụng ý của Trần Đức Thái.
Liễu Ân chợt thấy Quan Đông tứ hiệp phóng tới rất bất ngờ. Y không ngờ Phương Kim Minh lại hẹn được bốn người này giúp đỡ, nhưng y cũng không hề sợ hãi, cười ha hả rằng: “Lẽ nào Phật gia sợ bọn bây!” rồi vung cây thiền trượng đánh bạt thanh kiếm của Huyền Phong ra; Liễu Tiên Khai phóng vọt người lên, đấm xuống cái đầu trọc của Liễu Ân, Liễu Ân hất một trượng kêu lên vù vù, đánh ra chiêu Tiềm Long Thăng Thiên đâm thẳng lên, Liễu Tiên Khai không dám hạ xuống, trên không trung vặn eo lướt ra, nhưng Liễu Ân chỉ hơi ngừng lại, ông ta lại bay tới. Liễu Ân cả giận, ngầm vận nội công tung đòn sát thủ về phía Huyền Phong, Liễu Tiên Khai lao bổ tới, Liễu Ân không thèm để ý, quét ngay một trượng về phía Huyền Phong! Liễu Tiên Khai đánh thẳng kêu bốp bốp nhưng tựa như đánh vào miếng gỗ, Liễu Thiên Khai thất kinh bay ngược trở lại! Huyền Phong đạo trưởng làm sao chịu nổi đòn tấn công toàn lực của Liễu Ân, ông ta gắng gượng chặn ba chiêu, hổ khẩu đã tóe máu! Liễu Ân bổ một trượng xuống đỉnh đầu của Huyền Phong, Lang Nguyệt thiền sư đột nhiên lưới tới, há miệng phun rượu thành vòi, Liễu Ân chợt thấy trước mắt trắng xoá, vội vàng giơ ống tay áo che mắt, thế đánh chậm lại Huyền Phong trở tay đâm một kiếm vào be sườn của Liễu Ân, tưởng rằng sẽ thất thủ, nào ngờ nội công của Liễu Ân thật sự thâm hậu, y nghe tiếng gió, da thịt đột nhiên nhíu vào trong, Huyền Phong đâm tới một kiếm, mũi kiếm đã chạm vào da, đột nhiên cảm thấy như đâm vào một vật mềm mại như bông, mà kiếm của Huyền Phong đã đâm hết đà, chẳng thể nào đi sâu tới nữa, Liễu Ân gầm lớn một tiếng, chỏ trái trầm xuống, thúc về phía Huyền Phong. Lúc này hai người đều đã sáp lá cà, cây thiền trượng của Liễu Ân không thể rút về được, mà kiếm và gậy của Huyền Phong đã lưới qua hai bên của Liễu Ân.
Trần Nguyên Bá thấy nguy cấp, liều mạng vung tay lao thẳng vào tiếp một chiêu của Liễu Ân, Trần Nguyên Bá là kẻ mình đồng da sắt, lực mạnh vô cùng, hai người chạm nhau, Liễu Ân loạng choạng thối lui mấy bước, Trần Nguyên Bá càng thảm hơn, ông ta thấy mắt mình hoa lên, miệng phun máu tươi, bắn ra xa đến cả mấy trượng. May mà nghỉ một chốc lại chẳng có chuyện gì! Ông ta phóng vọt người lên, vung quyền đánh tới.
Liễu Ân một mình chống Quan Đông tứ hiệp, ngực đã trúng mười cái vòng sắt của Liễu Tiên Khai, cảm thấy đau ê ẩm, nên không dám liều thân nữa. Lang Nguyệt thiền sư lại phun rượu tới, Liễu Ân quét ống tay áo, quạt vòi rượu của Lang Nguyệt thiền sư bay ra xung quanh, mùi rượu xộc vào mũi. Quan Đông tứ hiệp đều thất kinh, nhưng Liễu Ân vì phải phân tâm đối phó với võ công độc môn của Lang Nguyệt thiền sư, lại phải né tránh những cái vòng sắt của Vạn Lý Truy Phong Liễu Tiên Khai, dưới màn kiếm quang lanh lẹ lạ thường của Huyền Phong, y vẫn còn có thể ứng phó đại xuất uy thủ của Trần Nguyên Bá. Y lấy một địch bốn mà chẳng hề lọt xuống thế hạ phong!
