Bộ Bộ Sinh Liên
Quyển 4: Đoạt Thử Thiên Can Nhất Trì Bích
Chương 141: Hai điểu nhân.
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Vào một buổi sáng ngày thứ hai, Chính Phó Sứ Giả Khâm Sai của di dân mặc quan y vào trướng để tham kiến Hoàng Đế.
Triệu Đại vừa khen ngợi và khích lệ Nhị Nhân của hắn một lần nữa, lại nói quân tình cấp bách, lệnh cho Nhị Nhân nhanh chóng chuẩn bị, di chuyển dân chúng. Nhị Nhân nhận lệnh rồi lui ra ngoài, đi điểm thu người và ngựa của mình.
Trình Thế Hùng chỉnh đốn ba quân, đã sắp rút trại khởi doanh để đuổi theo Bách Cốc. Nhìn thấy Dương Hạo vinh quang trở về, Trình Thế Hùng há to miệng cười lớn, thật là vui hơn cả khi hắn được thăng chức. Đám thủ hạ thân binh của Trình Thế Hùng cũng đều nồng nhiệt vây lấy Dương Hạo, sờ vào quan y, chạm vào mũ quan của hắn, nói cười cung hỉ kèm theo một chút ngưỡng mộ.
Trình Thế Hùng nhìn thấy đám quân vây lấy Dương Hạo nói cười không dứt, hoàn toàn không có sự trang nghiêm của quân đội, còn đại quan ăn mặc chỉnh tề như mình thì đứng bên cạnh hô hậu lệnh mà cũng quên mất mình lúc nãy cũng đã cười híp cả mắt, giống như bọn họ, không ra thể thống gì. Hắn hắng giọng một tiếng, quát nói: “Được rồi được rồi, đợi xong chiến sự rồi thì để Tiểu Dương mời mọi người đi uống rượu, lúc đó cười nói không muộn, trận phát binh sắp tới đều phải làm theo quy củ một chút cho lão Trình ta
Sau khi quát đám thân binh lùi ra, Trình Thế Hùng liền cười lớn: “Phụng thánh dụ, bản tướng quân dẫn theo một nghìn tinh binh đến nghe ngươi điều động. Ngươi là người của lão Trình ta, ngươi có tiền đồ rồi, mặt của ta cũng vẻ vang hơn, như vậy, ta sẽ lại phong tặng ngươi năm trăm người. Người và ngựa của lão Trình ta đều ở đây, tuỳ cho ngươi chọn.”
Dương Hạo nghe thấy, trong lòng vô cùng cảm kích, hắn liếc nhìn Trình Thế Hùng, nhìn thấy hắn thật sự đang vui mừng cho mình, lại vái chào một cái, không nói gì thêm, đại ân không cần đáp trả. Hắn đi về phía đội quân đang đứng chỉnh tề, nghiêm túc như sơn, ánh mắt từ từ di chuyển, chỉ và nói: “Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên, tất cả bước ra khỏi hàng.”
Hai người này đã từng mấy lần qua lại với hắn, hai bên cũng có chút giao tình, thuận tay đương nhiên là sẽ điều lại. Hai người họ đi theo sau Dương Hạo bước về phía sau đội quân, thỉnh thoảng lại gọi ra một số quan binh có chút quen thuộc. Dương Hạo biết Trình Thế Hùng lần này xuất binh là có kẻ địch hiểm ác cần đánh, do đó hắn không chọn những kẻ tinh nhuệ. Điều này đã lọt vào mắt Trình Thế Hùng, hắn liền ngăn Dương Hạo lại, chủ động giúp hắn chọn lựa nhân mã có thể đánh tốt. Dương Hạo vội vàng cảm ơn nói: “Tướng quân, ty chức lần này đi chủ yếu là chuyển cư dân Bắc Hán đi, không phải là đánh trận ác liệt với Đoàn Bách Cốc như tướng quân, những tướng tinh nhuệ vẫn nên để lại chỗ tướng quân là được rồi.”
Trình Thế Hùng nói: “Bản tướng dùng binh không phải chỉ dựa vào mấy người này. Cứ để bản tưởng chọn người hộ ngươi là được rồi, ngươi là người bản tướng tiến cửa với quan gia, lần này ngươi là Phó Sứ, chuyện này ngươi phải làm cho thật tốt, đừng để cho bản tướng mất mặt là tốt rồi.”
Dương Hạo không lay chuyển được ý tốt của hắn, đành phải làm theo sự sắp xếp đó. Lúc này cơ cấu phân công trong quân đội đa phần là dựa vào bốn cấp: Sương, quân, doanh, đô. Một sương thì quản mười quân, một quân thì quản năm doanh, một doanh lại quản năm bộ, mỗi bộ đều có khoảng một trăm người. Dương Hạo nhận lệnh của Hoàng Đế, sẽ dẫn hai doanh nhân mã, Trình Thế Hùng lại cấp thêm cho hắn một doanh người, quản lí 1500 quân, chỉ huy ba doanh, 6 phó chỉ huy, 15 đô đầu, đó đều là những tướng lĩnh có kinh nghiệm chiến trận phong phú.
Sau khi sắp xếp xong, Trình Thế Hùng liền nhổ trại đuổi theo Đoàn Bách Cốc. Còn Dương Hạo thì dẫn theo 1500 quân vội vàng đuổi theo tụ hợp với Trình Đức Huyền. Trình Đức Huyền nhận được 2000 cấm quân, vì hắn là Chính Sứ, để hắn có thể hoàn thành thuận lợi nhiệm vụ di dân trọng đại, Triệu Đại đã đem một phần chiến xa và ngựa trong quân giao cho hắn, bây giờ đều dùng để chở lương thực, thậm chí các công cụ vận chuyển càng nhiều thì lại cần hai vị Khâm Sai tự mình chuẩn bị.
