watch sexy videos at nza-vids!
doc truyen
Trang ChủTruyện
http://aff.mclick.mobi/ctxd/bigbang3g

Bá Chủ Tam Quốc

http://aff.mclick.mobi/swift-wifi/bigbang3g

Swift Wifi

http://aff.mclick.mobi/uc-in/bigbang3g

UC Browser

Bộ Bộ Sinh Liên 

Quyển 4: Đoạt Thử Thiên Can Nhất Trì Bích
Chương 136: Còn kém ba đao.



Tác giả: Nguyệt Quan

Nguồn: Sưu tầm



Tối hôm đó, Dương Hạo đang luyện đao dưới ánh trăng

Một góc của doanh trại là nhà bếp, lúc này ánh trăng sáng như gương, củi chất đống ở khoảng đất trống cao như núi, Dương Hạo cầm lấy một cái cọc dựng đứng nó trên mặt đất, hai tay cầm đao, nín thở, huơ đao chém xuống, lực chỉ có bảy phần, cọc gỗ phát ra một tiếng vang “Bang”, cọc tách ra làm đôi, mũi đao cách mặt đất chỉ có ba tấc.

Trên tay hắn gân đã nổi lên, giờ hai bàn tay đều đã quấn vải. Cánh tay hắn khi vừa vung lên thì đau nhức, nhưng hắn vẫn cắn răng chịu. Hắn giờ đã mất đi cơ hội một bước lên trời, hy vọng dựa vào chính sức lực của mình, con đường sự nghiệp của hắn sẽ thành công.

Trong doanh trại này, vũ lực tối thiểu cần có là phải tự bảo vệ, cùng với chiến sự, đại tướng quân thân còn chưa lo được, ai đến lo cho mình? Lúc đó hắn có tài kinh bang tế thế cũng bị binh đại đầu cho một nhát đao là chết. Cần có sức mà tự bảo vệ mình, dựa vào thân phận của hắn hiện nay, không thể có thân binh bảo vệ, vậy cần nắm được lực lượng quân sự nhất định. Mỗi ngày chém năm trăm nhát đao là nhiệm vụ mà hắn tự giao cho mình.

Mỗi ngày ở bên Trình Thế Hùng, học hắn cách lo liệu quân vụ, học hắn cách xét hỏi tuần doanh, học hắn cách giao tiếp như thế nào với lũ binh đại đầu… Đêm khuya, hắn tới bên cạnh nhà bếp, làm nghĩa vụ bổ củi. Năm trăm nhát đao, nghe tưởng dễ, nhưng khi thực hiện, hắn mới biết, năm trăm nhát đao này, mỗi nhát đều ngưng tụ tinh thần và khí lực của hắn, vận dụng cách môn hạ vận lực mà Trình tướng quân chỉ bảo, cần tiêu hao biết bao sức lực, nhưng hắn vẫn kiên cường, không quản mưa gió, tối qua mưa tầm tã, năm trăm đao trong mưa như con chó chết bò về ổ chó ngủ.

“Soạt! Bốn trăm chín mơi bảy…”

Lưng của Dương Hạo cong xuống đau nhức, vừa dựng thẳng một cái cọc gỗ, lấy đao cắm xuống đất nghỉ tạm. Mỗi một đao, hắn đều không muốn tùy tiện chém xuống, hắn cần phải vận khí một cách chính xác rồi mới xuất đao, năm trăm đao, mỗi đao đều không thể không chấp hành theo cách Trình tướng quân dạy, tuyệt đối không lãng phí một đao, tuyệt đối không lơ là một chút khí lực.

Hắn lại một lần nữa giơ đao lên, thân hình vững như núi, hai tay nắm lấy đao, mũi đao nhẹ nhàng nâng quá đỉnh đầu, ánh mắt tựa hư mà thực, chằm chằm nhìn cây cọc gỗ ấy.

Ánh sáng mặt trăng sáng loáng trên mũi đao, như nước chảy bấp bênh, 497 nhát đao chém xuống, hắn giữ đao ổn định trong tay đã vô cùng mất sức rồi.

Đúng lúc đó. Hắn đột nhiên nghe thấy một âm thanh ồn ào. Yên lặng lắng nghe. Dương Hạo bước nhanh lên phía trên, nhìn về đống củi xa xa. Chỉ nghe thấy tiếng chém giết từ phía bắc truyền đến. Tiếng kim loại không ngừng bên tai, lòng hắn không khỏi lo lắng: “Quân Bắc Hán tập doanh, bọn họ đêm hôm đánh úp doanh trại phía bắc, là để đả kích tinh thần quân sĩ Tống ta, hay định chọc thủng vòng vây, chạy về hướng thảo nguyên chăng?

Lúc này trong doanh trại chuông cảnh báo đã vang lên. Trình Thế Hùng cũng nhanh chóng từ trong trại lớn đi ra. Trình Thế Hùng trị quân có cách của hắn, quân biên không được trang bị bằng cấm quân. Thoạt nhìn cao thấp mập ốm. Không giống với cấm quân, ai ai cũng đều là đại hán dũng mãnh có cùng chiều cao. Nhưng mọi năm phòng thủ chịu rét chịu khổ. Sức chiến đấu và kinh nghiệm chiến đấu của họ trái lại ngang ngược hơn so với cấm quân bất bại trong chinh chiến Trung Nguyên. Đặc biệt là lọ vừa mới bị điều lên một tuyến. Tinh lực sĩ tốt dư thừa. Sớm đã chuẩn bị ứng biến tốt. Trong doanh trại yên tĩnh. Không có tiếng ồn nào.. Dương Hạo vội vã trở về, nơi đó ngược lại trở thành nơi yên tĩnh. Nhìn thấy doanh trại trật tự ngay ngắn. Dương Hạo không khỏi xấu hổ.

Trình Thế Hùng biết hắn ở sau doanh trại luyện đao. Thấy đầu hắn mồ hôi nhễ nhại chạy tới liền không trách cứ. Ngược lại còn an ủi nói: “Không cần phải lo sợ. Càng gần việc lớn, càng phải bình tĩnh.

Ngươi vừa mới nhập ngũ. Đợi đánh được vài trượng, nếu lại nghe thấy tiếng kêu thì phải giữ bình tĩnh”.

Hắn leo lên đài vọng thăm dò xem trận ở phương bắc. Ở đây do có một góc thành trì che chắn. Chỉ có thể mơ hồ nhìn thấy thành bắc, phương hướng thì ánh lửa bập bùng. Tiếng giết rung trời. Trình Thế Hùng nói: “Quân Bắc Hán tập kích đêm đóng quân ở thành bắc. Thành bắc là quân bộ cấm quân do Triệu tướng quân coi giữ . Người này kiêu dũng thiện chiến. Cơ trí đa mưu. Quân Bắc Hán chưa chắc bỏ qua.

Dương Hạo là thân binh của hắn thì sẽ theo hắn, hắn hỏi: “Tướng quân. Chúng ta không cần phái binh qua chi viện sao?

Trình Thế Hùng nói: “Bóng đêm tối mù, tình địch không rõ, há có thể hành động khinh suất. Một khi trúng kế điệu hổ ly sơn, hoặc kế sở dụ mai phục thì làm sao? Ngươi nhớ kĩ, nhưng phàm là loại ban đêm tập kích doanh trại, tất cả doanh trại không thể phó viện cẩu thả, mặc dù bắt được tín hiệu viện trợ bị tập kích doanh trại cũng phải rất cẩn thận, tất cả doanh trại hô ứng mà đi. Quân địch phá doanh trại thành công, cũng chỉ có một doanh trại bị loạn, nếu trận cước tự loạn, vội vàng phó viện, một khi trúng kế địch, vậy thì sẽ thua thê thảm, không thể có đường sống nữa.

Dương Hạo kính cẩn thưa: “Vâng, thuộc hạ xin thụ giáo”.

Tiếng chém giết, giằng co ở thành bắc trong khoảng thời gian không đến hai nén hương thì yên tĩnh trở lại, sau đó doanh trại phòng ngự thành bắc đã phát hiện quân địch đã có tín hiệu chiêng trống rút lui. Đánh lén chính là đánh nhằm lúc đối phương không chú ý, một khi đối phương đã chuẩn bị hoặc ứng biến kịp thời thì điều kiện đánh lén cũng mất đi, một tướng lĩnh sáng suốt ngay lập tức sẽ lui binh mà không phải thay đổi cuộc chiến đánh lén thành trận quyết chiến.

Trình Thế Hùng cười ha ha, ngáp dài nói: “Đồ ranh con, chúng ta không đi công thành, bọn chúng còn nhàn nhã đi đánh lén, haiz…cởi áo giáp về ngủ đi".

Dương Hạo theo hắn bước xuống một cái thang, trở về doanh trại của chủ soái, lúc này hắn đã nắm được các bộ phận tạo thành áo giáp cùng cách mặc nó, hắn thấy Trình Thế Hùng bỏ mũ bỏ áo khoác, bèn nói: “Mới vừa rồi tin cảnh báo đột nhiên truyền đến, thuộc hạ thấy cảnh tấn đến từ bắc thành, còn phỏng đoán quân hán phải chăng nhân đêm hôm phá vòng vây chạy về phía thảo nguyên, nay thấy mục đích của chúng là muốn nhiễu loạn tinh thần của quân ta, tướng quân không lo chúng sẽ lại tập kích doanh trại ta sao?”


Trình Thế Hùng nói: “Đêm hôm tập kích, loại này nhằm lúc đối phương không để ý đánh, một khi bị người ta biết tỏng âm mưu quỷ kế thì không thể đánh được nữa. Tình cảnh này xem ra quân địch nửa đêm đánh úp không phải là vì muốn phá vòng vây mà là để làm nhiễu loạn tinh thần quân sĩ ta, hắc! nay các doanh trại đã có sự đề phòng rồi, bọn chúng còn dám trở lại nữa không? Ngươi cũng đi ngủ đi”.

Dương Hạo nói: “Dạ vâng, mời đại tướng quân đi ngủ trước, thuộc hạ đã lệnh cho mình mỗi ngày phải bổ đủ năm trăm nhát đao, hôm nay còn kém ba đao”.

Trình Thế Hùng bật cười nói: “Nhưng ba đao ấy hôm nay có thể bỏ qua, đi ngủ đi”.

Dương Hạo hơi do dự nói: “Ngày nào cũng luyện đao, thuộc hạ nếu hôm nay với lí do là vì một người mà thiếu đi ba đao, thì ngày mai sẽ có một lí do khác để giảm đi mười đao, càng ngày càng giảm xuống, cuối cùng sẽ không thực hiện được nhiệm vụ mình đề ra cho mình, cho nên số đao chỉ có thể tăng lên mà không thể giảm đi”.

Trình Thế Hùng ngạc nhiên nhìn hắn một cái, cười ha ha nói: “Tiểu tử tốt, được lắm, vậy ngươi đi đi, luyện xong đao thì đi ngủ sớm đi”.




Lúc này, đại tướng phương bắc Lưu Kế Nghiệp đã lặng lẽ tập trung được 600 tên kỵ binh tinh nhuệ bên trong cánh cửa. Hai mươi tên bắn nỏ đã được phái ra ngoài, bọn chúng ẩn mai phục, có nhiệm vụ là bắn chết binh ở trạm canh gác phòng thủ của doanh trại Trình Thế Hùng.

Chân tướng mục tiêu mà hắn đêm nay đánh úp không phải doanh trại phía bắc mà là doanh trại phía tây. Trong bốn doanh trại ngoài thành, chỉ có doanh trại phía tây không phải do cấm quân khống chế mà là trong tay nắm chiết thị tây bắc, hơn nữa quân đội của họ vừa mới đổi lại phòng ngự ra trận, tinh thần, lòng quân, sức chiến đấu chưa từng chịu nhục, không phải là trận mạnh nhất, điều này cũng chính là một trong những nguyên nhân mà Trình Thế Hùng phỏng đoán hắn sẽ không đến.

Nhưng Lưu Kế Nghiệp cứ làm ngược lại với cách của đối phương, trong con mắt của hắn, tinh thần của doanh trại phía tây đang thịnh cho nên không chú ý đến đề phòng, điều này chính là một cơ hội tốt để đánh úp. Nếu đánh úp doanh trại phía tây mà thành công thì triều đình sẽ trách sự lơ là mất cảnh giác của doanh trại phía tây, để địch nhân cơ hội. Mà doanh trại phía tây thuộc về Chiết thị, bọn quân sĩ tất cũng sẽ oán trách binh mã triều đình thấy chết mà không cứu. Bọn chúng một khi mà rời trung tâm, binh mã vây thành sẽ không là một khối đá nữa, Bắc Hán sẽ có cơ hội, Lưu vô địch chính là vô địch, không phải binh của hắn kiêu dũng với người Khiết Đan, cũng không phải là hắn lấy võ công để đánh với vạn địch, mà chính là vì mưu lược cùng chiến thuật của hắn. 

Vờ đánh úp doanh trại phía bắc, khi các doanh trại đều bỏ sức chú ý, hai mươi tên thần tiễn dưới tay hắn đã lén lút che đậy nơi dừng chân của Trình Thế Hùng hướng về doanh trại phía tây ngấm ngầm bắn chết các tên ở vọng gác, rửa sạch cự mã lộc sừng, làm tốt công tác chuẩn bị để kỵ binh của hắn đột ngột đánh úp.

Phía trước hết thảy đã chuẩn bị sẵn sàng, phát ra hỏa tín hiệu về phía hắn, Lưu Kế Nghiệp lập tức mở to cửa thành, đích thân dẫn 600 tráng sĩ nhanh chóng tiến đến đại doanh trại của Trình Thế Hùng như vũ bão.

Dương Hạo vừa mới đi tới đống củi bên cạnh doanh trại, giơ cây đại đao lên, tiếng chém giết từ phía trước doanh trại truyền tới, Dương Hạo giật mình, cầm đao nhanh chóng chạy về phía doanh trại chủ soái, thì thấy y bào của Trình Thế Hùng nửa hở, đang thắt lại dây đai, chạy từ trong trại chạy ra.

Hắn đoán tối nay quân địch sẽ không đánh úp lần thứ hai nữa, cởi sạch quần áo, trong áo bào còn chưa mặc quần áo bên trong, nửa thân ngực còn phơi ra để rõ chút lông ngực, xem ra Trình tướng quân vẫn buồn ngủ. Hắn đã đi giày, song dây tất vẫn chưa thắt, khăn trên đầu cũng đã bỏ đi, tóc tai bù xù, dáng vẻ giống như vừa mới bị một phu nhân sư tử hà đông đuổi từ trên giường xuống.