Phương Kim Minh đấu đến nỗi sức cùng lực kiệt, tưởng rằng sẽ chết, Đường Hiểu Lan đột nhiên nhảy bổ tới, vẩy ra một đóa kiếm hoa, đánh một chiêu Thiên Sơn Phi Tuyết từ trên không đâm xuống, ánh kiếm quang loang loáng tựa như hoa tuyết tung bay, Xa Tịch Tà múa kiếm thành một đường ngân hồng cố ý chặn lại. Hai người đều là cao thủ dùng kiếm, nếu luận về công lực, Xa Tịch Tà cao hơn nhiều, nhưng luận về kiếm pháp vẫn còn kém hơn Đường Hiểu Lan. Xa Tịch Tà buộc phải vận dụng nội lực, dùng tự quyết chữ “niêm”(dán) để chống cự với Thiên Sơn kiếm pháp tuyệt diệu của Đường Hiểu Lan. Vốn là lấy một địch một, thời gian kéo dài, Đường Hiểu Lan chẳng phải là đối thủ của Xa Tịch Tà, nhưng Phương Kim Minh đã được người giúp đỡ, tinh thần phấn chấn, lấy hai địch một cũng chiếm được thượng phong.
Lúc này hai phe đã chia thành ba nơi quần thảo với nhau, Trần Đức Thái một mình đánh với Đổng Cự Xuyên, Đổng Cự Xuyên dùng Bát quái lưu thương chưởng đánh hờ ra hai đòn. Bát quái lưu thương chưởng nổi tiếng phiêu hốt, nếu chẳng phải là cao thủ thuộc hàng nhất lưu chắc chắn sẽ bị y dụ cho sức cùng lực kiệt, rồi lộ sơ hở để y tấn công. Nào ngờ Đổng Cự Xuyên tính khéo quá hóa vụng, bị mắc mưu Trần Đức Thái. Té ra võ công thật sự của Trần Đức Thái kém Đổng Cự Xuyên và Đường Hiểu Lan, nhưng ngoại hiệu của y là thần thâu, tay chân đương nhiên lanh lẹ, lại thêm khinh công bất phàm, nên nếu không dùng nội lực tỉ thí với y, nhiều người vẫn tưởng y là cao thủ thuộc hàng nhất lưu, hôm qua Đường Hiểu Lan cũng đã lãnh giáo sư lợi hại ấy nên cứ kêu y là tiền bối.
Đổng Cự Xuyên đánh hờ hai chưởng, Trần Đức Thái giả vờ như bổ tới, nhưng thật sự cũng đánh hư chiêu, cả hai người đều không chạm nhau. Đổng Cự Xuyên cứ chạy vòng vòng xung quanh y, Trần Đức Thái cũng đấm một quyền tay một chưởng, chợt Đông chợt Tây nhanh như con cá chạch. Đổng Cự Xuyên thấy quyền pháp của y rối loạn phức tạp, nhưng thân pháp lại lanh lẹ vô cùng, tưởng rằng mình hiểu biết kém cỏi, không nhận ra chiêu số quyền thuật của y. Nào ngờ Trần Đức Thái chỉ giả vờ lừa bịp. Đổng Cự Xuyên càng lúc càng sợ, y cẩn thận không dám tiến sát đến kẻ địch, nào ngờ vì y cẩn thận quá nên mắc mưu Trần Đức Thái. Trần Đức Thái đã thấy y chỉ dùng hư chiêu, thấy y tới gần mình đột nhiên thi triển tuyệt kỹ thần thâu, sờ vào người Đổng Cự Xuyên rồi lập tức nhảy vọt ra rồi vung tay cười ha hả.
Đổng Cự Xuyên lách người, vung tay hất một cái, chụp được mảnh ám khí của Trần Đức Thái vừa ném tới, té ra đó là ám khí của y, y sờ vào lại áo thì bất giác nổi da gà, cái tráp dựng hai mươi bốn cây ám khí đã biến mất.