Hai người gặp nhau, vội vàng bàn bạc một lúc, định ra địa điểm tụ hợp, rồi mỗi người đều tự dẫn quân đi tìm cư dân Bắc Hán. Hai người đều dùng một đô một quân, phân tán người ra khắp nơi, đem tất cả những cư dân Bắc Hán có thể tìm được chuyển đến địa điểm tụ hợp đợi lệnh, rồi chuẩn bị lên đường.
Dương Hạo tập hợp tam doanh nhân mã của mình, trực tiếp trao quyền cho họ, nói: “Các ngươi lần này đi hãy tìm đến những huyện trấn có nhiều khu vực, cư dân ở đó nhiều một chút, thời gian của chúng ta có hạn, nội trong năm ngày, có thể tìm được bao nhiêu thì tính bấy nhiêu. Trung nguyên tuy đất đai rộng lớn, nhưng những dân chúng cả đời chưa rời khỏi cửa chưa chắc đã chịu rời đi, các ngươi hãy nói thật nhiều về sự phông hoa của Trung Nguyên cho họ nghe, mềm rắn kết hợp, có thể doạ, nhưng không được giết người, không được cướp bóc, kẻ vi phạm sẽ xử theo quân pháp.”
Dương Hạo cẩn thận căn dặn rất nhiều, đám quân đều có thể hiểu được, lập tức hô một tiếng rồi tản ra. Đám quân này mấy ngày trước đã từng cùng Trình Thế Hùng đi càn quét bên ngoài phạm vi thành Bắc Hán, nên đối với địa lí xung quanh đều rất thông thuộc. Nơi nào phồng hoa, nơi nào người đông, bọn họ đều có dự liệu trong lòng. Những đại binh này khí thế hừng hực xông lên. Bất kể là huyện thành hay là thôn trấn, lần trước thì thấy người bắt đinh, nhưng lần này không những bắt đinh mà cả nam nữ già trẻ đều không tha.
Trong những huyện thành, thôn trấn này có nhiều hộ lớn vừa nhìn thấy quân mã đến thì bất kể là đánh cờ hiệu, khua chiêng gõ trống theo lệm thì đều cất hết trâu dê tiền bạc. Đám đại binh này cũng lại đi xung quanh cửa nhà, nhưng trở ngại này cũng không là gì, càng những hộ trong nhà có tiền, gia đinh khoẻ lao động nhiều, xe lừa xe ngựa không ít, thì lại càng là đối tượng di rời của Tống binh.
Dưới sự đe doạ của đao thương, những hộ lớn giàu có này đành phải thấp thỏm không yên dắt lừa ngựa, bọc những túi nhỏ, lưu luyến nhìn nhà cửa vườn tược nồi niêu chum vại rồi bước lên đường. Ba bốn đại binh cầm đao thương áp tải hàng trăm dân chúng đang bước một bước lại quay đầu ba lần nhìn, giống như ngựa đang phi về địa điểm tập hợp vậy. Những Tồng quân còn lại tiếp tục đuổi vào những thôn trại.
Đối với những bách tính nghèo khổ thì Tống quân lại khoe khoang với họ sự phồn hoa của Trung Nguyên.
Khoe khoang Đại Tống giàu có như thế nào, dân chúng nhiều của cải như thế nào, đó thật sự là mảnh đất vàng, đi rồi sẽ có việc để làm. Mỗi người đều được ăn thịt uống rượu, những người canh giữ cổng thành đều mặc lụa là gấm vóc, họ so với Huyện Thái Gia của Bắc Hán còn giàu hơn nhiều. Một mặt lại doạ bọn họ, nói người Khiết Đan muốn hoán đổi một vị Hoàng Đế khác. Vị Hoàng Đế này mắt xanh tóc đỏ, đó là quỷ thác sinh chuyển kiếp, thích ăn tim người, tàn bạo vô cùng. Lần này người Khiết Đan được hắn phái đến là để bắt người, hắn muốn biến cả Bắc Hán thành một mảnh đất không một cọng lông. Chúng doạ đến nỗi những thôn dân không có kiến thức đều sửng sốt, ngẩn người ra.
Những lời nói này tất nhiên là do Dương Hạo nghĩ ra để tuyên truyền cho dân chúng nông thôn. Những lời này đối với những người dân một chữ bẻ đôi cũng không biết và thiếu kiến thức là một đòn sát thương lớn, vì họ rất tin vào nó. Tiếp đó những người dân này sẽ sợ hãi rồi đi theo Tống quân, rời bỏ quê nhà nơi mà cha ông đời này qua đời khác đều sinh ra, lớn lên và chết đi ở đó.
Nhà họ bốn bề đều là vách tường, hoàn toàn không có thứ gì đáng để thu dọn, cả nhà già trẻ vác một nửa túi lương thực, xách một cái nồi to, tất cả mọi thứ trong nhà đều mang lên người, tốc độ tập trung còn nhanh hơn cả những phú hộ.
Ngày hôm nay, Triệu quan gia nhận được tin tức tình báo quân cơ, Tể Tướng Nam Viện Khiết Đan – Da Luật Sa, Ký Vương – Da Luật Địch Liệt, Chủ Soái Đại Tướng Quân – Da Luật Oa Ca, Da Luật Đức Lý, Lệnh Ổn Đô Mẫn, Tường Ổn đã đuổi đến Thông Thiên Hà.