Trước doanh trại đã dấy lên ngọn lửa, bởi trung sĩ trong doanh trại lớn vì quân Bắc Hán đánh lén thành bắc không có kết quả đã luông lỏng cảnh giác, cho nên chiêu này của Lưu Kế Nghiệp “Hồi mã thương”, quả thực ứng phó không kịp. Họ vừa mới cởi bỏ áo giáp, nay lại vội vàng mặc vào, chờ đến lúc nhắc đao ra khỏi doanh trại, kỵ binh Bắc Hán đã đánh tới như vũ bão, khắp nơi lửa cháy nghi ngút, đến chiếc xe cỏ cũng bị thiêu trụi, khiến cho doanh trại đại loạn.

Trình Thế Hùng vì bản thân sai lầm khi liệu việc, tức điên người lao ra khỏi doanh trại, vội vàng thắt chặt áo bào, tiếng như xé gió: “Quân địch đánh úp?”

Sớm đã có người đến trước vài bước, quỳ gối bẩm: “Khởi bẩm đại tướng quân, mấy trăm kỵ binh quân Bắc Hán đêm hôm đánh úp quân ta, ngựa dẫm đạp lên các doanh trại, giống như muốn xuyên qua doanh trại phía trước, giết thế trận của đại tướng quân, xin mời đại tướng quân định đoạt”.

Trình Thế Hùng hét lớn: “Địch vừa đến chỗ ta, ta sẽ nghênh địch đi, chuẩn bị ngựa, theo ta giết địch”.

Một thân quân vội vàng khuyên nhủ: “Đại tướng quân, trước doanh trại hỗn loạn, ta địch khó phân, trong bóng đêm không thể liều lĩnh được, chi bằng chúng ta bảo vệ thế trận cũ, xin đại tướng quân nhanh chóng điều động các doanh trại đến viện trợ”.

Thân binh vội vàng nói, Trình Thế Hùng mắng hắn, rồi nhảy lên một con chiến mã, cây đuốc sáng rực, chỉ thấy hắn râu tóc như bay, hai mắt long sòng sọc, tiếng hét như sấm rền vang trời: “Theo ta giết địch!” Dứt lời liền cầm cương ngựa, xung trận về phía trước doanh trại, nơi ánh đèn và sự chém giết.

Chương 137: Chiến sĩ.



Tác giả: Nguyệt Quan

Nguồn: Sưu tầm



Thân binh vừa nhìn thấy Trình đại tướng quân ra ngoài chém giết thì như ong vỡ tổ xung trận về phía trước doanh trại. Thân binh đều là dũng sĩ mà Trình Thế Hùng đích thân tuyển chọn. Ai cũng là người không sợ chết, trong đó có vài tên là giang hồ đã gác kiếm. Sau đó được Trình Thế Hùng chiêu mời đến.

Dương Hạo cầm đao theo đám thân binh tiến ra ngoài phía trước doanh trại. Nhưng trong lòng lại nghĩ: “Mới vừa rồi ngươi còn nói đêm tối đen thui, tình địch không rõ, không thể tự loạn trận cước được. Chưa từng nghĩ lời này có thể cầm ra để giáo huấn người khác. Đến cái đầu của bản thân như vuốt râu hổ. Trình đại tướng quân đánh nhau như vậy kể ra cũng lỗ mãng thật”.

Theo một vị tướng quân như này, hắn cũng không biết họa hay là phúc. Lúc này không rảnh suy nghĩ nhiều, chỉ lo phóng về phía trước, đợi hắn xông vào doanh trại phía trước, chỉ thấy Trình Thế Hùng đại kích huy vũ. Đã đánh chết bao nhiêu bọn kỵ sĩ đánh úp. Hắn lớn tiếng quát tháo. Móng chiến mã chồm lên phía trước. Hí một hồi dài. Đại kích trong tay hắn đã chọc trúng một kỵ sĩ trong quân địch.

Tên kỵ sĩ nọ tay bị thương, đau nhức ở huyệt đan điền. khẽ nói: “Mở”.

Chỉ nghe thấy một tiếng “leng keng”. Thương kích tương giao. Đại kích của Trình Thế Hùng bật ra. Với thần lực của Trình Thế Hùng, ít ai chịu được một đòn của hắn. Tên này lại có thể chặn được đòn đại kích của hắn. Trình Thế Hùng không khỏi kinh ngạc. Giờ hắn mới gặp một tên địch mạnh như vậy.

Tên địch này chắc chắn là Kế Nghiệp. Lưu Kế Nghiệp dùng một cây đại thương, suất 600 tên kỵ sĩ lao như mưa vào doanh trại quân địch. Thừa lúc tướng sĩ trong doanh trại Trình Thế Hùng không kịp phản kích liền phi ngựa dẫm lên các doanh trại. Khắp nơi phóng hỏa làm hỗn loạn. Tiến đến giết chủ soái trong doanh trại phía trước. Mục đích của hắn là bắt tặc bắt tướng. Nếu như không thực hiện được mục đích này, không giết nổi chủ tướng chủ soái của đối phương thì cũng phải làm cho quân chủ soái bị nhiễu loạn, khiến cho chủ soái không thể chỉ huy được nữa. Lúc đó cho dù quân địch người đông thế mạnh, trong đêm tối mù mịt không ai có thể điều độ chỉ huy, sẽ biến thành một toán tan rã. Chiến lực theo đó mà tan. Lúc đó quân địch dù có mười vạn tên cũng như một đám đợi làm thịt. Còn có thể ngăn cản nổi hắn một con sói liều chết sao?

Không ngờ hắn vẫn chưa phá tan được quân cuối cùng trước doanh trại. Trong bóng đêm có một tên Đại Hán thúc ngựa phi như bay đến. Phát ra tiếng hò hét kinh thiên động địa từ xa, lập tức giữ quân sĩ khắp trại hỗn loạn. Quân Tống hoảng loạn, dưới sự chỉ huy từ tướng lớn đến tướng nhỏ tổ chức lại thành sự phản kháng. Đại hán sử kích lại càng bổ thẳng đến. Cây đại kích trong tay đâm vào những tên dũng sĩ đánh úp. Lưu Kế Nghiệp thấy tên này rất có kĩ thuật đánh. Hơn nữa một tiếng hét lớn có thể làm ba quân ngưng lại. Hắn là chủ tướng của quân này. Trình Thế Hùng lập tức đề mã nghênh đón. Hai người đánh một trận lâu. 

Một tốp thân binh chạy từ doanh trại chủ soái tới. Lưu Kế Nghiệp và Trình Thế Hùng một nhát kích một nhát thương. Đã được mấy chục hiệp. Lúc này tình hình xung quanh đối với phía Lưu Kế Nghiệp mà nói càng đánh càng không có lợi. Lần này đánh úp tuy làm loạn doanh trại thành công. Nhưng không thể làm loạn trận thế của quân địch. Quân của Trình Thế Hùng lúc này vẫn vững vàng như núi, hỗn loạn đang dần dần lắng xuống, người ngựa trong doanh trại đang từ từ tới gần đây. Thế ám hình hợp vây đến trận đánh úp này đã mất đi ý nghĩa vốn có của nó.

Nếu như Lưu Kế Nghiệp có thể ám sát Trình Thế Hùng, thì cái chết của Trình Thế Hùng sẽ khiến cho doanh trại thành tây từ ổn định trở nên hỗn loạn. Nhưng hắn không phải là đối thủ của Trình Thế Hùng. Nói về mưu lược, hắn mạnh hơn Trình Thế Hùng. Nói về võ nghệ, cây đại thương của hắn so với cây đại kích cử trọng của Trình Thế Hùng. Rõ ràng là kém một bậc.

“Thôi đi, lại xuống nữa, toàn bộ 600 tráng sĩ sẽ chôn vùi ở doanh trại này”. Lưu Kế Nghiệp thầm than cơ hội đã mất, hắn hoảng loạn trèo lên ngựa đi. Cao giọng hét lớn: “Các huynh đệ binh sĩ, theo ta quay về doanh trại”.

Lưu Kế Nghiệp giật đầu ngựa đi về. Võ công của hắn, hơn nữa lại có con chiến mã tốt. Thật không có mấy người ngăn nổi hắn. Nhưng những kỵ sĩ mà hắn mang đến đã bị sĩ tốt của quân Tống ghìm chân. Nào nói đi là đi ngay, Trình Thế Hùng thấy hắn bỏ chạy, nào chịu thôi. Vội vàng đi theo sau hắn.

Lúc này trước doanh trại là bức tranh hỗn chiến. Dù trên chiến trường trận đấu kịch liệt. Nhưng đối với Dương Hạo lần đầu lên chiến trường mà nói, đã khiến hắn vô cùng bị chấn động.

Hóa ra đây là chiến trường. Người giống như dã thú vung đao múa thương. Tròng mắt đỏ ngàu liều mạng chém giết. Nào thì run sợ, nào thì máu tanh, nào thì cảnh tàn khốc, nếu không đặt mình trong cảnh tượng đó thì khó mà cảm nhận được

Hắn giết người, giết hai mạng người, hơn nữa là một đao mà chết. Nhưng so với hiện nay, quân Bắc Hán và Tống cùng chém giết nhau, không khác gì giết gà giữa ban ngày ban mặt. Trong lúc phẫn nộ giết người và đối thủ bị tiêu diệt tàn khốc trên chiến trường lạnh lẽo vốn hoàn toàn khác nhau. Khó trách Tần Vũ Dương mười hai tuổi giết người không ghê tay. Nhưng đến Tần Vương đại điện sắc mặt trái lại tái nhợt. Luống cuống hốt hoảng. Hắn không sợ chết, và không phải hắn chưa từng thấy dân chợ búa chịu cái chết giữa mặt phố.

Hàng vạn hàng nghìn sĩ tốt hò hét chém giết. Hàng trăm tên dũng sĩ quơ đao kiếm bên người hắn. Đầu lâu và máu quân định la liệt, làm cho Dương Hạo lần đầu ở chiến trường chán nản. Hắn nhìn thấy những đồng đội của mình lăn xuống ngựa, liều mạng với những dũng sĩ quân Bắc Hán, nhưng không nên xông lên như thú vật nuốt chửng lấy quân địch thế này.

“Mau tránh ra”.

Dương Hạo đứng cầm đao. Sợ hãi xem cảnh tượng không lãng mạn, không bi tráng trước mặt. Toàn là máu tanh cùng những trận chém giết điên cuồng. Bỗng nhiên chân hắn trượt một cái. Cái trượt này lực vô cùng lớn, khiến cho người Dương Hạo lăn ra chỗ khác, lúc hắn ngã xuống thì thấy một ánh sáng sắc lạnh chợt lóe. Khó khăn lắm hắn mới đứng thẳng được.

Là thân vệ Thạch Song của Trình Thế Hùng. Thạch Song hơn hắn không nổi vài tuổi. Khuôn mặt đầy đặn nhưng giống một đồ phu gần bốn mươi tuổi. Bình thường cũng ít nói cho nên Dương Hạo tuy cũng là thị vệ nhưng không thân với hắn. Không ngờ vào thời khắc quan trọng lại là hắn cứu mạng Dương Hạo.

Thạch Song nhìn thấy hắn giơ đao đứng ở chỗ đó nhìn ngang nhìn ngửa. Có dáng vẻ thấp thỏm. Thật không có gì mà trách cứ cả vì người vừa mới vào chiến trường phần lớn đều như vậy, nhưng chỉ cần bò ra từ trong đống người chết một lần thì lần sau lại lên chiến trường. Hắn sẽ từ một tên trông cửa cho chó thành một con sói thảo nguyên.

Hắn đang đánh giáp lá cà với địch. Thấy một tên cầm đao quân Bắc Hán lăn xuống ngựa bổ một nhát mạnh vào Dương Hạo, bèn vội vàng đến trước một bước, một chân đá văng Dương Hạo ra, cứu lấy cái mạng của tân binh mới này. Nhưng cái chân đó của hắn không kịp nhận thế. Cương đao tàn nhẫn của chiến sĩ Bắc Hán bổ trúng, hắn đau đớn kêu lên một tiếng, người đổ phía trước.

Một vài tên Bắc Hán cưỡi ngựa đánh úp, người người cưỡi tuấn mã, mặc áo giáp, tay cầm cung tên. Đao để bên sường, còn tay kia cầm trường thương. Trên ngựa dùng thương, xuống ngựa dùng đao. Bắn tên từ xa. Thân mặc áo giáp. Để tận lực bảo vệ lực lượng tinh nhuệ của bản thân, Lưu Kế Nghiệp có thể được coi là hao tổn bao tâm sức, trong tình cảnh trứng chọi đá ở trong thành Bắc Hán, bọn chúng được trang bị đầy đủ như vậy để đánh vũ trang, hắn đã dốc hết lực lượng lớn nhất của mình.

Nhưng mà hắn thực sự đánh giá sai phản ứng của Trình Thế Hùng, và cũng không ngờ rằng quân nhân mã của Trình Thế Hùng lại nghiêm ngặt như vậy. Sau khi đánh úp thành công không thể tạo thành bùng nổ doanh trại vì dựa vào tiếng tăm của Trình Thế Hùng chỉ một tiếng thét đã khống chế được thế loạn, do vậy khả năng sống sót của hàng trăm chiến sĩ quân hắn cực kỳ nhỏ bé.

Nhưng những con hổ mà Lưu Kế Nghiệp mang đến đều là những dũng sĩ dám chết. Võ sĩ lúc nãy bổ một đao trúng vào chân của Thạch Song. Nhân lúc người hắn ngã quỵ đổ về phía trước liền xông đến một bước. Đao trong tay thuận thế vung lên, một tiếng “Phốc” chặt đứt cánh tay của hắn.

Chưa từng nói một tiếng cảm ơn với hắn, chưa từng có một khuôn mặt tươi cười hữu hảo khi nhìn thấy hắn. Chiến hữu ấy cứu cái mạng của hắn, đến một tiếng cảm ơn hắn cũng chưa nói thì đã chết, Dương Hạo ngây ra: Đây là chiến trường tàn khốc, nhưng ai nói nó không bi tráng và lãng mạn? Sau những vết máu tanh kia, trong những cái tàn nhẫn của quân địch ai bảo không có một tình nghĩa huynh đệ nồng đậm tình đồng chí? 