Đổng Cự Xuyên lạnh mình thối lui mấy bước, nhìn xung quanh thì thấy Liễu Ân bị Quan Đông tứ hiệp vây đánh, đã lọt xuống thế hạ phong, Xa Tịch Tà một mình đấu với Đường Hiểu Lan và Phương Kim Minh cũng sắp bại tới nơi, y thầm nhủ: “Sớm biết Phương Kim Minh có người giúp đỡ, mình đã kêu thêm vài người!” lúc này Liễu Ân đã trúng thêm một đòn của Liễu Tiên Khai, y nổi cáu gầm lên như sấm, múa cây thiền trượng kêu lên vù vù, Huyền Phong lách người né tránh, Lang Nguyệt thiền sư không ngừng phun rượu trợ chiến, tấm áo cà sa trên người Liễu Ân đã rách hàng trăm lỗ, lòng không khỏi kinh hãi, Đổng Cự Xuyên kêu: “Bảo quốc thiền sư, bọn chúng ỷ đông hiếp ít, cứ để cho bọn chúng sống thêm vài ngày!” Liễu Ân gầm lớn, vung cây trượng gạt rừng kiếm của Huyền Phong ra, lao về phía trước, nào ngờ Trần Nguyên Bá nhờ có rượu của Lang Nguyệt thiền sư yểm hộ, nhân lúc Liễu Ân đánh trượng ra chưa kịp thu về, chiêu thế vẫn chưa dứt, đột nhiên dốc hết toàn lực chụp cây thiền trượng đè xuống, Huyền Phong thừa thế đâm kiếm vào. Liễu Ân nội công tuy cao, nhưng cũng không thể nào chống được đòn ấy, chỉ trong chớp mắt đã bị đâm vào tay, máu tuôn ra xối xả. Liễu Ân quát lớn: “Đi!” rồi y vung cây thiền trượng, ném Trần Nguyên Bá lên không trung, may mà Liễu Tiên Khai bổ từ trên không xuống, chụp lấy áo của Trần Nguyên Bá giữ y lại. Liễu Ân vội vàng vung trượng quét về phía Trần Đức Thái, Huyền Phong lướt tới, Trần Đức Thái đứng không vững, suýt nữa đã ngã xuống, may mà nhờ tay chân lanh lẹ nên vội vàng tránh ra, Đổng Cự Xuyên chợt nảy ra một ý, Liễu Ân nói: “Mau! Chúng ta mau chạy xuống núi!” Lúc này Đổng Cự Xuyên đã nghi ngờ Trần Đức Thái không có bản lĩnh thật sự, nhưng thấy Liễu Ân đã bị thương, chẳng còn lòng dạ nào ham đánh, thế là cầm cây Thấu Cốt đinh mới chụp được lúc nãy ném về phía Đường Hiểu Lan, kêu: “Xa thống lĩnh, chạy mau!”.
Xa Tịch Tà đang muốn xông ra, ngặt vì Đường Hiểu Lan bám quá chặt, chợt thấy Đường Hiểu Lan thu vai lại, kiếm thế hơi chậm, Xa Tịch Tà cả mừng thừa thế đánh một chiêu Hồi Phong Phất Liễu, thanh kiếm chém tròn qua, xoáy thanh kiếm của Đường Hiểu Lan tuột khỏi tay, Đường Hiểu Lan đang nôn nóng đoạt lại kiếm của mình, thế là vung tay ra chụp lấy, Xa Tịch Tà chém thanh kiếm xuống, xem ra mũi kiếm sắp đâm vào bụng của Đường Hiểu Lan, Phương Kim Minh đột nhiên tung một cước, đá vào be sườn của Xa Tịch Tà, Xa Tịch Tà kêu ối cha một tiếng té xuống đất, Đường Hiểu Lan thu thế không kịp cũng té xuống, vừa vặn đè lên người Xa Tịch Tà, Đường Hiểu Lan tay trái bóp cổ họng, tay phải đoạt lại kiếm, Phương Kim Minh kêu lớn: “Đường huynh đệ, cẩn thận!” nói chưa dứt lời, Xa Tịch Tà đã bật người dậy, Đường Hiểu Lan bay ra cách đó mấy trượng. Nội lực của Đường Hiểu Lan không bằng kẻ địch, nên khi đánh sáp lá cà đã thua thiệt.
Phương Kim Minh chạy tới đỡ Đường Hiểu Lan, Đường Hiểu Lan nói: “Cứ mặc” Phương Kim Minh nhìn lại chỉ thấy Đường Hiểu Lan chỉ bị trật khớp chân, nói: “Được, để tôi giật lại thanh kiếm!” rồi co giò đuổi theo.
Lúc này Liễu Ân và Đổng Cự Xuyên đã chạy ở phía trước, Quan Đông tứ hiệp và Trần Đức Thái đuổi sát theo sau, chạy ra khỏi sơn cốc.