Người đóng thủ ở Thông Thiên Hà chính là Tống tướng Phan Mỹ, Quách Tiến. Hai viên tướng này kinh nghiệm chiến trận vô cùng phong phú, đều là những danh tướng hàng đầu của Đại Tống. Đặc biệt là Phan Mỹ, người này trong Bình thư (*) “Dương Gia Tướng” đã được miêu tả là dựa vào những mối quan hệ với đàn bà mà được làm Thái Soái, là tên gian thần số một của Đại Tống, chuyên môn hãm hại Dương Gia Tướng. Hắn còn là danh tướng đầu tiên diệt Kinh Hồ, diệt Hậu Thục khi Đại Tống khai quốc, thậm chí sau đó còn diệt Nam Hán, diệt Nam Đường, diệt Bắc Hán. Trong những trận đại chiến diệt quốc này, hắn đều là chủ tướng, người này túc trí đa mưu, có thể xuất trinh thiện chiến, cho nên công lao của hắn so với công lao của cả nhà Dương Gia Tướng gộp lại vẫn nhiều hơn một bậc.
Tể Tướng Nam Viện Khiết Đan Da Luật Sa cũng là một viên tướng dũng mãnh trên chiến trường, nhưng đối với Phan Mỹ kẻ đã sớm có chuẩn bị kĩ càng thì hắn không phải là đối thủ.
Hắn vội vàng đuổi đến Thông Thiên Hà, những tham mã trinh sát phía trước đã qua sông, tìm kiếm bốn hướng không thấy có mai phục, rồi hướng về bên kia sông phát ra tín hiệu. Da Luật Sa nóng lòng định bơi qua, hắn muốn cướp công đầu ở vị trí Nam Viện Đại Vương, Bắc Viện Đại Vương, nên khi vừa nhìn thấy phía bờ đối diện không có mai phục và nghĩ rằng quân Tống đang công kích Bắc Hán, sẽ không sắp xếp nhân mã ở đây để ngăn cản người Khiết Đan, cho nên hắn vô cùng mừng rỡ, không chờ hậu quân đuổi đến mà lập tức hạ lệnh qua sông, rồi xung phong dẫn đầu, cùng với Ký Vương Da Luật Địch Liệt đi trước.
Bất ngờ, khi đại quân của hắn lội qua được nửa đường thì bỗng nghe thấy một tiếng pháo vang ra từ trong sơn cốc, dư âm dội vào chưa dứt thì lại nghe thấy tiếng những con trâu điên chạy truyền ra từ Hà Cốc, một ngọn sóng lớn cao hơn cả hai con ngựa đứng chồng lên nhau cuốn theo cả cát bụi sỏi đá, cây cối, gào thét mà xô lên, làm cho người ngựa Khiết Đan tách làm đôi.
Da Luật Sa và Da Luật Địch Liệt đã qua sông quay lại trợn mắt há mồm nhìn. Liêu tướng – Da Luật Đức Lý đang dẫn quân qua sông đã bị một hàng cây đập nát cả người và ngựa, con trai của Da Luật Sa – Da Luật Oa Ca cũng biến thành một con cóc chết trong Thông Thiên Hà, vô số binh tướng Khiết Đan đang qua sông cũng bị hất tung không biết tới phương nào.
Hai viên tướng Lệnh Ổn Đô Mẫn, Tường Ổn đợi áp phái sau trận đang đuổi đến, chỉ có thể ghìm ngựa đứng ở bên bờ sông, nhìn Tể Tướng và Ký Vương ở bên bờ kia bị Phan Mỹ, Quách Tiến cùng binh mã hai bên xông tới giết. Đầu tiên là một trận cung tiễn dày đặc giết chết vô số dũng sĩ, sau đó là phóng ra đao thương, bắt đầu giết hại hàng loạt.
Lúc này, Thành Đức Huyền và Dương Hạo đảm nhiệm chức Chính – Phó Sức Khâm Sai đang làm việc với khí thế ngất trời. Người ngựa của Trình Đức Huyền không quen thuộc đường đi trong thành trì như người ngựa của Dương Hạo, nhưng thứ nhất là hắn có rất nhiều người, so với Dương Hạo thì nhiều hơn năm bộ người ngựa, hai là hiệu xuất làm việc của chúng nhanh hơn nhiều Dương Hạo, cho nên dân chúng tìm được cũng nhiều hơn.
Dưới sự gợi ý của Trình Đức Huyền, binh mã thủ hạ của hắn hoàn toàn không cần dùng biện pháp vừa đấm vừa xoa tuyên truyền cái gì cả, chỉ cần nhìn thấy thôn trấn, thì chúng liền vào cướp, cướp người, cướp xe lừa ngựa. Còn tất cả những thứ dùng để đi và tiền bạc thì đều cho phép dân chúng mang đi, còn những vật nặng rườm rà thì ép họ bỏ lại.
“Ngươi tiếc à? Được rồi, cho một mồi lửa đốt sạch, xem người còn gì để lưu luyến không. Muốn vác lương thực à? Không cần ngươi phải bận tâm, quan gia đã phát một xe lớn lương thực rồi, chúng ta vốn đang chuẩn bị đánh Bắc Hán, và sau khi đánh xong Bắc Hán dùng để bình định bách tính trong thành, nhưng bây giờ đều cho các ngươi ăn rồi, còn sợ gì không nắm được đầu của các ngươi.”
Hai người phụng chỉ làm Khâm Sai, thiên sứ Đại Tống lại đi cướp người như trong trận đấu, người ngựa phi trên thảo nguyên ngày càng nhiều. Những người ở đây giàu nghèo đều có, đại hộ tiểu dân rất nhiều, nhưng vẫn không giống như cái thôn mà hai ngày trước Dương Hạo đã lục soát, tất cả đều giống như nạn dân, trong đó không thiếu những phúc thẩm ăn mặc lụa là gấm vóc, béo trắng mũm mĩm, và những đại tiểu thư xinh đẹp nõn nà. Có một số đại binh không tránh khỏi bao vây lấy những đại tiểu thư, tuy chưa từng có người dám làm gì, nhưng mồm miệng cũng lợi dụng được không ít, chuyện kéo ra giữa đường sờ mó cũng có.