Mắt hắn đỏ dần lên, các chiến sĩ dùng hết mọi thủ đoạn liều mạng mà giết địch. Lộ ra sự điên cuồng của máu tàn nhẫn. Hắn hét lớn một tiếng, vung đao nhằm hướng tên võ sĩ Bắc Hán kia bổ đao xuống. Trong lúc nổi giận điên cuồng, cả người hắn toàn máu là máu. Cái chết của Thạch Song tựa như một lượng sát khí và dũng khí cực mạnh cho hắn. Bổ một nhát đao xuống hắn hét lớn một tiếng, như điên cuồng vậy.

Nhưng trong tâm hồn hắn vẫn bảo trì một con đường rõ ràng. Vẫn nhớ như in một câu của Trình Thế Hùng nói với hắn: “Thế không thể dùng mãi, phúc không thể hưởng mãi, cái lợi không thể chiếm hết. Làm việc là một đạo lý, dùng đao giết người cũng như vậy, mỗi nhát đao ngươi đều cần chú tâm tập trung tinh thần. Nhưng mỗi nhát đao đều phải lưu lại ba phần, lúc xuất đao thu đao cũng phải nhanh. Thế đao liên miên như cuồng phong bạo vũ. Khiến đối thủ đến thời gian thở cũng không có”.

Dương Hạo trong lòng nhớ kỹ những lời dặn dò của Trình Thế Hùng. Giờ cái gì là đao pháp cao minh cũng không cần hiểu. Khí của bản thân không được coi là cao minh. Sự dũng mãnh, khí huyết trong lúc phẫn kích, hắn ghi nhớ cách dùng đao vận lực mà Trình Thế Hùng dạy. Một đao bổ xuống, đúng là đằng đằng sát khí. Đao pháp sắc bén. Tên võ sĩ đó của Bắc Hán bị hắn đoạt được tiên cơ, hắn lên một đao, xuống một đao, phải một đao, trái một đao. Bổ liên tiếp, không ngừng xuống. Tên đó đã mất tay, Dương Hạo chém xuống một đao, “Phốc” một tiếng, đầu người bay lên, một dòng máu tươi phun cao hai thước.

Máu nóng phun lên mặt. Hắn thò tay vuốt một cái, bèn quát to một tiếng. Cương đao giơ lên hơi cong, rồi xông ra phía sau chiến sĩ Bắc Hán giơ đao lên. Bổ mạnh xuống một nhát đao giống như bổ cây dọc đường. Một âm thanh phát ra, tách cột sống của tên chiến sĩ Bắc Hán ra làm đôi, nhát đao cách đốt sống đuôi của tên đó chỉ có ba tấc.

Quân Tống đó bị hắn cho một nhát đao hung mãnh. Trong ánh lửa hừng hực chỉ thấy mặt mũi Dương Hạo dữ tợn đầy máu me.

Còn về Trình Thế Hùng, hắn theo sát đại doanh của Lưu Kế Nghiệp. Ban đầu còn có vài tên thân binh muốn đuổi theo. Kết quả địch ta bị hỗn chiến, mất đi bóng dáng chủ tướng. Sau khi Trình Thế Hùng đoán rằng quân địch sẽ không đánh úp nữa bèn yên tâm không lo lắng gì. Kết quả lại bị quân Lưu Kế Nghiệp đánh lén. Thực sự mà nói, các bộ hạ của hắn đã cho hắn một cái bạt tai để sáng mắt ra. Trình Thế Hùng vừa xấu hổ vừa giận. Phẫn nộ vì giá trị của mình đã giảm. Hắn đuổi theo sau ngựa của Lưu Kế Nghiệp, chỉ muốn giết tên đại tướng kia.

Ngựa của Lưu Kế Nghiệp đi được nửa đường thì ngoảnh đầu nhìn lại. Không một binh một tốt nào được hắn mang về. Tóc tai rối bời. Trình Thế Hùng trường kích cầm trong tay, đuổi đến tận cùng, lại còn kêu u..wa… Lưu Kế Nghiệp tức giận. Hắn giật cương ngựa quay lại tái chiến với Trình Thế Hùng. Giao tranh hơn mười hiệp, vai phải của hắn bị Trình Thế Hùng dùng trường kích đâm thủng một lỗ. Lưu Kế Nghiệp giật cương ngựa tháo chạy. Chạy tới dưới tường thành, phía trước lại là chiến hào cự mã vừa rộng vừa sâu. Lưu Kế Nghiệp xoay người xuống ngựa. Bỏ ngựa nhảy xuống chiến hào.

“Bỏ chạy à. Đánh một trận xem nào. Mẹ kiếp. Lại còn vượt vào chiến.

Khí phách trong lòng Lưu Kế Nghiệp là vô địch. Thế nhưng đánh đơn chính là sở trường của Trình Thế Hùng. Mới vừa rồi giao đấu, hắn đã biết võ nghệ của mình không bằng Trình Thế Hùng. Huống chi lúc này lại bị thương, nhảy xuống dòng sông bảo vệ thành. Bơi đến chân thành. Kêu lên để cứu trợ.

Trình Thế Hùng đương nhiên sẽ không bơi qua sông bắt hắn. Chỉ đứng trên bờ sông mà chửi.

Quân thủ đầu thành Bắc Hán nghe thấy tiếng kêu ở dưới thành lập tức chưng đèn đuốc lên. Nhưng nhìn không rõ người dưới chân thành, tên tướng lĩnh từng biết Lưu Kế Nghiệp cũng không nhận ra âm thanh quen thuộc của hắn. Vội vàng gọi người dùng dây trói cái tên đó vào. Cho hắn ngồi vào một cái khung, kéo vị đại tướng quân mặt mũi đầy bụi đất đến đầu thành.

Trình Thế Hùng chỉ về phía thành đầu chửi té tát. Lo lắng trong thành phái người đi tìm. Lúc đó mới xoay người lên ngựa trở về doanh trại. Trong doanh trại lúc này đã kết thúc cuộc chiến. Các doanh trại đang được dọn dẹp sạch sẽ. Thân binh của Trình Thế Hùng đang lo lắng, đến khi nhìn thấy Trình Thế Hùng, bọn họ mới yên tâm.

Hơn trăm cây đuốc được thắp sáng để đón Trình Thế Hùng trở về. Sĩ tốt trong doanh trại nghe nói Trình đại tướng quân vô sự liền cất tiếng hoan hô. Tiếng hoan hô liên tiếp không dứt. Dương Hạo cũng đứng trong đó, cảm nhận được tầm ảnh hưởng của con người Trình Thế Hùng. Quả thực lực lượng của Trình Thế Hùng là rất lớn.

“Ta cũng có thể như vậy không?” Dương Hạo cảm thấy miệng hơi khô

Trình Thế Hùng đã nhìn thấy cái mặt dính đầy máu đen của hắn trong ánh đuốc cháy bập bùng. Với dáng vẻ đó rất xấu xí, nếu để cho một tiểu nương tử nhìn thấy thì có thể gặp ác mộng cả đêm. Nhưng trong con mắt của Trình Thế Hùng, đó là một huân chương vinh quang nhất của một chiến sĩ.


Trước mặt người khác hắn không có biểu hiện quan tâm đến dh thái quá, chỉ là thoáng nhìn qua rồi trở về đại doanh trại. Sau khi vào doanh trại, hắn mới dặn dò. Lệnh người ngay lập tức báo cáo cụ thể tình hình đánh úp của quân địch đêm nay với quan gia. Truyền tin bằng tiếng trống và ánh đèn tới các doanh trại và đại quân vây thành ở đông nam bắc.

Dương Hạo quan sát. Trước doanh trại: Chuyện binh trí tù quét sạch chiến trường, Trình Thế Hùng không hỏi một câu. Hoàn toàn giao cho tướng thủ doanh trại phụ trách. Các tướng quan khác dưới trướng hắn cũng đều nghiêm túc. Không ai rời khỏi đội ngũ chạy tới hỏi han sự an nguy của chủ soái. Chỉ lấy tín hiệu ra hỏi han. Sau khi biết Trình Thế Hùng bình yên vô sự thì các doanh trại liền tắt đèn. Một màn đêm yên lặng bao trùm. Dường như đêm nay chưa từng xảy ra một trận huyết chiến nào cả. Dương Hạo không kìm được âm thầm phục cách trị quân của Trình Thế Hùng.

Lại nói về chủ soái. Trình Thế Hùng và các thân binh cùng đến nhà bếp góc doanh trại. Tận tay vộc nước từ trong giếng lên. Các binh sĩ dùng nước lau lau những vết máu khô bám trên người. Trình Thế Hùng giống như bọn binh sĩ bình thường, cũng cởi trần. Nếu như không phải tay hắn bị thương, thì hắn cũng xách được xô nước lên.

Nước giếng mát. Bọn lính cười hì hì múc nước rửa sạch vết máu trên người. Chiến hữu, huynh đệ của bọn họ, có người thì đã chết, có vài người thì bị thương ở tay chân. Hôm nay sẽ ở lang trung trị dưỡng vết thương, nhưng trên mặt của các binh sĩ, Dương Hạo hoàn toàn không nhìn ra một chút đau đớn và tưởng nhớ gì cả. Dù mới vừa rồi trải qua một trận chiến. Cái chết có thể không chút do dự thay bạn chiến đỡ một đao. Lấy đao thương viết nhân sinh. Cái chết nhẹ tựa lông hồng chính là Đại Hán tây bắc. Vì cái chết của Thạch Song luôn đọng trong lòng Dương Hạo mỗi khi hắn nhìn thấy một vài huynh đệ tốt bỏ thân mình. Cũng nên mở lòng mình ra đi. Vì cái chết của Thạch Song mà nỗi buồn giận chất chứa trong lòng hãy quét sạch đi.

Hắn cởi khăn trên đầu ra, khiến mái tóc dài xõa xuống; Cởi chiến bào của mình dính máu ra. Cởi trần giống các chiến hữu của hắn. Kéo một thùng nước lên. Dội từ đỉnh đầu dội xuống. Tay xoa xoa người. Ngửa đầu nhìn bầu trời đen ngòm mà tĩnh mịt. Trên trời có vô số ngôi sao. Bên đó có một ngôi sao sáng nhất, nhất định là linh hồn của Thạch Song.

“Huynh đệ, được lắm. Nhìn ngươi điềm đạm ít lời thế này. Lần đầu ra trận giết địch mà hung hãn như vậy, giống binh tây bắc chúng ta lắm lắm. Không để cho đại tướng quân của chúng ta phải xấu hổ”. Khi trở về, Phạm Lão Tứ vỗ bả vai Dương Hạo khích lệ.

Tân binh luôn bị người ta xa lánh, ức hiếp. Dù Trình Thế Hùng đã từng gọi hắn là “Hạo ca nhi”. Nếu hắn là một loại vô dụng. Như vậy sẽ không có ai để mắt đến hắn. Trên chiến trường. Muốn đoạt được sự tôn trọng của người khác thì phải dựa vào một đao một thương. Trận chiến ngày hôm nay. Dương Hạo đã rất dũng cảm. Lại nói về chủ soái. Thân binh thị vệ đã tản đi, bọn chúng đều quay về trại nghỉ ngơi. Trình Thế Hùng đang định vào trại, đột nhiên dừng chân, thầm nói: “Dương Hạo”. Trại của Dương Hạo đóng ở bên phải trại của đại tướng quân. Hắn đang vào trại, tai dường như nghe thấy một âm thanh nào đó liền dừng bước, xoay người: “Tướng quân”.

“Ba đao của ngươi đêm nay đã luyện xong chưa?”

Dương Hạo hơi ngây người ra. Hiểu được ý của tướng quân liền cười. Chắp tay ôm quyền trịnh trọng nói: “Bẩm đại tướng quân, ba đao đó, thuộc hạ đã bổ xong rồi”.

Trình Thế Hùng vuốt râu, nghiêng đầu nhìn hắn. Đèn đuốc trong trại hắt ra chiếu vào hai mắt hắn, nói: “Cọc người này so với cọc gỗ kia, ngươi thấy thế nào?”

Dương Hạo thở dài, đáp: “Không dễ bổ ạ”.

Trình Thế Hùng cười ha ha. Một tay vén rèm đi vào trại: “Nghỉ ngơi đi, đại trượng phu muốn nổi tiếng hơn người. Thế giới này còn có cọc người cho ngươi chặt đấy”.

Chương 138: Thế sự xoay vần.



Tác giả: Nguyệt Quan

Nguồn: Sưu tầm



Sau khi Lưu Kế Nghiệp chọn trở về thành, 600 tráng sĩ của hắn mang tế hiếu bái, đau khổ khóc thất thanh. Qua trận đánh này. Hoàng Đế Lưu Kế Nguyên không lòng dạ nào run sợ, đối với đề nghị nửa đêm đánh úp lại không dám nhận, chỉ lệnh đóng chặt cửa bốn thành, phòng ngừa quân Tống lại tấn công thành. Vị Hoàng Đế Hậu Hán này mỗi ngày ở trong cung khuyết lên núi nhìn về phía xa, ngóng trông về hướng bắc, giống như hòn đá vọng phu. Sứ giả cầu viện của hắn sớm đã được phái đi, nhưng người Khiết Đan trái lại từ đầu chí cuối chưa từng lộ diện. Chẳng lẽ Phụ Hoàng Đế đã từ bỏ Nhi Hoàng Đế hắn này hay sao? Theo dòng thời gian trôi qua, Lưu Kế Nguyên càng ngày càng tuyệt vọng.

Hai ngày nay, Dương Hạo và Trình Thế Hùng thân mật, khăng khít, Dương Hạo lên một bổn phận quy tắc là một đời hình thành nếp sống của mình, hào hoa phong nhã, hình ảnh của binh khôn lỏi đã không còn tồn tại nữa, hắn giờ đã càng ngày càng giống một binh rồi.