Xa Tịch Tà bị trúng một cú đá của Phương Kim Minh, xương chân cũng rất đau nhói. Y rất lanh lẹ, không chạy theo cùng một đường với Liễu Ân và Đổng Cự Xuyên để khỏi bị Quan Đông tứ hiệp uy hiếp, một mình chạy xéo ra, Phương Kim Minh đuổi sát theo, khinh công của Xa Tịch Tà tương đối giỏi hơn Liễu Ân, lại chạy theo đường nhỏ, lọt ở phía sau, trong lòng thầm nhủ: “Mình có bảo kiếm trong tay, Phương Kim Minh chẳng phải là đối thủ của mình, y lại rời khỏi đồng bọn đuổi theo một mình, chính là tự tìm đường chết”. Một hồi sau, đã chạy đến cửa cốc, cách xa bọn Liễu Ân đến cả nửa dặm. Liễu Tiên Khai khinh công tuy cao, nhưng bốn người mới có thể đánh bại Liễu Ân nên Liễu Tiên Khai chỉ có thể chốc chốc quấy rối Liễu Ân, vừa chạy vừa đánh chứ không dám nhảy lên phía trước. Quan Đông tứ hiệp thấy Liễu Ân bị thương, nên cứ bám theo y.
Xa Tịch Tà chạy ra khỏi sơn cốc, trong lòng thầm tính toán, định rằng chạy thêm một đoạn nữa, thì sẽ quay lại giết Phương Kim Minh. Chợt thấy phía trước có một thiếu nữ chạy ra, trông nàng chỉ khoảng mười lăm mười sáu tuổi, vẻ mặt rất xinh xắn đánh yêu! Xa Tịch Tà đang chạy thục mạng nhưng cũng không khỏi để ý đến nàng. Nàng thiếu nữ đeo đoản kiếm bên hông, thấy Xa Tịch Tà chạy đến, chợt quát: “Ngừng lại!”
Xa Tịch Tà ngạc nhiên ngừng bước, nàng thiếu nữ nói: “Đưa kiếm đây!” Xa Tịch Tà cười rằng: “Tiểu cô nương, ngươi muốn làm gì?” nàng thiếu nữ đột nhiên phóng lên, mắng: “Tên tiểu tặc nhà ngươi không đưa, bổn cô nương tự lấy!” Xa Tịch Tà khinh công rất cao, không nỡ đả thương nàng, y lách người né tránh, tay trái vươn ra toan chụp cổ tay nàng, không ngờ mắt hoa lên, nàng thiếu nữ ấy lướt qua đầu, cây Du Long kiếm cũng bị nàng ta đoạt mất!
Xa Tịch Tà kinh hãi, khinh công của nàng còn hơn cả y! Tuy y không đề phòng, nhưng nàng thiếu nữ đã dễ dàng đoạt thanh kiếm trong tay y, võ công của nàng không thể coi thường.
Nàng thiếu nữ giật được thanh kiếm, chặn ngang đường của Xa Tịch Tà, chỉ mũi kiếm quát: “Nói mau, ngươi đánh cắp thanh kiếm này ở đâu?” lúc này Phương Kim Minh đã đuổi theo sau lưng, Xa Tịch Tà thấy trước sau đều có địch nên đánh liều phóng tới đấm vào mặt nàng ta, nàng thiếu nữ nói: “Hừ, tên tiểu tặc nhà ngươi còn dám hung dữ!” rồi nàng vẩy kiếm đâm ra soạt soạt hai nhát, Xa Tịch Tà xoay người né tránh. Nàng thiếu nữ thấy ngạc nhiên, thầm nhủ: “Sư phụ nói võ công của mình có thể đi trên giang hồ, sao tên này có thể tránh được hai nhát kiếm của mình? Nếu ai cũng như thế này, từ này về sau phải để ý hơn”.
Xa Tịch Tà lại tránh được hai chiêu, Phương Kim Minh đã đuổi tới, thấy thế rất ngạc nhiên, đang tính giúp nàng thiếu nữ, nàng thiếu nữ quát: “Ai, không được bước tới gần!” Phương Kim Minh ngạc nhiên ngừng bước, chỉ thấy nàng thiếu nữ múa kiếm loang loáng, đánh cho Xa Tịch Tà xoay mòng mòng, Phương Kim Minh thở dài thầm nhủ: “Trên thiên hạ đúng là có quá nhiều người tài giỏi, chỉ là một thiếu nữ mà cũng có bản lĩnh như thế này, trước nay mình đúng là ếch ngồi đáy giếng!”
Chính là:
Ngọc nữ trổ thân thủ, kiếm pháp thấy lạ lùng.
Muốn biết sau đó thế nào mời xem hồi sau sẽ rõ.