Trình Đức Huyền và Dương Hạo lo lắng có kẻ nhân cơ hội này để cướp bóc tài sản, sàm sỡ đàn bà, vi phạm quân quy. Vì vậy, một mặt nhắc lại quân kỉ, một mặt tự mình điều động đám thân quân giúp duy trì kỉ luật trên mảnh đất người ngựa đang tập trung ngày càng nhiều này. Thời gian mới có mấy ngày đã quản lí được tất cả ngay ngắn rõ ràng, lại có chút dáng vẻ như chính phủ lâm thời.
(*) Bình thư: Một hình thức văn nghệ dân gian của Trung Quốc, khi kể một câu chuyện dài dùng quạt, khăn làm đạo cụ.
Chương 142: Một đế một hậu.
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Thông Thiên Hà vừa đánh một trận thì Phan Mỹ và Quách Tiến đã giành được toàn thắng, giết hơn 8000 địch, Tể Tướng Nam Viện Khiết Đan - Da Luật Sa, Ký Vương – Da Luật Địch Liệt bị chém đầu, Lệnh Ổn Đô Mẫn, Tường Ổn đứng song song cách một dòng sông với Phan Mỹ và Quách Tiến, không dám ngông cuồng tiến đến.
Tin tức đã truyền đến hành doanh của Hoàng Đế, Triệu Khuông Dận mừng rỡ, lập tức thông báo toàn quân truyền lệnh khen thưởng, rồi treo đầu của người Khiết Đan mà tiền tuyến gửi về lên cột cao, đả kích sĩ khí của thủ quân Bắc Hán. Trong một khoảng thời gian sau, Triệu Đại vô cùng hứng khởi chỉ muốn đi thẳng đến Tháp Vân Lĩnh nếu như có thể làm cho địch thiệt hại nặng, không chừng ngay cả Phiên Toả cũng phải bại, tân Hoàng Đế Khiết Đan sẽ chịu sự công kích của bách quan, lúc đó người Khiết Đan thân mình còn lo chưa xong, thì mưu đồ muốn lấy Bắc Hán của Đại Tống cũng có hi vọng. Tiếp đó, hắn lập tức truyền lệnh, lệnh cho Trình Thế Hùng dẫn một bộ người ngựa đuổi đến Tháp Vân Lĩnh, xây dựng phòng tuyến ở đó.
Bộ quân của Trình Thế Hùng vẫn chưa đuổi đến Tháp Vân Lĩnh thì trên Tháp Vân Lĩnh lại truyền đến một tin tức vô cùng quan trọng, Đại Vương Nam Viện Khiết Đan, Đại Vương Bắc Viện Khiết Đan liên kết cùng tiến đến, công kích mạnh vào Tháp Vân Lĩnh. Tống quân thiện thủ, còn kị binh của Khiết Đan ở trên ngọn hùng lĩnh này lại không có đất dụng võ, kết quả là bị hai viên hổ tướng Lý Kế Huân, Hà Kế Quân đánh giết đại bại. Một trận kịch chiến, bắt sống được Thứ Sử Vũ Châu Khiết Đan – Vương Ngạn Phù, chém đầu hơn 1000 quân, đoạt được hơn 600 con ngựa và bắt 300 binh lính Bắc Hán, 160 binh lính Khiết Đan làm tù binh
Triệu quan gia nghe được tin thì vô cùng mừng rỡ, nhất thời hả lòng hả dạ, đang suy tính có nên hạ lệnh cho Trình Thế Hùng, Dương Hạo tạm dừng chuyện di dân lại, trực tiếp tấn công thẳng vào đô thành của Bắc Hán. Hắn triệu tập quần thần, trong khi còn chưa bàn bạc tìm ra được đối sách, thì đột nhiên có một tham mã phi nhanh tới báo. Bên ngoài núi khoảng trăm dặm đột nhiên xuất hiện hành tung của người Khiết Đan, hơn một nghìn đội quân tiên phong đang tập kích bất ngờ đến đây, rốt cuộc số lượng địch là bao nhiêu thì vẫn đang trong sự thăm dò.
Triệu Khuông Dận nghe vậy vô cùng kinh hãi, lập tức điều động ba quân, bỏ qua đô thành của Bắc Hán mà hướng về phía bắc để bày thế trận nghênh chiến. Triệu Khuông Dận vẻ mặt bình tĩnh, nhưng trong lòng cũng âm thầm kinh hãi: “Đám người ngựa Khiết Đan này rốt cuộc là đến từ đâu? Là Thông Thiên Hà, Tháp Vân Lĩnh xảy ra biến cố gì lớn, hay là người Khiết Đan có một mật đạo khác? Bất kể là thế nào đi nữa, nếu như người Khiết Đan đột phá cửa ải hiểm yếu đuổi giết đến phía trước, thì lực lượng quân hùng hậu bố trí ở phía trước cũng trở thành vô dụng, sau khi người Khiết Đan và binh mã Bắc Hải hợp lực lại thì e rằng mình muốn rút êm cũng không được nữa.”
Triệu Khuông Dật một mặt lệnh cho người đi thông báo tin tức cho Trình Đức Huyền, bất kể là tìm được bao nhiêu dân thì đều phải nhanh chóng quay lại nước Tống; một mặt hắn phái người đi thông báo cho Trình Thế Hùng đem quân đến cứu viện. Còn về tuyến Tháp Vân Lĩnh, Thông Thiên Hà, hắn cũng phái người đến để hiểu thêm quân tình, lệnh cho họ từ từ điều động, chuẩn bị rút lui, sợ họ sẽ gặp nguy hiểm, gặp phải mai phục của người Khiết Đan. Triệu Khuông Dật trao cho họ toàn bộ quyền điều khiển quân cơ, được lệnh tự chọn đường đi, phân đường trở về, đem quân tụ họp tại thành.