Một ngày đội quân tốt gồm hắn cùng với Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên, Đái Lĩnh rời khỏi đại doanh, nhằm hướng tây nam càn quét. Vì trong quân nhận được tin, bị tàn binh Bắc Hán đánh cho hai ngày nay phá hủy con đường lương thực, tập kích đội ngũ quân nhu từ Quảng Nguyên chạy tới. Do nhiệm vụ ban đầu của người ngựa Trình Thế Hùng là phụ trách càn quét bên ngoài, từ đó Quan Gia chỉnh đốn đôi chút, cấm quân vốn vây thành và tấn công thành tây sau đó điều lên tiền tuyến, thay Trình Thế Hùng làm một bộ phận phòng ngự. Khiến con đường nhân mã mà hắn xuất động đảm bảo được an toàn. Dương Hạo vốn là thân binh của hắn, không cần chấp hành nhiệm vụ như vậy, nhưng Trình Thế Hùng ngoài miệng tuy nói trong quân doanh công tư phân minh, đối với sự quan tâm của hắn để hắn phụ trách nhiệm vụ này, trong đó không phải không có ý rèn luyện cho hắn.

“Dương sai sử, phía trước có một thôn, có lẽ có tàn binh bại tướng của Bắc Hán trốn trong thôn. Chúng ta có nên đi lục soát một phen không?”

Phạm Lão Tứ chỉ vê một thôn trang ở phía trước và hỏi ý kiến Dương Hạo. Phạm Lão Tứ và Lưu Thế Hiên là “Soa sử” một đường nhân mã, là quan, nhưng chưa có cấp bậc, chỉ là tống lĩnh trăm mười danh sĩ tốt, Dương Hạo là thân binh của Trình Thế Hùng, sau khi được phái đi, tạm thời nhận chức quan “Sai sử”, là người phụ trách đội ngũ này, song đồng nghĩa với “Sai sử” là một tiểu quan, đến phẩm cấp cũng không có.

Dương Hạo nhìn về phía trước, chỉ thấy trên đồng bằng có một cái thôn, thôn ấy rách nát, nghèo nàn vô cùng, nhà tranh vách đất, trước thôn lại có một cái sông nhỏ chảy qua, xung quanh trông rất hoang vu, dù cho có cả tàn binh Bắc Hán, cũng không có cách nào mai phục ở đây. Bèn vuốt cằm nói: “Ta dẫn binh vào trong kia trước, Lưu đại ca, Phạm đại ca, các ngươi ở bên cạnh chiếu ứng.

Dương Hạo lần đầu cầm binh, tuy nói thủ hạ chỉ có hơn trăm danh binh lính, là một chức quan còn nhỏ hơn cả bật mã ôn, nhưng có bất cứ quyết định gì đều phải hết sức cẩn thận, nhất là quan tâm các sĩ tốt. “Các huynh đệ xông vào cho ta”, nào là coi người khác làm huynh đệ của mình, ngay cả vài binh lính này cũng là một ruột mù chữ với nhau, cũng có thể phân rõ. Hắn ghi nhớ “Phải ưu tiên sĩ tốt mới được sĩ tốt ủng hộ”.

Dương Hạo nói xong không đợi bọn chúng từ chối, liền dẫn một đường người ngựa vào trong thôn đó trước. Trong thôn im ắng, một đội đại binh khiên thương tiến vào, cũng không làm náo động cảnh tượng, thôn nhỏ này thực sự là rất nghèo, tựa như một cái cây già cỗi chỉ có vẻn vẹn hai chiếc lá, xác xơ không có một chút sức sống.


Dương Hạo không chỉ tìm mỗi chỗ sân, mỗi căn phòng, cái sân vỡ, hắn chỉ đi dọc về phía trước men theo con đường lớn, đi thẳng đến cuối thôn, ở con đường chủ yếu đều sắp xếp cảnh bị, lúc này mới ra phía sau vẫy tay ra hiệu, Phạm Lão Tứ và Lưu Thế Hiên hai tên đó lập tức ra lệnh cho bộ đội sở thuộc tản ra, tìm kiếm từng căn hộ, đuổi bọn dân trong trôn ra.

Dân làng lâu đời đều sống ở đây, từ sinh đến tử không đi đến nơi nào mà có bán kính hơn 20 dặm, sinh ở đây, chết cũng ở đây. Chỉ muốn chết ở nơi này, cho dù nơi đây là một nơi cằn cỗi. Cho nên ở đây không có chút kiến thức gì, nhưng khi nhìn thấy binh Đại Tống, binh Chiết gia, binh Bắc Hán, binh Khiết Đan, thậm chí bọn thổ phỉ hỗn tạp Tây Vực từ xa tới, khi dân chúng bị đuổi từ trong nhà ra, Dương Hạo không thấy khuôn mặt họ có chút gì kinh ngạc mà là một vẻ đờ đẫn.

Thôn này có già có trẻ, có nam có nữ, nhưng có một điều không ngoại lệ đó là thân hình cò hương, quần áo rách nát, có vài nhà nghèo đến mức bọn trẻ con không có quần áo mà mặc, cuốn một cái chăn đơn rách nát đi ra.

Dương Hạo nhíu nhíu mày, nói với Phạm Lão Tứ: “Dân thôn quá khổ, không có một tên nào làm binh ăn cơm kẻng, thôi, không cần làm khó bọn họ nữa”.

Phạm Lão Tứ nhếch mép cười nói: “Haha, Dương chỉ sử không cần phải lo lắng, nhà trong thôn này ngoài rách nát còn có cái chăn sắp rách, ở đâu còn có thứ gì, các huynh đệ không coi thường”.

Dương Hạo tay cầm đao, ánh mắt đảo qua người bọn thôn dân, nhìn thấy một vài cô nương, mặt mày xanh xao vàng vọt, bèn nói: “Ồ, còn có một điều, không được hiếp dâm đàn bà con gái”.

Phạm Lão Tứ nói: “Điều này, Phạm Lão Tứ dám vỗ ngực bảo đảm với Dương chỉ sở, chúng ta dưới trướng của Trình đại tướng quân, công thành chiếm đất, cương trận chém giết, chuyện nhặt được tiền tài là có, đại tướng quân cũng không cấm, nhưng chữ “Dâm” này, Trình gia quân chúng ta tuyệt không xúc phạm”.

Phạm Lão Tứ vừa dứt lời, thì nghe thấy một tiếng khóc của một phu nhân truyền tới: “Quân gia khai ân, bỏ qua cho mẫu tử tôi, ai da…”

Dương Hạo nheo mày, lập tức cất bước đi về phía căn phòng đó, Phạm Lão Tứ vừa nãy to mồm trước mặt Dương Hạo, nay nghe thấy động tĩnh này, cũng không biết là có phải tên quân tốt nào đó thấy sắc sinh ham muốn không, không khỏi hậm hực mà mắng một câu, theo Dương Hạo bước nhanh đến.

Dương Hạo đi đến cái sân nọ, thì nhìn thấy một tên sĩ tốt tay cầm đao đang xông vào phòng, một phu nhân chặn cánh tay hắn lại, đồng thời cầu khẩn một cách đau khổ nói: “Quân gia, tiểu phu nhân ta không có lừa ngươi, thật không lừa ngươi…”

Dương Hạo nhìn tình cảnh này không giống quân tốt ức hiếp đàn bà, vẻ giận dữ trên mặt mới dịu đi, trầm giọng hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”

Quân tốt nọ quay đâu lại nhìn, thấy Dương Hạo vội vàng vung tay vứt mụ đàn bà đó ra, nói: “Dương chỉ sử, thuộc hạ phụng mệnh lục soát phòng, mang tất cả dân thôn ra ngoài, nhưng mụ đàn bà này lại mượn cớ là con trai mụ mắc bệnh lạ không được nhìn trực tiếp ánh sáng mặt trời, ta nghĩ, trong phòng này ắt có điểm khả nghi”.

“Ồ?”Dương Hạo nhìn mụ đàn bà đó, tuổi tác mụ này không đến mức quá già, cảm thấy chỉ khoảng đầu ba mươi, nhưng tóc đã hoa râm, sắc mặt tiều tụy, dáng vẻ có vài phần giống lão nương. Dương Hạo giọng hơi run: “Đại tẩu chớ khóc lóc, nhi tử của ngươi bao nhiêu tuổi rồi, mắc bệnh gì, sao lại không được gặp ánh sáng mặt trời?”

Mụ đàn bà đó thấy hắn nói chuyện ôn hòa, liền bổ nhào tới chân hắn, rơi lệ khẩn cầu nói: “Vị thái úy, xin ngài thương xót, bỏ qua cho ta, bỏ qua cho nhi tử của ta, nhà ta nghèo, nào dấu giếm gì hán binh, ta không dám lừa gạt, con ta từ nhỏ đã mắc căn bệnh quái gở này, bình thường thì không sao, nhưng một khi gặp ánh sáng mặt trời thì toàn thân sẽ nổi mụn nước, dẫn đến thối rữa, nguy hiểm tới tính mạng. Những điều mà ta nói đều là thật, trong thôn già trẻ trai gái ai ai cũng biết, tuyệt không dám lừa gạt Thái úy”. 

Phạm Lão Tứ giận giữ nói: “Ngươi mụ đàn bà ăn nói hồ đồ, con ngươi rốt cuộc là người hay quỷ? Trong thiên hạ, nào có căn bệnh sợ gì không sợ, lại sợ gặp ánh nắng bao giờ, ngươi rõ ràng là xuất ngôn bừa bãi, lừa gạt chúng ta!”

Mụ đàn bà nọ bị hắn quát, sợ đến mức cả người run bắn lên, Dương Hạo phất tay bảo Phạm Lão Tứ dừng lại, hắn khom lưng nâng mụ đàn bà đó lên, nói nhỏ: “Bổn chi sử phụng lệnh lục soát quân tàn phiệt Bắc Hán, căn phòng này nhất định phải lục soát, ngươi nói con ngươi không thể nhìn thấy ánh nắng, ta đây vào thử xem thế nào, được không?”

Mụ đàn bà nọ chưa trả lời, Phạm Lão Tứ đã nói: “Nếu như vậy, thuộc hạ vào trong lục soát”. Dứt lời hắn nhấc chân đá văng cửa phòng xông vào. Dương Hạo cảm kích tấm lòng yêu mến của hắn đối với mình, nhưng tác phong lỗ mãng đó thật không xứng, hắn hơi nhíu mày, đi theo phía sau vào phòng.

Cửa phòng bị đá văng ra, một tia sáng hắt vào, hình lên một cái hình chữ nhật ở trên mặt đất, ở cái giường đối diện, có một cậu bé ngồi chồm chỗm với cái thân gầy trơ xương, cố nhấc cái cánh tay gầy tong teo lên để che ánh sáng cho đỡ chói mắt.

Phạm Lão Tứ vào phòng nhìn hắn một cái, hắn nắm chặt cương đao đi lục soát một lượt, nhưng căn phòng rách nát này đến đồ dùng trong nhà cũng không có, xung quanh trống rỗng, làm sao dấu người được.

Dương Hạo đi vào trong phòng, nhìn thấy đứa bé đó, liền nói: “Đóng cửa phòng”.

Các danh sĩ tướng đi theo sau vội vàng đóng cửa phòng lại. Trong phòng ánh sáng dần tắt, tay của cậu bé kia mới dần dần buông xuống, đôi mắt nhìn về phía Dương Hạo. Hắn gầy đến đáng thương, cổ bé tí đỡ lấy cái đầu tương đối to, da hắn trắng bệch, con ngươi hơi vàng, ngồi chồm hỗm ở đầu giường giống như một con chó con, nhưng ánh mắt hắn lại giống một con sói.

Dương Hạo đi từng bước qua hắn, mụ đàn bà nọ vội vàng nói: “Thái úy lão gia”. Mụ ta muốn chạy lại ôm lấy nhi tử của mình thì bị quân sĩ giữ lấy.

Dương Hạo ôn tồn hỏi: “Tiểu tử kia, ngươi tên gì?”

Tên đó không đáp, chỉ dùng ánh mắt đối địch nhìn hắn, Dương Hạo mỉm cười nói: “Mẫu thân ngươi không gạt ta, ta tin lời nói của bà ấy”.

Ý nghĩ đối địch trong mắt cậu bé đó lập tức mất đi. Thế giới tâm linh của trẻ con thật đơn giản, yêu đơn giản, hận đơn giản, hơn nữa dễ dàng thỏa mãn, Dương Hạo vừa nói tin mẫu thân hắn thì hắn đã tin tưởng Dương Hạo, chút thân thiết và có phần cảm kích.

“Ngươi từ nhỏ sinh ra đã mắc bệnh này à, không bao giờ ra ngoài chơi à?”

Lúc này, tên nó mới nói: “Có ra ngoài, mẫu thân ta mỗi tối đều đưa ta ra ngoài chơi, khi không có mặt trăng thì châm đèn lồng, trong thôn này ai cũng biết ta, ta còn trèo lên cây lấy trứng chim cơ mà, nhưng…chưa có ai chơi với ta. Những đứa trẻ khác những lúc ấy đều đã ngủ rồi.”

“Ừ”. Dương Hạo xoa xoa đầu hắn, tóc rất ít. Hắn biết, đứa trẻ này mắc chứng bệnh da liễu rất lạ, trong một vạn người chưa chắc đã có một người mắc chứng bệnh này, trước mắt đứa trẻ này là một trong số đó. Ở thời đại này, một người chỉ có thể buổi tối mới gặp người. Sống trong sự gian khổ như vậy, nhà lại quá nghèo, vĩnh viễn sẽ không trở thành một trụ cột trong gia đình được, nhưng mẫu thân vẫn rất yêu thương, quan tâm đến nó. Có thể nói, hai bọn họ sống trong một cái thôn nhỏ nghèo nàn này thật không dễ dàng. 

Dương Hạo hỏi: “Ngươi tên là gì?”

“Gọi ta là Cẩu Nhi”

“Không có đại danh à?”

“Không có, tên của ta chẳng bao giờ dùng đến. Trừ mẫu thân ta ra, ta không có người nào bên cạnh nữa, cũng không có ai gọi ta cả”.

Dương Hạo nghe xong, trong lòng chua chát, hắn là một cô nhi, nhưng đứa trẻ này lại còn cô độc hơn cả hắn. Dương Hạo im lặng một lát, sờ tay vào bụng, lấy ra bốn mươi quan tiền. Đó là một tháng quân lương của hắn. Dương Hạo để tiền ở đầu giường. Sau đó xua tay với Phạm Lão Tứ và các quân sĩ nọ nói: “Chúng ta đi thôi”.

Ánh mắt của Cẩu Nhi nhìn theo hắn. Đợi đến khi Dương Hạo bước ra cửa, hắn vội vàng hỏi: “Đại thúc, ngươi tên là gì?”

Dương Hạo quay đầu nhìn hắn, cười nói: “Đại thúc tên Dương Hạo, nhớ chưa?”

Cẩu Nhi nghiêng đầu, có vẻ nó đang cố gắng nhớ lấy cái tên này, sau đó nó gật đầu nói: “Dương Hạo đại thúc, ta nhớ kỹ rồi”.

Dương Hạo lắc đầu cười, vì hắn nhất thời rung động, nên tiện tay để lại tiền quân lương tháng này cho hai mẹ con đáng thương đó, nhưng không thể mỗi lần nhìn thấy những người đáng thương mà giúp đỡ họ như vậy, làm sao giúp bọn họ được cả đời. Hành động đó, hắn không để bụng.

Rời khỏi hộ gia đình đó, Dương Hạo lại lục soát một lần nữa trong thôn, thôn này nằm trên con đường vận chuyển lương thực từ Quảng Nguyên đến dưới thành Bắc Hán, nhưng trong thôn lại không có tung tích gì của tàn quân Bắc Hán, hỏi thôn dân của thôn này cũng không có chút tin tức nào. Lúc này đã qua giờ ngọ, tuy không phải lúc giữa trưa mặt trời chói chang, nhưng mặt trời chiếu xuống vẫn nóng như lửa đốt, Dương Hạo bảo đội quân lại đi lục soát một lượt nữa rồi quay trở lại con đường.

Khi ánh mặt trời không còn nóng như lúc nãy nữa, Dương Hạo dẫn người đi về hướng đô thành Bắc Hán. Đi qua một con đường núi, nhìn thấy một tòa thành cô độc ở một đồng bằng rộng lớn trước mắt, Dương Hạo hơi thẫn thờ, hơn trăm danh tướng sĩ cũng ngây ra.

Trước mắt vốn là một thành trì hùng vĩ. Dưới thành là một loạt doanh trại san sát nhau, cờ cắm ở doanh trại như mây, trống trận như sấm. Xung quanh thành trì có vô số chiến sĩ của Phạm Dương Mạo đang chém giết công thành, mũi tên bay qua bay lại như mây đen. Mấy trăm hòn đá được vứt xuống đất như vũ bão.

Nhưng bây giờ, cảnh tượng đó không nhìn thấy nữa. Doanh trại trải dài, không có đại quân tứ phía công thành nữa, không có mưa bão mũi tên nữa. Không có những hòn đá tảng ở trên trời khiến người ta phải khiếp sợ nữa. Nước sông cuồn cuộn đến, bao phủ lấy nửa thành, đô thành Bắc Hán hôm nay đã là một mảnh đại dương mênh mông.

Chương 139: Một kế cũng không thành.



Tác giả: Nguyệt Quan

Nguồn: Sưu tầm



Gần đây nước mưa rất dư thừa, sông lớn sông nhỏ tràn nước, nhưng mà không hiểu sao lại làm cho đô thành Bắc Hán biến thành một mảnh đại dương mênh mông thế này?

Đang lúc quân Tống hoảng loạn tìm kiếm đội ngũ mình, Dương Hạo trong lòng chợt lóe lên một ý nghĩ, hắn đã hiểu được: “Dẫn nước vào thành, đây là việc Tống quân mượn hiện tượng tự nhiên của thiên nhiên để vào thành”.

Dương Hạo vừa mới nghĩ đến đây, thì nghe thấy một tiếng trống trận, trong sơn cốc có nước sông vọt tới, đột nhiên giết được vô số binh tốt, xem trang phục biết ngay là cấm quân Đại Tống. Bọn họ quai thuyền nhỏ đi, nhiều chiếc thuyền được đóng bằng gỗ mộc, buộc với nhau thành bè gỗ lớn, trên thuyền và trên bè chứa cung, nỏ cứng, binh sĩ mượn sức mạnh của dòng chảy, không cần mất lực chèo thuyền, liền nổi trống xông đến cửa nam đô thành Bắc Hán.

Từ xưa đến nay, mượn sức mạnh tự nhiên đâu chỉ có thiên quân vạn mã, Quan Vân Trường nước ngập bảy quân, đều là lợi dụng địa thế, mượn sức mạnh của nước lửa tự nhiên, con người đã nghĩ ra cách như vậy, nhưng đây là một thành trì cao to hùng vĩ, thành được xây dựng dày rộng và rắn chắc, trận này sử dụng nước lũ thì có tác dụng gì không?

“Mau nhìn kìa, mau nhìn kìa, đó là người ngựa của bộ quân đô ngu hầu Triệu tướng quân”. Có vài tên binh sĩ nhìn thấy cờ cắm xung quanh mấy cái bè lớn, bèn hưng phấn hét to lên. Bọn họ đứng ở trên triền núi nhìn, chỉ thấy bộ quân đô ngu hầu Triệu tướng quân suất lĩnh các loại thuyền đơn sơ, bè gỗ kéo đến dưới chân thành Bắc Hán.

Trong thành sớm có quân Bắc Hán phục kích, chúng lập tức phát ra một trận mũi tên dày đặc như mưa đến phía bọn đang kéo đến. Bởi vì nước lũ ngập đến nửa thành, vị trí mà bọn họ cách đầu thành đã rất gần rồi, nhưng trên những chiếc thuyền mộc thật không dễ điều khiển, cũng không thể mang theo vũ khí công thành quá nặng, lại không thể linh hoạt trốn tránh mũi tên của quân địch bắn ra, đúng là có cái lợi mà cũng có cái hại, cấm quân Đại Tống tuy kiêu dũng thiện chiến, lần công kích này vẫn là sự phản lại của vô số mũi tên đang bắn như mưa.

Lập tức quân Tống vốn đóng ở doanh trại phía nam phát ra tín hiệu công kích, một tên trong quân Tống hào hứng tham chiến, áo giáp, chèo thuyền nhỏ, đánh trống trận kích dương tinh thần, không ngờ đầu thành tên bắn như bay, ngay cả chỗ trốn tên cũng không có, thân binh đứng dẹp lại một mé của con thuyền nhỏ dùng khiên làm vật che chở lấy tấm thân, chỉ không cẩn thận lộ ra một khe hở, thì sẽ có một mũi tên nhọn nào đó bắn trúng đầu hắn, chủ tướng chết, sĩ tốt sẽ tản mạn, đợt công kích thứ hai này lại thất bại rồi.

Lập tức, một bên của Tống quân tạm thời yên lặng, các tướng lĩnh ở tình huống này đang thương nghị đối sách. Dương Hạo nhìn sơn cốc nơi mà họ xuất binh, bèn vội vàng đi bắt chuyện các sĩ tốt, nói: “Đi, chúng ta nhanh đi về cùng với nhân mã đại đội.

Bọn họ đi dọc theo con đường triền núi, khó khăn lắm mới đi đến được cốc giấu binh, phát hiện ra một lá cờ của quân Tống, đột nhiên nghe binh sĩ hô: “Trình tướng quân nhà ta xuất binh rồi”.

Dương Hạo nghỉ chân vừa nhìn, quả nhiên quân Tống lại phát binh, trên lá cờ viết chữ Trình, dưới cờ là một đại kích, một Trình Thế Hùng ngang nhiên đứng đó. Lúc này gặp, quân Tống không khỏi khiến cho sức lực cứng cáp lên, trước thân Trình Thế Hùng có mấy chục cây gỗ đã được xếp, trên bè gỗ chất đống vô số cây cỏ gỗ vụn, chỉ khiến mấy tiểu giáo đang ở hai bên bè gỗ khống chế phương hướng, điều khiển ở dưới thành Bắc Hán.

Khi chiếc bè gỗ được mang đến cửa nam thành thì bị cháy, quân Tống biết thuộc tính của nước liền nhảy xuống đằng sau bơi, từng bè gỗ liên tiếp được đánh lên nam thành môn, lửa cháy rừng rực, khói đặc cuồn cuộn, khiến cho quân Bắc Hán thủ trên thành lầu cũng nhảy lên hai bên tường xem. Lửa cháy ngày một to, cả mặt nước ánh đỏ.



Dương Hạo vừa quan sát cuộc chiến, vừa nhìn tòa sơn cốc, trong sơn cốc sớm đã có người nhìn thấy đội ngũ của họ, đã phái người nghênh tiến lên đây, hỏi rõ là nhân mã phụ trách càn quét bên ngoài trở về, bèn chỉ dẫn cho bọn họ chỗ trận ban đầu. Dương Hạo đợi người, không vội đến thành trì của mình, chỉ ở triền núi nhìn tướng quân nhà mình công thành.

Mấy chục cây gỗ được xếp lại cùng một chỗ, ngọn lửa nghi ngút tận trời được nửa canh giờ, Trình Thế Hùng, lên giọng quát: “Bắn tên!”

Phía sau ầm ầm hô vang, một chiếc bè khổng lồ hơn chiếc bè gỗ của Trình Thế Hùng điều khiển phía trước nhằm hướng cửa thành, trên bè gỗ có một cái nỏ lớn, đó là “Nỏ bát ngưu”, mấy chục người giương cung bắn tên, trên nỏ bát ngưu, ở giữa là một cự tiễn thô hơn đầu cây thương, ước chừng có vài cái tên ở ba nhánh nhỏ, được gọi là “Một thương tam kiếm tiễn”, tiễn vừa bắn, bắn lên cửa lớn đang bị thiêu cháy, cửa thành vốn đã bị lửa cháy sạch lung lay muốn đổ, không chịu được khi bị thương nặng như vậy liền đổ xuống, nước lũ cứ thế mà tràn vào, Trình Thế Hùng mừng rỡ, vừa ra hiệu lệnh tam quân thừa cơ vào thành, không ngờ tòa thành đó lay động, cột trụ đỡ thành không nổi, hơn nữa lại chịu sức mạnh của nước lũ, được một lúc thì đổ sụp xuống.

Tòa thành lớn vừa đổ, nước lũ tràn vào dâng lên khoảng hai trượng, mấy con thuyền, mấy cái bè được xông vào trước nhất, bè của Trình Thế Hùng bị đẩy về phía sau, nếu không có hắn lấy cây đại kích chống xuống giữ bè, lúc này có rất nhiều binh sĩ trên bè ngã dúi dụi. Thành đã đổ, tuy thành bị ngập trong nước nhưng có nó làm vật cản, nước lũ bao lấy thành, đặc biệt là một góc của thành còn dựng thẳng trên mặt nước, cản trở sự tiếp cận của bè gỗ và thuyền. Tướng thủ đầu thành Bắc Hán là Lưu Kế Nghiệp, thấy tình hình như vậy thầm kêu may mắn, vội vàng tổ chức cung nỏ bắn lên thuyền và bè, ngăn cản bọn họ tới gần.

Lưu Kế Nghiệp đứng ở thành đầu, vừa chỉ huy, vừa cầm đại cung, tự mình nhằm hướng quân Tống bắn tên, hắn có tài bắn cung như thần, bắn không hỏng phát nào, dây cung vừa kêu, tất có một tên trong quân Tống ngã xuống. Trình Thế Hùng đứng ở trên bè gỗ lắc lư, dưới chân lại không có chỗ bám vững chắc, dũng võ ngày thường đến sáu phần cũng không phát huy được, đại kích trong tay không phát huy được tác dụng của nó, hắn bèn rút ra một bội kiếm đỡ lấy cơn mưa tiễn ở thành đầu, nếu không thận trọng thì sẽ bị Lưu Kế Nghiệp bắn trúng, bên cạnh hắn vài tên thân binh bị tiễn của Lưu Kế Nghiệp bắn trúng đâm thủng qua ngực, nằm gục xuống.

Trình Thế Hùng hận đến mức nghiến răng nghiến lợi, hét lớn: “Bắn nỏ bát ngưu, cho bổn tướng quân thành đầu”.

Chiếc nỏ bát ngưu lại thay đổi tác dụng, một mũi tên ngắn và thô được dây cung giữ chặt, một loạt tên được bắn lên tường thành, nhằm thẳng hướng tường mà bắn, chỉ cần bè có thể tiếp cận được với tường thành, các binh sĩ có thể mượn “Cái thang tử” do mũi tên tạo thành mà trèo vào thành, nhưng thành đầu tiễn phát như mưa, vũ khí phòng bị lại không thiếu, bè gỗ vốn không được như lúc đầu đang tăng tốc đến bên dưới thành, lúc này thật khó để tiến gần.

Hai bên quyết chiến một hồi lâu, vô số xác người chết, khi tác chiến, trong thành lại đẩy ra một cái bao cỏ to, che lấp đi lỗ hổng khi thành bị đổ. Thứ cỏ đó bị ướt, khó mà bị cháy. Tuy ướt nhưng vẫn giữ được sự mềm của cỏ, không phải là sợ cung nỏ bắn tên, mà còn là một đống cỏ lớn, đến gần rồi mà vẫn không có cách nào leo lên được, cỏ này chất đống, hy vọng tường thành bị công phá để vào thành càng một xa vời. 

Triệu Khuông Dận nhìn về phía xa xa, hắn hận một nỗi năm đó không đích thân khoác áo giáp chiến đấu nơi chiến trường, nhưng hắn giờ là vua của một nước, đích thân xông trận đã trở thành một giấc mơ xa vời. Huống hồ, hắn đích thân ở chiến trường thì có thể công thành chiến thắng hay không? Trong thành không biết có bao nhiêu vị tướng thủ chỉ huy, lại có thể lâm nguy không loạn, chuyển điều kiện vốn bất lợi của quân Tống thành điều kiện dễ thủ thành, vào thời điểm này nước lũ ngập hết lần này tới lần khác, nhưng lại không mượn được sức nước của nó, có đại quân trong tay mà không dùng được, lòng của Triệu Khuông Dận rối như tơ vò. Phía bắc…Người Khiết Đan ở phía bắc đang cưỡi ngựa tới gần.

“Truyền lệnh, Minh Kim thu binh!” Triệu Khuông Dận nghiến chặt răng phát lệnh thu binh.

Ba trận mất đi vô số binh lính, Minh Kim quân Tống đã thu binh.

Sắc trời ảm đạm, dòng lũ đã chảy nhanh hơn, trên dòng nước đục có những chiếc lá héo, xa xa, trong dòng nước chảy, có rất nhiều thi thể của các tướng sĩ. Trong một mảnh đại dương mênh mông, đô thành Bắc Hán như một cái pháo đài lớn lơ lửng trên mặt nước, không ai biết nó có thể chịu được đến lúc nước lũ rút, người Khiết Đan tới hay không, nhưng ít nhất, đến bây giờ, nó vẫn đang yên lành đứng đó.