Lúc này kỵ binh của Khiết Đan đang trở mình ở Ngũ Hầu Cốc, ra khỏi Phi Hồ Cốc, từ từ đi ra khỏi mật đạo. Đội quân tiên phong đã phi ngựa đến thành Bắc Hán để thăm dò tình hình, sáu đội kị binh tiền quân đã bày thế trận bên ngoài cốc, chủ soái bảo vệ chủ tướng đang đi từ trong cốc ra.
Vị chủ tướng của đại quân Khiết Đan này mặc một trường bào cổ tay hẹp màu chàm, bên ngoài mặc giáp vẩy có khoá, trước ngực là một tấm hộ tim phát sáng, mũ đội đầu được trang trí thêm lông cáo màu trắng tinh, trên đỉnh còn có bó lông vũ rất dài bay phấp phới. Khuôn mặt như ngọc, môi đỏ răng trắng, hào khí bừng bừng phấn chấn, lộ ra vẻ xinh đẹp hết sức quyến rũ. Đó chính là một viên nữa tướng tuấn tú trẻ tuổi.
Nữ tướng dung mạo mĩ miều này chính là Hoàng Hậu Bắc Quốc – Tiêu Xước Tiêu Viêm Viêm, nhìn nàng mắt ngọc mày ngài, ấn đường điểm một nốt đỏ thắm, dưới sườn có đeo kiếm, trên vai lại mang cung, sau lưng là một lọ lông đại bàng, hồng nhan kiều diễm nhưng không che mất vẻ anh tuấn.
Bên trái nàng là bóng của một viên hổ tướng, chính là đại hán đã từng dẫn nàng mạo hiểm vào Quảng Nguyên để thích sát Trình Thế Hùng, người thay tên Hán là Hàn Đức Nhượng, tên Khiết Đan là Da Luật Long Vận, là người giữ quyền đóng thủ ở Nam Kinh của nước Khiết Đan.
Bên phải Tiêu Hoàng Hậu cũng là một viên tướng lĩnh còn trẻ và dũng mãnh, con ngươi tinh tường, khí khái hào hùng. Hắn là hoàng tộc Khiết Đan, vừa được đề bạt lên làm Đại Thích Ẩn Tư, nắm giữ chánh giáo và hoà giải những tranh chấp trong nội bộ hoàng tộc Khiết Đan. Hắn vốn là Phò Mã Khiết Đan. Phò Mã là tiếng hán, ở Khiết Đan người ta gọi là “Xá Lợi”, “Sa Lý” có nghĩa là dùng sĩ, đó là danh hiệu của những người không có chức vị mà dũng mãnh trong quý tộc Khiết Đan. Bây giờ khi tân Hoàng Đế đăng cơ, đã giao chức cho hắn, người này đã quyết tâm dôc hết lòng phục vụ vì tân Hoàng Đế. Tên của hắn là…Da Luật Hưu Ca.
Hàn Đức Nhượng và Da Luật Hưu Ca bây giờ vẫn chưa có tư cách độc lập dẫn đại quân, họ chỉ có thể là tướng lĩnh nghe lệnh bên cạnh Tiêu Xước. Nhưng đại soái thống binh thực sự đang ở trong sáu trận bên ngoài cốc. Tất cả quân binh đều đợi lệnh của người này. Đó là lão tướng, đại tổng quản binh mã Khiết Đan – Da Luật Qua Liệt, người này thông minh khác thường, rất được lòng quân dân, là một minh tướng Khiết Đan.
Đám quân ngay ngắn có thứ tự từ từ đi ra khỏi cốc, xếp thành một đại trận bên ngoài cốc, Da Luật Qua Liệt phi ngựa đến bên cạnh Tiêu Xước, Tiêu Xước hỏi: “Qua Liệt tướng quân, tình hình Bắc Hán bây giờ như thế nào?”
Da Luật Qua Liệt chắp tay nói: “Khởi bẩm Tiêu Hậu, Bắc Hán chiếm thành khổ chiến, quân Tống vẫn chưa rời xa, chúng dẫn nước vào thành, bây giờ đại dương mênh mông vừa mới rút, thành Bắc Hán vẫn nằm trong tay Lưu Thị, nhưng hiểm nguy khó lường.
Tiêu Hậu khẽ nhếch mày lá liễu, hai con mắt quyến rũ nhìn lướt qua quân trận, hỏi: “Nam Viện Đại Vương, Bắc Viện Đại Vương công phá Tháp Vân Lĩnh, Tể Tướng Nam Viện Da Luật Sa, Ký Vương Da Luật Địch Liệt công phá Thông Thiên Hà, tình hình thế nào rồi?”
Da Luật Qua Liệt lại nói: “Tiêu Hậu, Nam Viện Đại Vương, Bắc Viện Đại Vương tấn công Tháp Vân Lĩnh thất bại; Da Luật Sa, Da Luật Địch Liệt lỗ mãng hấp tấp, gặp phải mai phục ở Thông Thiên Hà, tổn thương hơn một nửa. Nhưng đại quân lớn như thế này đã kìm hãm thành công hai đoàn quân của Phan Mỹ và Lý Kế Huân.”
Tiêu Xước mỉm cười, đôi mắt quyến rũ như đoá tường vi nở: “Rất tốt, mặc kệ bọn chúng, lập tức phát binh, thẳng đến thành Bắc Hán, cùng với binh mã Bắc Hán trong ngoài kết hợp, nếu như bắt được Tống Đế thì có phải hi sinh lớn nữa cũng đáng.”
“Mạt tướng tuân mệnh!” Lão tướng Da Luật Qua Liệt hất chòm râu đã bạc trắng của mình, phi ngựa quay về bản trận, giương cờ lên, tiếng kèn lệnh thê lương vang vọng, từng đội quân Khiết Đan bắt đầu đi về phía trước.