Tàn dương như máu, Dương Hạo cùng plt, lth ngồi sóng vai ở hòn đá chỗ sườn núi.

Hòn đá bị mặt trời chiếu một ngày, giờ ngồi lên nó vẫn cảm thấy nóng nóng, rất thoải mái. Đã xế chiều rồi, nhưng bởi vì không có gió, nên nóng bức khác thường. 

Lúc này nếu trên trời có vài đám mây đen, tiếp đó mang theo những hạt mưa phùn, thì cả trời đất sẽ mát mẻ, trong lành biết mấy, nhưng rõ ràng trước mắt bọn họ là một mảnh đại dương mênh mông, nước lũ mà người này tạo ra không làm thay đổi được khí trời nóng bức, đây là sự khác nhau của thiên uy và nhân lực. Thiên tử trong hành doanh, giờ phút này thiên uy ra sao, phải chăng đang nổi trận lôi đình?

Ba người ngồi trên hò đá, nhìn về phía xa xa, thành trì tự nhiên nó có vẻ xa lạ, plt khẽ thở dài: “Hôm nay chúng ta không sợ bị quân Hán đánh úp nữa, nhứng muốn công thành, thì khó khăn hơn. Đại tướng quân đi hành doanh đàm phán chuyện quân cơ, cũng không biết Quan Gia có thể nghĩ ra Pháp Nhi hay không?

Lth chỉ vào thành trì xa xa nói: “Thành kia tuy lấy đất vàng xây nhưng //, hơn nữa tường thành rất dày, nước vỗ vào không sụp, hôm nay nước lũ thay đổi, càng khó//.

Dương Hạo trầm ngâm một lát rồi nói: “Thời tiết hôm nay cực kỳ nóng bức, nếu nước vỗ vào mà không sụp, nếu chặn dòng nước lại thì sao? Các ngươi có thể nhớ đến mặt đất đã bị ướt, rồi lại bị mặt trời chiếu rọi, nó nổi cuồn cuộn một lớp da. Nếu tường thành gặp nước một thời gian rồi lại bị ánh mặt trời chiếu rọi, nhất định sẽ nứt ra, có thể lúc đó chỉ cần thò tay đẩy nhẹ một cái, toàn thành sẽ sụp ngay tức khắc”.

Plt nói: “Cách này được đấy, có thể làm theo như vậy, Dương chỉ sử là người thân tín với đại tướng quân, không ngại nói chủ ý này cho đại tướng quân chứ?”

“Các ngươi đang nói chuyện gì vậy?” Phía sau truyền đến một âm thanh nặng nề của một người, ba người nhìn lại, vội vàng nhảy bật lên phủi tay làm lễ: “Đại tướng quân đã trở về”.

“Ừ!” Trình Thế Hùng lúc không đánh trận thì không ra dáng một tướng quân, hắn phủi tay, đi lại đặt mông lên một tảng đá lớn, nhíu mày nhìn về tòa thành trì phía xa xa, thuận miệng nói: “Ngồi”.

Plt cùng lth không phải là thân binh của hắn, dù sao cũng kém hắn một bậc, thấy đại tướng quân tới, có chút câu nệ vội vang nói: “Thuộc hạ không dám làm phiền đại tướng quân suy nghĩ, xin phép cáo lui”.

Trình Thế Hùng tức giận nói: “ Nghĩ cái cóc khô, chết nhiều người như vậy, toàn thành này vẫn nằm yên bất động, chi bằng ngày đêm đánh nhau dưới thành, thì có thể có cơ hội, đó là chủ ý của Trình Đức Huyền…”

Nói đến đây, hắn đột nhiên ý thức được có cái gì đó không ổn, đưa ra chủ ý tuy là Trình Đức Huyền, nhận chủ ý đó lại là Quan Gia, nói như vậy có chút bất kính. Tuy nói trước mắt ba người này đều là dưới trướng của mình, hắn cũng không tiện nói thêm gì nữa, bèn vỗ tay nói: “Các ngươi đi đi”.

Ba người vội vàng lui ra, Trình Thế Hùng quay đầu nhìn lại, lại nói: “Dương Hạo, ngươi ở lại”.

Dương Hạo dừng chân, hai tên kia vội vàng rời đi, Trình Thế Hùng hỏi: “Ngươi lúc nãy nói cách gì, cái gì mà vừa thấm vừa phơi nắng?”

Dương Hạo nói cách nghĩ của mình một lần nữa cho Trình Thế Hùng. Trình Thế Hùng cười nói: “Nói thì dễ, ngươi cũng biết khi xây thành dùng đất vàng nên không thấm nước, tường thành rất chắc, ngươi cũng biết thành đó dày như vậy, đủ bốn lớp đấy, sao có thể lấy tòa thành một lớp ra so đo. Cách của ngươi, nước phải được thấm thành ít nhất mười ngày, nước mới có thể thẩm thấu tường thành được, lúc đó lại dùng ba đến năm ngày để bịt lỗ hổng, nước lũ không tràn vào nữ, rồi phơi nắng năm bảy hôm, thì tường thành mới có khả năng nứt được ra, cách tính này..sợ là...ước chừng mất một tháng”.

Dương Hạo nói: “Đại tướng quân, chúng ta công thành đã một tháng nay, chết đi biết bao nhiêu huynh đệ rồi, nhưng chưa tiến vào thành được nửa bước, giờ tốn thêm thời gian là một tháng nữa thì có thể dễ dàng mà lấy được thành, chẳng lẽ không chờ sao?



Trình Thế Hùng lắc đầu, khẽ thở dài nói: “Đúng vậy, chúng ta thực là không chờ nổi”.

Hắn đứng lên đi lên phía trước vài bước, đứng ở trên vách núi này nhìn tòa thành cô độc, sau đó ánh mắt chậm rãi nhìn sang hướng bắc, chỉ một ngón tay về nơi đó nói: “Sáng sớm ngày mai, chúng ta phải nhổ trại, đưa quân vào bách cốc trú”.

Dương Hạo ngẩn người: “Đi vào đó làm gì ạ, lại phát hiện ra đoạn đường nào có người ngựa Bắc Hán sao?”

Trình Thế Hùng trầm giọng nói: “Không phải binh Bắc Hán, mà là binh Khiết Đan, người kđ xuất binh rồi”.

Dương Hạo nghe xong thì giật mình, hung nô Hán, Đột Quyết của Đường, kđ của Tống, Nữ Chân, Mông Cổ, một vài dân du mục thảo nguyên đến từ phương bắc, xưa nay chính là vũ lực mang tính chất tiến công của nông canh Trung Nguyên đối với người hán Trung Nguyên, bọn họ mỗi người đều là ác mộng dân tộc chiến mà trời sinh ra, môi trường sống rất đặc biệt, thúc đẩy bọn họ từ đầu đến cuối có tướng sĩ, sự kiêu dũng của bọn họ, Dương Hạo sớm biết rõ trong các quyển sách sử, nay…cần đối với họ sao?

Trình Thế Hùng thản nhiên nói: “Bổn tướng cũng vừa được tin này, người kđ chia làm hai đường, một đường do nam viện tể tướng Da Luật Sa, dực vương Da Luật quân mạnh và đại tướng Da Luật Oa ca, trong Da Luật Đức, ///, binh //suất đi đường sông, một đường khác do nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn, bắc viện đại vương Da Luật Ốc Chất, xuyên qua Vân Linh mà đến, hai đường đại quân xa hô ứng, hình thành thế kiềm, hung hăng xông đến”.

Dương Hạo nghe xong giật mình nói: “Người kđ bày chiến trận rộng như vậy sao? Điều này…không phải là phát binh lực khuynh quốc sao?”

Trình Thế Hùng mỉm cười nói: binh khuynh quốc chưa chắc. Chiến tướng Bắc quốc nhu mây, cũng không chỉ vài tên tướng lĩnh, song lần này phái đến đều là đại tướng nổi danh của bọn chúng. Quan Gia thương nghị chuyện quân cơ còn hết lời khen hoàng đế kđ cơ mà”.

Dương Hạo vui vẻ nói: “Hết lời khen sao? Nhưng Quan Gia đã có kế sách ứng phó hay chưa?”

Trình Thế Hùng thôi không cười nữa: “Cũng không phải là vì điều này. Hoàng đế Bắc quốc Phủ Lập, trong nước có rất nhiều đại tướng không phục. Ở tình cảnh này, nếu hoàng đế Bắc quốc chỉ lo lắng đến sự an toàn ngôi vị hoàng đế, cân đong so tính chuyện trước mắt, tất nhiên không muốn xuất binh tương trợ Bắc Hán. Nhưng mà, nếu hắn có đủ thông minh, nhìn xa trông rộng. thì nhất định sẽ nắm chắc cơ hội này, các tộc người thảo nguyên có sức lớn, nếu dựa vào chinh phục họ để ôm lấy ngôi vị hoàng đế, nhất định sẽ hoạn vô cùng. Nếu như hắn thuyết phục được các bộ, lấy lí do bảo vệ kđ, phát binh đến cứu viện Bắc Hán để lấy sự đoàn kết, thì vị hoàng đế kđ này rất khôn khéo, Quan Gia là anh hùng trọng anh hùng, nhưng hắn phát binh. Chúng ta đánh Bắc Hán sẽ rất mất sức”.

Dương Hạo nói: “Như vậy qg lệnh đại tướng quân đóng ở bách cốc, nhưng để ngăn người kđ tấn công tới sao?”

Trình Thế Hùng nói: “Không sai, lần này thảo phạt Bắc Hán một phen, qg đang trong tình thế bắt buộc, chinh điều đội quân lớn và lương thảo, há vô công mà phản sao? qg lúc đầu phát binh thì lo lắng người kđ sẽ xuất binh, sớm đã lệnh hai viên đại tướng Phan Mỹ, Quách Tiến canh giữ ở thiên hà, lại lệnh cho Lý Kế Huân, Hà Kế Quân canh giữ ở trên Vân Lĩnh, một thủy một lộ canh ở yếu đạo, nhưng qg vẫn không yên tâm, ngươi phải biết rằng một khi để cho người kđ xông thẳng vào, quân Bắc Hán trong thành trong ứng ngoài hợp, lúc đó đại quân của ta sẽ rất nguy hiểm, qg sợ sẽ không thể bình yên nam phản. nên lại phái lão Trình ta đi đóng ở bách cốc, tùy lúc xuất binh tiếp ứng cho Phan, Lý hai đường nhân mã. Còn về Bắc Hán này…”

Trình Thế Hùng lắc đầu thở dài nói: “Nếu là vài lộ đại quân đều có thể ngăn được bước của người kđ. Kiên trì trên một tháng, Bắc Hán này sẽ thuộc về quân Tống, nếu..nếu không thì, sợ qg gặp phải điều này lại vô công mà phản. Ôi, Bắc Hán này. Thật là xương khó gặm. Từ thời Quách Uy, đánh tiến đánh lui, lặp đi lặp lại đến hôm nay, Bắc Hán càng đánh càng nghèo, càng đánh càng phá, nhưng dưới sự trợ giúp của người kđ, nó lại không thể đổ xuống”.

Dương Hạo lo lắng hỏi: “Thế theo tướng quân, chúng ta có thể chặn chân kị binh tinh nhuệ người kđ một tháng không?”

Trình Thế Hùng trầm mặc nói: “Còn chưa xuất chiêu, ai biết ai thắng ai thua? Song…theo dự đoán của ta, nếu chỉ huy tốt, khả năng thắng có mấy phần, nhưng người kđ kì thực ngẫm nghĩ lại, chúng ta muốn ở cửa nhà người kđ chặn ngăn cản họ một tháng, sợ…khó mà làm được. Ta đây đoán, qg cũng nghĩ như vậy, chỉ là không cam lòng mà thôi, qua mấy ngày nữa, nếu không có hy vọng đánh thành Bắc Hán, sợ rằng qg sẽ thay đổi chủ ý mà rút binh”.

Dương Hạo đứng ở phía sau hắn, nhìn thấy thành trì bị nước lũ vây quanh, trầm mặc một hồi lâu, nói: “Tướng quân, nếu như phen này không diệt được Bắc Hán, nhưng cũng chưa chắc vô công mà phản. Kì thực, thần hạ có một cách, cách này không thực hiện được ở Trung Nguyên, nhưng trên mảnh đất tây bắc Quảng Nguyên, tin rằng sẽ có hiệu quả. Thuộc hạ tin rằng, cách này chỉ cần sử dụng, quân Bắc Hán không diệt thì cũng bị diệt, chỉ có điều…kế này tuy không cần đao thương chết chóc, phiền phức trong đó trái lại ít hơn ngoài chiến trường, không biết qg có thu nhận cách này không?”

Trình Thế Hùng xoay người, hứng thú nói: “Hả, ngươi lại có cách có thể không đụng đao thương mà lại diệt được Bắc Hán? Nói cho bổn tướng quân nghe coi.

Dương Hạo chỉ một ngón tay xuống núi, nói kế hoạch của mình: “Kế này là… rút củi dưới đáy nồi!”

Chương 140: Tăng liền ba cấp.



Tác giả: Nguyệt Quan

Nguồn: Sưu tầm



Dương Hạo nói: “Tướng quân xem, chúng ta ban đầu nhìn không ra, nhưng lúc này, nhìn từ đây xuống, trong một mảnh đại dương mênh mông, song là một tòa thành cô độc, một khi nước lũ rút, toàn thành này làm sao tồn tại được nữa?”

Không để cho Trình Thế Hùng suy ngẫm, Dương Hạo vung tay từ từ lên nói: “Dựa vào dân chúng các huyện Bắc Hán xanh xao ốm yếu, nhà không có lương thực, dân chúng nhìn mà tưởng là ăn mày, dân chúng cung ứng thuế ruộng trong mồ hôi và nước mắt cho triều đình Bắc Hán, duy trì sự hiếu kính với người Khiết Đan, duy trì quân bị quân lương của họ, duy trì cuộc sống của bọn giàu có.