Gót sắt đạp xuống đất, từng đội kị binh chậm rãi tiến về trước, đợi đến khi kéo dài khoảng cách với hậu trận thì liền quất ngựa chạy như băng, trông như là một rừng cây cối bằng thép đang di động, đao thương giơ lên, không có người hét, không có ngựa hí. Trong sự trang nghiêm lại trào dâng lên những luồng sát khí.
…………………………………………�� � � �………………………………………
Trong doanh trại quân Tống, chư tướng đang góp lời khuyên Hoàng Đế.
“Thánh Thượng, lần này chủ tướng Khiết Đan là Đại Tổng Quản binh mã Khiết Đan – Da Luật Qua Liệt, người này giỏi về định kế, dùng binh cay độc. Bây giờ bên Phan Tướng Quân, Lý Tướng Quân đang bị người Khiết Đan vây hãm, nhất thời không có cách nào trở lại tri viện. Người Khiết Đan tiến quân thần tốc, xông thẳng tới đây, mục tiêu chính là Thánh Thượng, Thánh Thượng nên sớm lui binh.”
“Thánh Thượng, chúng ta lần này Bắc thượng, mục tiêu là Bắc Hán chứ không phải là Khiết Đan. Bất luận là quân giới hay bố trí, đều không thích hợp để tác chiến với một đội đại kị binh. Chúng ta nên lựa thời cơ mà quyết định nhanh, lập tức rút lui.”
“Thánh Thượng, phía trước là núi xanh, không sợ không có củi đốt…”
“Thánh Thượng, lần này lui rồi thì còn có thể từ từ bố trí lại.
Nếu như đợi người Khiết Đan bày xong thế trận, dùng kị binh để làm tê liệt đường rút của quân ta, đến lúc đấy muốn lui cũng chỉ có thể chọn con đường hà cốc thung lũng khó đi thôi, lúc đó những quân giới, lương thực mà chúng ta tích luỹ được như núi sẽ đều phải vứt đi, không có cách nào mang về được…”
“Thánh Thượng…”
“Tất cả không phải nói nữa.” Triệu Khuông Dận đang ở trong trướng bước nhanh ra, đột nhiên dừng lại, trầm giọng nói: “Trẫm không phải là muốn liều lĩnh. Nhưng Trẫm không thể thoái lui bây giờ, chúng ta phải khống chế người Khiết Đan ở đây, để cho hai đại quân của Phan Mỹ, Lý Kế Huân có thể thoát thân. Đồng thời, chúng ta đánh giặc ở đây mới có thể cho Trình Đức Huyền, Dương Hạo thêm chút thời gian, để họ di chuyển được dân Bắc Hán đến Đại Tống ta. Vì hai đại quân của Phan Mỹ và Lý Kế Huân mà Trẫm cần lưu lại đây. Vì hàng vạn bách dính Bắc Hán, Trẫm cũng cần lưu lại đây.”
Hắn thở từ từ, nói: “Một khi thế lực của địch mạnh lên, quân chúng ta sẽ dốc núi đổ đèo, men theo đường hà cốc sơn lũng mà quay về phía nam. Kị mã người Khiết Đan dù có kiêu dũng đến mức nào thì tới nơi đó cũng không có đất dụng võ, còn về lương thảo và quân giới…”
Triệu Khuông Dận cười nhạt nói: “Cho dù tất cả để lại cho chúng, thì có thể đủ cho chúng ăn trong bao lâu chứ? Trong lòng Trẫm một vạn dân chẳng nhẽ lại thấp hơn một trăm vạn hộc lương thực ư.”
Chúng tướng nghe Hoàng Thượng nói như đinh chém sắt, không khỏi quay mặt nhìn nhau, không khuyên răn nữa, ở một bên sớm đã có hai quan văn bước lên trước tán dương: “Thánh Thượng lấy dân làm trọng, quả là một đấng quân chủ nhân từ…”
Người Khiết Đan đến rất nhanh, cơ hồ như không chậm hơn tam mã của quân Tống. Triệu Khuôn Dật vừa mới đem quân rút về phía dưới thành Bắc Hán, căn cứ vào địa thế để bày bố trận phòng ngự, thì kị binh tiên phong của người Khiết Đan đã đến được phía dưới thành Bắc Hán. Chúng khua chiêng gõ trống, truyền tin vào trong thành. Hoàng Đế Bắc Hán – Lưu Kế Nguyên đang trông chờ mòn mỏi trong thành sớm đã đứung trước cung điện nhìn thấy rất rõ, vừa nhìn thấy binh mã Khiết Đan đến, vui mừng đến mức khoa tay múa chân, cơ hồ như muốn nhảy ngay từ trên lầu xuống.
Hắn vội vàng chạy đến đại điện, lệnh cho thị vệ truyền chỉ phái Lưu Kế Nghiệp, Phùng Tiến Kha nhanh chóng dẫn binh xuất thành dẫn kị binh Khiết Đan đi tìm Tống quân, rồi lại lệnh cho Mật Sứ - Mã Phong nhanh chóng thu dọn kho lương, lục soát đáy kho để chuẩn bị hiếu kính cho đại tướng Khiết Đan, khao kị binh Khiết Đan. Rồi hắn chạy nhanh về hậu cung, chải đầu chỉnh sửa quần áo, cắt lại chòm râu để chuẩn bị đích thân khua chiêng gõ trống, dẫn các tần phi đi nghênh đón quân Khiết Đan.