Khu tây bắc vốn hoang vắng, dân số không nhiều bằng Trung Nguyên, di chuyển cũng nhanh, nếu chúng ta có thể dời dân chúng đi nơi khác, Bắc Hán sẽ ra sao đây? Chỉ còn lại tòa thành mà thôi, không có dân chúng, ai đến nuôi bọn chúng? Không có dân chúng, tổn thất của binh sĩ lấy đâu mà bù vào? Không có quân đội và thuế ruộng, bọn chúng lấy gì để bảo vệ Bắc Hán? Khi đó bọn chúng không chết mới lạ”.

Trình Thế Hùng nghe xong, vỗ đùi, vui vẻ nói: “Tuyệt, cách này được…à không, cách này quá được, Trình lão ta đây sao không nghĩ ra nhỉ, quả nhiên là kế tuyệt diệu, ha ha ha…”

Dương Hạo cười nói: “Bề trên, chưa từng để ý tới tiểu dân. Tiểu dân như cây cỏ trước gió mưa, bất kì ai có binh, đều dẫm đạp lên một phen, nhưng bất kể là ai, đều không rời xa được tiểu dân hèn mọn này, vì dân là gốc rễ, những lời này không phải ta nói xuông. Bề trên ai cũng không thể rời xa dân chúng, rời xa họ, thì sẽ mất đi gốc rễ. Một khi bọn chúng mất đi giá trị lợi dụng, người Khiết Đan sẽ không đến giúp đỡ bọn chúng nữa.

Nhưng làm như vậy cũng không đơn giản hơn đánh giặc. Thậm chí còn nhiều phiền phức, dù đưa họ đến một mảnh đất giàu có màu mỡ, nhưng vì chưa từng đi đâu vượt khỏi lãnh thổ quốc gia nên dân chúng sẽ sợ hãi, sẽ lo lắng, di dời như thế nào đây, nhiều người như vậy sắp xếp ăn uống hộ dân như thế nào, di dời dân đi đâu, đến lúc đó phân chia đất đai như thế nào, trấn an ra sao, những việc này thật khó mà giải quyết thỏa đáng…”

Trình Thế Hùng vui vẻ nói: “Ta chỉ phụ trách đánh giặc, những việc này giải quyết như thế nào không liên quan đến ta. Cần gì phải đau đầu, để cho Quan Gia và các văn võ bá quan đau đầu vậy, hắc hắc, việc này không nên chậm trễ, ta đây đi nói với Quan Gia cái đã”.

Hắn vỗ mạnh vào bả vai Dương Hạo khen: “Ngươi được lắm, ngươi thực sự rất được, ha ha ha…”

Dương Hạo bị hắn vỗ đôi bàn tay thô kệch vào vai đau nói, nhìn Trình Thế Hùng đi nhanh thoăn thoắt, hắn cười đau khổ vài tiếng, ngẩng đầu lên nhìn trời, thầm nghĩ: “Ta đến lúc luyện đao rồi”. Hắn buộc đao thật chặt, cũng đi xuống sườn núi.

Triệu Khuông Dận cùng văn võ bá quan bàn bạc một lúc lâu, lập tức rời khỏi trại, hắn ngồi ở đó bất động, giờ có rất nhiều sự chọn lựa khiến hắn khó mà bỏ qua. Lần này xuất binh là vì Bắc Hán, Bắc Hán một miếng thịt mỡ ở trước mắt, cho hắn thời gian là một tháng, thì có thể lấy được, nhưng người Khiết Đan cuối cùng vẫn xuất binh.

Thực lực của Khiết Đan giờ đang trên hắn, hơn nữa gần người Khiết Đan quá, bọn họ thúc ngựa giơ roi, nếu ngặp trở ngại thì sao, gần người Khiết Đan đến nỗi dường như sáng đi chiều đến, mình ở bên này, chiến trận lại kéo quá dài rồi. Giờ vẫn không phải lúc quyết chiến một trận sống mái với người Khiết Đan, hắn ý thức được, nếu chiến đấu với người Khiết Đan, cần phải chuẩn bị tốt, giải quyết được mọi nỗi lo lắng, tích góp thuế ruộng, chuẩn bị đầy đủ để chĩa mũi nhọn vào vũ khí và chiến thuật của kỵ binh phương bắc. Nay cần phải có trận đánh ác liệt trước cửa nhà người Khiết Đan, đó là cử chỉ khôn ngoan. Nhưng nếu thắng nhỏ, không có sức đuổi theo, nếu bị đại bại, hai cái chân này cũng không chạy qua được bốn chân của người Khiết Đan, lúc ấy sợ đội quân tinh nhuệ phải cho ở đây.

Nhưng mà, trước đây chinh chiến với quân Bắc Hán, người Khiết Đan luôn kịp thời xuất binh quấy nhiễu, kiến vũ khí của hai bên không tài nào sử dụng được, thành công lần này vẫn đang hi vọng, mà lùi bước như vậy sao? Cơ hội tiếp theo, lại phải đợi đến khi nào?

Triệu Khuông Dận trong lòng đang cân nhắc, thì một tên tiểu hoàng môn rón rén bước vào trại lớn, cong lưng bẩm: “Quan Gia, phòng ngự sử Quảng Nguyên Trình Thế Hùng cầu kiến”.

“Hả?” Triệu Khuông Dận nhướng đôi lông mày, nói: “Gọi hắn vào yết kiến”.

Trình Thế Hùng di vào trại lớn, thấy Quan Gia mặc quân trang, cười tươi như hoa đứng ở đằng kia đợi hắn, tiến lên phía trước đón hắn, hắn còn chưa kịp quỳ gối làm lễ, Triệu Khuông Dận đã tiến lên một bước, nâng hắn dậy nói: “Trình tướng quân không cần đa lễ, giờ không phải lúc lên triều, đến đến đến, ngồi xuống nói”.

Cạnh tên tiểu hoàng môn có một cái ghế, hắn đứng chắp tay trước ngực, sau đó Triệu Khuông Dận quay về chỗ ngồi, Trình Thế Hùng lúc này mới hành lễ, rồi mới đặt mông ngồi xuống.

Triệu Khuông Dận mặt mày hớn hở nói: “Trình tướng quân đi mà quay lại, là có chuyện gì cần nói cho Trẫm biết sao?”

Trình Thế Hùng chắp tay nói: “Là…thần lúc nãy về doanh trại, dặn dò thuộc hạ tướng lĩnh chuẩn bị chu đáo cho ngày mai khởi hành, sau đó truyền tín dụ của Quan Gia cho thân tín biết, bên cạnh thần có một tân binh, hắn biết quân ta giờ đang tiến thoái lưỡng nan nên dâng lên một kế, thần càng nghĩ càng thấy có lý, cho nên vội vàng chạy đến báo cho Quan Gia biết”.

Triệu Khuông Dận thích nhất võ tướng thật thà thẳng thắn, mà Trình Thế Hùng lại là tướng của Chiết gia, nay tuy xưng thần với hắn, nhưng trên thực thế hắn lại nghe lệnh của Chiết gia. Trong lòng đã có chủ ý mời chào, nay nghe được tin đó liền khen: “Được, Trình tướng quân không những dũng mãnh vô địch trên chiến trường, mà còn có thể bày mưu tính kế, Trẫm rất vui mừng, ngươi nói đi, diệu kế đó là gì?”

Trình Thế Hùng liền nhắc đến Dương Hạo, Triệu Khuông Dận nghe xong trầm ngâm không nói gì, Trình Thế Hùng thấp thỏm lo lắng, hỏi dò: “Quan Gia thấy kế này không được sao? Tân binh này của thần, mới nhập ngũ không lâu, kiến thức tuy còn nông cạn, nếu không nói là kém, xin Quan Gia chớ trách”.

Triệu Khuông Dận lắc lắc đầu, liếc nhìn hắn một cái nói: “Tân binh này của ngươi, hắc hắc, làm một tân binh thật là đáng tiếc”.

Trình Thế Hùng nghe hiểu ý, không kìm được vui vẻ nói: “Quan Gia thấy có được không?”

Triệu Khuông Dận đang định trả lời, tiểu hoàng nhi đứng ở cửa lại khẽ giọng lên tiếng: “Khởi bẩm Thánh Thượng, Trình Đức Huyền cầu kiến”.

Quan thần Đại Tống đều gọi Hoàng Đế là Quan Gia, đây là cách xưng hô vô cùng thân thiết mà không mất đi sự cung kính, trường hợp chính thức còn gọi là Thánh Thượng, Trình Thế Hùng là ngoại thần, trước mặt hắn, tiểu hoàng nhi đó đã sửa, dùng cách gọi chính thức.

Triệu Khuông Dận không muốn làm cho Trình Thế Hùng tránh né, để tránh kế của hắn không bị coi là kế của người ngoài, nhân tiện nói: “Cho hắn vào”.

Trình Đức Huyền vào trong trại, sau khi nhìn thấy Quan Gia ngồi ở trên ghế, ngồi bên cạnh là Trình Thế Hùng, vội làm lễ với Hoàng Đế. Triệu Khuông Dận bảo hắn đứng dậy, sau hỏi: “Trời đã tối, Trình khanh đến gặp Trẫm có chuyện gì?”

Trình Đức Huyền nhìn Trình Thế Hùng, thấy Hoàng Đế không có ý tránh né hắn, vẻ mặt ôn hòa nói: “Thánh Thượng, vi thần suy nghĩ không chu đáo, làm xảy ra trận lụt này, chưa đạt được hiệu quả, hơn nữa lại một thời gian dài làm trễ việc quân ta công thành, hôm nay đến đây nhận tội với Thánh Thượng”.

Triệu Khuông Dận xua tay nói: “Thôi, đây không phải lỗi của ngươi. Xem ra, Trẫm chỉ hận kế của ngươi đã muộn rồi, haiz, nếu quân ta một đường dưới thành Bắc Hán dùng kế này mà không tấn công, lúc này Bắc Hán vẫn nằm trong tay Trẫm”.

Trình Đức Huyền thấy mình vẫn chưa bị trách tội, trong lòng vui mừng, vội nói: “Vi thần thấy người Khiết Đan vẫn phát binh, để cho chúng ta thời gian không nhiều, lúc nãy đứng ở đằng xa trông về đô thành Bắc Hán, nghĩ cách xem làm thế nào, tự nhiên nghĩ được một kế, đến dâng lên cho Bệ Hạ.

“Ồ?” Triệu Khuông Dận rất ngạc nhiên, lúc nãy Trình Thế Hùng vừa mới hiến kế, nay Trình Đức Huyền lại đến hiến kế, xem ra cơ hội lấy lại Bắc Hán vẫn còn. Hắn vui vẻ nói: “Trình khanh mời, có diệu kế gì thì trình lên đi”.

Trình Đức Huyền chắp hai tay, cung kính nói: “Thánh Thượng, kế này của thần, tên là kế rút củi dưới đáy nồi”.

“Á!” Trình Thế Hùng quát to một tiếng, tay chỉ vào Trình Đức Huyền, nói luôn một câu: “Tân binh của ta đến chỗ ngươi sao?”

Đột nhiên nhớ tới có Hoàng Đế ở đó, vội bịt miệng lại.

Triệu Khuông Dận biết ý nghĩ của hắn, cười nhìn hắn một cái, rồi nói: “Rút củi dưới đáy nồi? Thế nào là rút củi dưới đáy nồi? Ngươi nói tường tận về cách đó đi”.







“Vâng, thần tuân chỉ”. Trình Đức Huyền tò mò nhìn Trình Đức Huyền thấp thỏm không ngồi yên, bình tĩnh lại, cao giọng nói: “Thánh Thượng, trước khi chặt cây thì phải tỉa lá, sau đó mới đi chặt gốc. Nay ngoài Bắc Hán có sự trợ giúp của Khiết Đan, trong có dân chúng nộp thuế, thiên binh của Đại Tống ta trong thời gian ngắn không thể công thành thành công. Sức sống của Bắc Hán ba năm, năm năm nữa hồi phục, lần sau thảo phạt lại phải hao tài tốn của. Vi thần nghĩ, nơi tây bắc hoang vắng, cái quý giá nhất chính là dân cư. Nếu quân ta phải rút lui, thì không thể không lui, làm thế nào để làm cho dân chúng trong thành Bắc Hán theo Đại Tống ta đây? Mất đi dân chúng, Bắc Hán làm sao có thể tồn tại được, không cần công thành mà tự sụp đổ thôi”.

Triệu Khuông Dận gật đầu nói: “Ngươi nói rõ cho ta nghe”.

“Vâng, Thánh Thượng, thật may mắn vì Thánh Thượng sớm đã có sự phòng ngự, giờ quân đang thông thiên hà, Lý tướng quân cắm ở Vân Lĩnh, đã phòng bị quân Khiết Đan lui tới, lại có Trình tướng quân ở bách cốc tiếp ứng, nhân cơ hội này, nếu chúng ta cố gắng đưa người Bắc Hán hướng Đại Tống, đoạn tuyệt con đường tiếp ứng của Bắc Hán. Như vậy, không cần thời gian vài năm, Bắc Hán sẽ bị diệt vong. Chỉ là, làm như thế nào, bố trí ổn thỏa ra sao, trấn an ra sao, nếu mà làm kích động lòng dân hoặc làm cho dân chúng bị chết, mất đi lòng dân, như vậy thì thật là không ổn”.

Trình Đức Huyền có tài ăn nói, phân tích rõ ràng lợi và hại, dễ hiểu, có sức thuyết phục hơn so với Trình Thế Hùng, Triệu Khuông Dận nghe gật đầu lia lịa, Trình Đức Huyền thấy vậy, trong lòng mừng thầm, vấn đề giờ là Triệu Khuông Dận sẽ quyết định ra sao, có thể bù đắp lại lỗi của hắn, không ngờ Triệu Khuông Dận nghe không có biểu hiện gì, đợi hắn nói xong, chỉ gật đầu, thản nhiên nói: “Trình khanh lo lắng quốc sự, hiến kế cho ta, Trẫm khen ngợi và khuyến khích. Kế này, Trẫm sẽ gọi các quan lại thương lượng, trời đã tối, Trẫm cũng đi nghỉ đây. Trình khanh, hai ngươi cũng lui ra đi’.

Trình Thế Hùng, Trình Đức Huyền vừa rồi thấy hắn gật đầu liên tục, thấy rõ vẻ vui mừng rồi lại nói một câu như vậy, hai người nhất tề ngẩn ra, vội vàng rút lui, cáo biệt đi ra.