Triệu Khuông Dật mở thế trận, yên lặng chờ quân Khiết Đan đến. Hắn biết đây sẽ là một trận đánh ác liệt, lợi dụng nội bộ Khiết Đan náo loạn sẽ phát binh thảo phạt Bắc Hán, đó là một nước cờ hiểm, người Khiết Đan nếu như vướng mắc với nội loạn thì sẽ không chịu phát binh, nhưng một khi phát binh rồi thì tạm thời sẽ để lại mâu thuẫn nội bộ, cùng nhau đối phó với bên ngoài. Điều này đối với Bắc Đế Da Luật Hiền mà nói, không tiếc tất cả mọi thứ cũng phải mưu đoạt thắng lợi.
Bây giờ người Khếit Đan đã đột phá hiểm ái đuổi giết đến phía trước, cục diện vốn có lợi với mình thoắt cái đã trở thành bất lợi. Hai đại quân đã bị buộc chân ở bên ngoài, binh mã trong tay mình từ xa mà đến, khổ chiến hơn một tháng, tướng soái binh sĩ đều trở nên mệt mỏi, không còn chút sức lực nào, hắn biết biện pháp tốt nhất lúc này chính là lui quân, hơn nữa là lập tức lui binh, không một chút do dự lui binh.
Nhưng hắn nhất định phải đánh mấy trận, cho dù những trận này có thất bại thì chỉ cần hai đại quân ở phía sau địch có thể tranh thủ rút lui được, thì sẽ giúp Trình Đức Huyền, Dương Hạo có thêm thời gian di dân. Như vậy từ phía chiến lược mà nói hắn cũng đã thắng lợi.
Song, lúc này đối với lực tổng binh phái ra và quyết tâm trợ giúp của người Khiết Đan khi Nam hạ hắn vẫn không hiểu lắm. Hắn lại không biết kẻ đối địch với hắn lúc này không phải chỉ là một Đại Tổng Quản binh mã Khiết Đan, mà còn là người sắp sửa triển khai đại chiến ở đây. Trận chiến này là trận chiến của một Đế một Hậu, Đế của Tống quốc, Hậu của Khiết Đan.
Sau khi tin tức được truyền ra từ trong quân, Trình Đức Huyền và Dương Hại vô cùng kinh ngạc, họ không nghĩ rằng người Khiết Đan lại đến nhanh như vậy, may mà lần này nơi mà họ đi tìm dân chúng Bắc Hán lại hướng về phía xa đội tiên phong Khiết Đan, sau đó cứ tìm theo hướng ngược lại, thì có thể tránh được. Đám sĩ tốt đi đi về sẽ về rất lãng phí thời gian, hơn nữa mấy đoàn người đi xa nhất của họ cũng đang nhanh chóng quay trở về, không cần phải đợi quá lâu.
Hai người họ lập tức chuẩn bị, đưa tất cả người già yếu phụ nữ trẻ nhỏ và lương thực lên hết các loại xe kéo to nhỏ, buộc chặt xe lại, làm tốt công việc chuẩn bị cho hành quân đường dài, chờ người phi ngựa đi triệu tập binh tốt các ngả trở về, liền đem hơn một vạn hộ, năm vạn dân chúng đã tìm được vội vàng lên đường trở về Tống.
Chương 143: Hải thị thận lâu.
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Trên con đường cổ của Quảng Nguyên, một đoàn người dài uốn lượn như con rắn.
Từ xa nhìn lại hình như là một đội quân, vì có rất nhiều người mặc áo giáp, binh sĩ cưỡi ngựa cầm thương dài đi tới, khi đi lại gần hơn một chút thì giống như một đoàn thương gia, vì trong đội ngũ có rất nhiều chiếc xe to nhỏ với quy cách khác nhau, có lừa có ngựa, thậm chí có cả lạc đà; lại gần hơn nữa lại giống một đoàn người đi chạy nạn, dân chúng nghèo khổ quần áo rách rưới, có cả những đại hộ giàu có mặc gấm vóc lụa là, tất cả đều đang đi cùng nhau, đi từ từ trong hoang dã. Có một số đại hán Tây Bắc, một ngày nóng nực như vậy mà mặc một chiếc áo da dê rách, trên người bốc ra một mùi rất khó ngửi, bốn mùa xuân hạ thu đông họ cũng chỉ có một chiếc áo này mà thôi.
Đây chính là đám dân chúng mà Trình Đức Huyền và Dương Hạo đem từ Bắc Hán về, đại đa số trông còn nghèo khổ hơn ăn mày ở Trung Nguyên. Còn Hoàng Đế Bắc Hán Lưu Kế Nguyên lúc này đang ở trong cung điện biết được tin thì vô cùng đau xót, đó là một phần ba số dân của nước Bắc Hán.
Mặt trời chói chang nhô lên, không khí bốc hơi, một trận gió cuốn theo hơi nóng đến, làm cho người ta hoàn toàn không cảm thấy mát mẻ. Hơi híp mắt nhìn về phía xa, cảnh vật trong làn khí nóng chập chờn dao động như ảnh trong nước. Mọi người đều sức cùng lực kiệt, mà đám binh sĩ vẫn không ngừng thúc giục. Binh sĩ bây giờ biết rằng Hoàng Đế Bệ Hạ đang vì họ mà cản ở phía sau, đang khổ chiến với người Khiết Đan, phải nhanh chóng rời xa nơi nguy hiểm. Họ biết rằng dân chúng đang không khỏi oán thán. Một mặt họ vứt bỏ hết những lời oán thán đó, một mặt họ dùng đao thương uy hiếp, rồi tiếp tục tiến về phía trước.
Một chiếc xe lừa trước mặt đã lọt vào hố, con đường cổ này mấy ngày trước có trận mưa rất lớn, nên ở đây sinh ra một số hố nước, bên ngoài đã khô ráo, nhưng bên trong vẫn còn bùn lầy. Con lừa đó đã dùng hết sức nhưng vẫn không thể kéo xa đi qua. Đám dân chúng đi từ một phía tới. Có chút hờ hững đứng nhìn một cụ già ở phía trước xe đang bạt mạng dắt con lừa và một người đàn bà đang đẩy xe ở phía sau. Không có một ai đến giúp một tay. Họ vốn không quen biết. Lúc này, những người có lòng cảm thông hình như đều bị sự mệt mỏi và cái nắng cay độc của mặt trời hành hạ hết rồi.