Vừa ra trại, Trình Đức Huyền chắp tay cười nói với Trình Thế Hùng: “Trình tướng quân, hạ quan không nghĩ ngươi cũng ở đây, hôm nay công thành, sự dũng mãnh của Trình tướng quân khiến lệnh quan rất khâm phục, trên chiến trường, hổ tướng thắng được Trình tướng quân thật không nhiều”.

Đây vốn là một câu khen, nhưng Trình Thế Hùng trái lại không khách khí như lần trước, hắn không khen không chê lên tiếng: “Dũng mãnh như thế nào, nhưng chẳng phải vẫn chưa chiếm được thành sao? Việc này không nhắc đến nữa, ngày mai bổn tướng quân sẽ xuất binh đi bách cốc, giờ ta phải về chuẩn bị đã, xin cáo từ”. Dứt lời hắn nghênh ngang bỏ đi.

Trình Đức Huyền ngạc nhiên chắp tay, nhìn bóng dáng của Trình Thế Hùng thầm nghĩ: “Ta nào có đắc tội ngươi? Ngươi không chiếm được thành kia, há phải giận cá chém thớt sao? Thật là…thô lỗ”. Hắn lắc đầu, phẩy tay áo bỏ đi.

Trình Thế Hùng vừa đi vừa mắng thầm: “Tên chết tiệt, lão tử không thể ăn nói được như ngươi, Quan Gia vẻ nho nhã hơn một cây đại thụ, lại anh minh, nhưng nếu ngươi lại đến chiếm công lao dưới tay ta. Quan Gia nếu tính công này chỉ là của ngươi, ta tuyệt đối sẽ không bỏ qua”.

Trình Thế Hùng bao che, nếu không thì nào có nhiều kiêu binh vì hắn mà thề sống chết, nay Trình Thế Hùng hiến kế với Quan Gia, thực sự là không biết hắn lại hiến kế này, cũng không gọi là cướp công. Nhưng hắn thấy Trình Đức Huyền mồm miệng lanh lợi, sức thuyết phục tốt hơn hắn, hắn hiến kế trước không bằng Trình Đức Huyền hiến kế sau, cảm thấy hổ thẹn với thuộc hạ của mình, công này tự nhiên lại thuộc về Trình Đức Huyền.

Quan Gia đang nhìn bức bản đồ trong trại lớn. Bản đồ vô cùng đơn sơ, chỉ có mấy vị trí con công Sơn Xuyên trọng yếu, Triệu Khuông Dận chỉ chỉ vào vị trí của thành Bắc Hán, chậm rãi quan sát.

Cắm quân phía bắc Vân Lĩnh, phía đông thông thiên hà, đoàn bách cốc của hai người, có ba nơi là cửa ải hiểm yếu, nhưng giữa ba nơi còn vô số sông ngòi sơn cốc, người Khiết Đan và người Bắc Hán vô cùng quen thuộc với con đường nơi đây, một khi thông hành bí mật yếu đạo, bị họ bất chợt xông vào thì tác dụng của ba nơi đó sẽ hoàn toàn bị đánh mất.

Địa thế cho thấy, đó là một dải núi non trùng điệp, đó là vùng đất hướng nam là lòng chảo, phía tây và phía đông đều là núi non, toàn bộ lòng chảo như bị vây ở giữa một vùng săn bắt, đô thành Bắc Hán chính là con mồi, một khi qua được cửa ải hiểm yếu, đô thành Bắc Hán từ con mồi trở thành mồi nhử, người thợ săn ngược lại sẽ trở thành mục tiêu bị người săn bắn. Mười lăm, mười sáu vạn lấy bộ binh là chủ yếu, lục chiến một tháng đều mệt mỏi tinh thần lẫn thể xác, lại thếu đi chiến xa chở đội ngũ trang bị cần thiết để kháng cự với kỵ binh, một khi binh hổ lang mà đến thì sẽ ra sao?

Không thể tồn tại ý tưởng may mắn, trên chiến trường có thể có may, song thống soái lại không thể mang sự may mắn đó đến, giờ nên làm tốt công tác chuẩn bị, nếu bỏ chạy thì lần sau khi tấn công Bắc Hán nó sẽ hồi phục lại sức sống, nhưng mang dân chúng Bắc Hán cùng đi thì chính lại không đơn giản. 

Nếu như có thể để cho dân chúng ở mấy châu huyện còn sót lại của Bắc Hán đi vào trong đất liền, dù chỉ đi một phần ba, thì Bắc Hán nãy cũng sẽ bị sụp đổ, song…việc di dời, bố trí ổn thỏa mà Dương Hạo và Trình Đức Huyền đề xuất cho thấy di dân có thể thành công hay không, đây mới là vấn đề quan trọng.

Trẫm hiện giờ sẵn sàng ra trận, nam chinh bắc thảo, ý đồ thống nhất thiên hạ, đánh là cờ hiệu của nhân nghĩa. Nếu lần này di dân phụ nữ và trẻ em an bài không tốt, gây ra sự chết chóc, khác gì trực tiếp giết hại dân chúng Bắc Hán. Việc này một khi bị lan truyền ra, sẽ nhận được sự chỉ trích của thiên hạ, đó là điều khó tránh. Trẫm muốn dùng kế này, nhưng trước tiên phải bố trí ổn thỏa di dân mới được”.

Tay của Triệu Khuông Dận chỉ vào hướng bản đồ, rò rò tìm một vòng xung quanh Bắc Hán, sau đó đi vòng theo hướng đông nam, chỉ vào hà bắc tây lộ, hà bắc đông lộ, kinh tây tây lộ, kinh đông tây lộ…

Hà Nam, Sơn Đông, khu vực này tương đối ổn định, cũng khá giàu có, nhưng trong chốc lát sắp xếp hơn hai vạn hộ vào trong cư dân, sợ rằng quan địa phương không cai quản được, nhưng có thể đi theo một đường mà vào, từng bước sắp xếp, bố trí cho từng cụm dân Bắc Hán vào, bố trí ổn thỏa theo bốn đường.

Nhưng hướng đông, toàn bộ tuyến đường tiến vào dường như đều là vắt ngang, giống như một con rắn, theo tốc độ đột phá của kỵ binh Khiết Đan, nếu con đường vắt ngang gặp trở ngại, sợ rằng các nơi đóng quân khó ngăn cản, mà đại quân của mình lại hết cách tiếp ứng chu toàn.

Một con đường khác là di dân đến con đường hướng nam, tiến vào đường quân Vĩnh Hưng, hướng Phủ châu, giữa sông, trì hoãn sự di dời, con đường này, càng đi phía nam càng an toàn, nhất là khi qua Hoàng Hà, người Khiết Đan nào dám truy đuổi nữa, nhưng như vậy, nhân khẩu thì cần sắp xếp vào khu chia cắt thế lực Chiết gia, lực lượng bọn họ lớn mạnh, sợ rằng khó mà làm cho họ phục tùng. Giải quyết được Bắc Hán rồi, ngộ nhỡ tây nam lại sinh sự, như vậy chẳng phải vừa được vừa mất sao?

Triệu Khuông Dận suy nghĩ mãi, cuối cùng quyết định, xoay người quay lại trước bàn, cao giọng dặn dò: “Đi, truyền ý chỉ của Trẫm, Trình Thế Hùng an bài cho Dương Hạo có công tiến vào đó, đặc biệt sẽ được thăng cấp, cần giám sát, di dân khâm sai phó sử, lệnh Trình Thế Hùng cho hắn một đường nhân mã, lập tức bắt tay vào việc di dân Bắc Hán. Lại truyền ý chỉ của Trẫm, huề thăng đô giam Trình Đức Huyền là dẫn tiến phó sử, nhẫn nại di dân khâm sai chính sử, toàn quyền phụ trách chuyện dân chúng Bắc Hán. Quan phủ bên đường đóng quân, tiện cho việc di dân của hai vị đó, nhất quyết không được mắc sai lầm”.

Vừa ghi lại cuộc sống hàng ngày, phác thảo thánh dụ cho cuộc sống hàng ngày của dân, Quan Gia được tin một tiểu tốt dưới trướng Trình Thế Hùng là đô giam bát phẩm, hai người cả ngày đi theo hầu hạ Thiên tử, hiểu biết sâu rộng, mặt không ngừng lộ ra vẻ kinh ngạc.

Đô giam là chức quan, là quan bát phẩm. Từ một tên tiểu tốt, một tên tiểu lại, nếu làm theo con đường làm quan bình thường thì mức độ khó không thua gì từ chuyển từ làm công sang làm viên chức chính thức của quốc gia. Hơn nữa quan viên Đại Tống chia làm chín phẩm, người này từ vô cấp lên luôn bát phẩm, bỏ qua tòng cửu phẩm, cửu phẩm, tòng bát phẩm, đây là liền một lúc lên ba cấp.

Trình Đức Huyền vốn là đô giam bát phẩm, nay là là phó sử, là quan chính thất phẩm, tăng liền hai cấp ving quang hơn Dương Hạo làm quan từ một tiểu tốt, tăng liền ba cấp vinh dự làm giám thị, không khỏi ngán ngẩm.

Đừng nhìn hậu nhân xem hí kịch, quan thất phẩm trên sân khấu đều là quan tép riu, đó là vì nhân vật trong vở kịch là tướng quân Đế vương, kì thực quan thất phẩm không được coi là nhỏ, là bác học tài tử xuất thân tiến sĩ, cũng không phải ai cũng đều có cơ may làm quan thất phẩm này.

Hiện giờ triều đình Đại Tống, quan nhất nhị phẩm là hư chức, dùng để chỉ cho tuổi già, chỉ dùng cho lão thần có công lao. Triều đình trong chướng bách khoa toàn thư phần nhiều là từ nhị phẩm, quan lại bắt đầu từ chính tam phẩm, quan lại từ ngũ phẩm tương đương với chức quan lớn. Chức quan này tốt như vậy, quận vương Hàm An Đại Tống Hàn Thế Trung sau này, lúc thanh niên thì lưu manh, người ta gọi là Bát Hàn ngũ, chỉ vì xuất thân hèn mọn, sau khi hắn tham gia quân ngũ rồi lập chiến công, song cũng là thừa tiết lang tòng cửu phẩm. Tuy nói làm quan sau này khó hơn khi khai quốc, bởi vậy cũng thấy thăng quan khó khăn đến thế nào.

Cho nên nói, tiếp cận với thiên nhan tốt ở chỗ này, dựa vào sự tôn trọng Đế vương, hắn vị tất nhớ rõ các chức quan nhỏ, cho nên dốc lòng tận tụy, cấp bậc quan sẽ không thấp.

Thánh chỉ Tề đã đưa cho Quan Gia xem, Triệu Quan Gia đã xem sơ qua một lần, gật đầu đồng ý. Lần lượt có thái giám tới truyền chỉ. Triệu Khuông Dận suy nghĩ một lát. Lại gọi một tiểu hoàng môn, trầm giọng nói: “Đi, đi gọi Trình Đức Huyền cho trẫm, Trẫm muốn dặn hắn cái này”.

Tiểu hoàng môn phụng lệnh, nhanh như chớp đi tìm Trình Đức Huyền, Trình Đức Huyền nhận thánh chỉ, biết được mình làm khâm sai thiên sứ, thăng liền hai cấp, vui sướng khôn nguôi, vừa nghe Thánh Thượng gọi đến, vội vàng chuẩn bị vào trại của Quan Gia, bái tạ thiên ân.

Triệu Khuông Dận khen ngợi hắn, sau đó mới nói: “Trình Đức Huyền, mai Trẫm giao cho ngươi một đoàn người ngựa, thu thập dân chúng xa gần của Bắc Hán, mềm nắn rắn buông. Đưa bọn họ di dời về hướng Tống cảnh. Kế rút củi dưới đáy nồi này, là ngươi và Trình Thế Hùng lần lượt dâng lên cho Trẫm, Trẫm trọng người, thưởng phạt phân minh, liền giao việc lớn cho hai ngươi làm. Còn về phần quan phủ bên đường, đóng quân, hai ngươi duy trì đến tết Thiên Tử thì có thể nhờ lực lượng giúp đỡ”.

“Vâng, vi thần tuân lệnh”.

“Ngươi tới”. Triệu Khuông Dận bảo hắn tới bản đồ phía trước. Chỉ vào hướng bắc hà tây lộ, bắc hà đông lộ, kinh đông tây lộ, nói: “Trẫm lệnh cho ngươi đưa dân chúng đến đây, tản mác bố trí thỏa đáng, cho đến kinh đông đông lộ. Đây là tuyến đường di dân, ngươi phải cố gắng đi theo tuyến đường này”.

“Vâng”.

“Nhưng trên chiến trường, tình thế thay đổi trong nháy mắt. Nếu người Khiết Đan tới, được tin Trẫm sẽ đi theo sau dân chúng dọc đường chặn đường đuổi giết, mà nếu Trẫm lại không thể phát binh ngăn chặn, thì ngươi thực sự không đi hướng đông được…”

Ánh mắt của Triệu Khuông Dận từ từ rời hướng tây nam, ngón tay hất mạnh một cái, trầm giọng nói: “Vậy đi tây nam đi, dẫn dân chúng Bắc Hán dời theo hướng châu phủ Duyên An, sắp xếp cho bọn họ ở đó. Đây là cách bất đắc dĩ, không nhất thiết đi thì không cần phải đi, nhưng nếu liên quan tới sự an nguy của bách tính. Ngươi cũng tùy cơ ứng biến”.

Trình Đức Huyền trong lòng hiểu rõ, trầm giọng nói: “Vâng, vi thần sẽ cố gắng hết sức, không phụ sự ủy thác của Thánh Thượng”.

Lúc này Dương Hạo đang ở giữa núi luyện đao, mồ hôi nhễ nhại bổ xuống bốn trăm lẻ một đao, vừa ngẩng đầu lên thì thấy một tiểu hoàng môn đang vào trong doanh trại, Dương Hạo tò mò nhìn theo hắn, rồi lại chăm chú nhìn vào đao, hắn vẫn không biết tại sao mình được thăng quan, hơn nữa lại thăng liền một lúc ba cấp.


Quay lại  l Xem tiếp 


BigKool BigKool
Vườn Hoàng Cung - Nông Trại Online Vườn Hoàng Cung
Khu Vườn Thần Kỳ Khu Vườn Thần Kỳ
Vườn Thủy Cung Vườn Thủy Cung
goPet Online goPet Online

C-STAT