“Mau lên, mau lên. Các ngươi sao lại chậm chạp, mau đi nhanh.” Hai kịbinh phát hiện ra có chút khác thường, liền phi ngựa tới, giơ thương dài ra quát lớn.
Người đàn bà sắp phát khóc. Lắp bắp đáng thương giải thích: “Quân gia, không phải là tiểu dân không đi, mà là chiếc xe này bị sa lầy rồi.”
Dương Hạo phi ngựa tới, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy? Ý, là bà sao?”
Hắn nhìn người đàn bà ấy có chút quen mặt, nhìn kĩ lại, đột nhiên nhớ ra bà ta là người mà hôm đó hắn vào trong thôn tìm tàn binh Bắc Hán đã từng gặp. Người đàn bà này vừa nhìn cũng nhận ra hắn, mừng rỡ gọi: “Dương lão gia.”
Dương Hạo xuống ngựa bước tới nói: “Không cần phải gọi là lão gia. Gọi một tiếng đại nhân là được rồi. Đại tẩu, đứa bé trong nhà bà đâu?”
Lúc này có người trong xe gọi vọng ra: “Dương Hạo đại thúc.”
Dương Hạo quay sang nhìn vào xem, chỉ thấy chiếc rèm vải hoa được vén lên một góc, có một đứa bé đang ngồi co quắp tận sâu bên trong xe. Chỉ có hai con mắt là sáng long lanh, dùng một cái nhìn đầy rạng rỡ và trìu mến nhìn hắn, nhưng nhìn không rõ mặt đứa trẻ đó, chỉ cảm thấy có vẻ hơi nhem nhuốc, vẫn giống như một con cún con, bên cạnh nó là một đống xoong chảo chum vại.
“Cẩu nhi. Mọi người cũng bị đưa đến đây sao?” Dương Hạo kinh ngạc hỏi: “Đến đây, đại thúc giúp cháu đẩy xe ra.”
Dương Hạo dùng hết sức để đẩy xe, nhưng chiếc xe đã bị lún sâu, những đồ vật linh tinh nhét đầy xe đã làm nó quá nặng, con lừa ở phía trước kéo một cái, bộ phận trục xe có chút vặn vẹo, nếu còn dùng thêm lực lớn thì e rằng chiếc xe sẽ nứt ra bốn năm phần. Dương Hạo phía sau hoàn toàn không dùng thêm được sức nữa, mặt đỏ lên. Đang muốn hét hai binh sĩ đến giúp nâng xe, thì ở một phía xa bỗng truyền đến tiếng kêu khàn khàn: “Mộc Ân, đi giúp một tay đi.”
Dương Hạo quay đầu nhìn, chỉ nhìn thấy một đại hán mặt đầy râu quai nón đang đứng trong một chiếc xe, đỉnh đầu bù xù. Vị đại hán này thực ra ít nhất đã 50 tuổi rồi, râu và tóc đều đã hoa râm, khuôn mặt đầy nếp nhăn như khắc. Dương Hạo vừa nhìn đã ngộ nhận rằng đó là một đại hán chỉ vì trông người này thật sự vạm vỡ lực lưỡng. Hắn đang ngồi khoanh chân trong xe, lại cho người ta có cảm giác như cây tùng trên thái sơn, như tảng đá dưới đông hải, cao ngạo, mạnh mẽ.
Người này vừa cất tiếng ra lệnh thì một đại hán ngồi cạnh xe lập tức nhảy xuống. Dương Hạo và đôi mắt đầy bể dâu nhìn xa trông rộng gặp nhau, đảo mắt nhìn vị đại hán, nhất thời lại bị doạ cho sợ hãi. Trời nóng vô cùng, vị đại hán này để lưng trần trụi, cơ thể ngăm đen với những bắp thịt phơi dưới ánh mặt trời cuồn cuộn như những gò đất, rắn chắc như sắt đúc.
Nhìn hắn chắc phải cao trên dưới một mét chín, cho dù khổ người của dân chúng vùng Tây bắc thường khá cao, nhưng dáng của người này vẫn làm cho người ta kinh ngạc, đặc biệt là hắn không chỉ cao mà còn rất cường tráng. Nếu như đứng so với hắn thì Dương Hạo chỉ cao trên eo hắn một chút.
Vị đại hán này đi đến phía sau xe, nhìn dò xét trên dưới, lưng cong xuống, hai cánh tay đưa xuống nhấc chiếc xe. “Hey” một tiếng kêu trầm vang lên. Chiếc xe đã được hắn nhấc lên. Hắn nhấc chiếc xe qua chô khe, lại nhẹ nhàng đặt xuống. Xem ra rất dễ dàng. Cẩu nhi ở bên trong xe như có thừa sức lực kêu “Aizaa” một tiếng, vội vàng đỡ đống đồ liểng xiểng như muốn rơi xuống.
Đại hán nhếch mép cười. Lại như không có chuyện gì xảy ra, đi về phía xe của mình, cầm chiếc rơi lớn giơ lên. Phi chiếc xe về phái trước. Dương Hạo để ý thấy chiếc xe đó là dùng hai con la khỏe kéo. Trên xe chỉ ngồi hai đại hán cao to tóc hoa râm, hơn nữa sau khi xe đi qua lại có mười mấy hán tử đang đi theo sau, có vẻ đều là tôi tớ của họ. Nhìn dáng vẻ như vậy, có lẽ người này là một phú thân hào thương. Nhưng nhìn quần áo và những thứ bố trí trong xe lại như không phải. Đặc biệt là đám đại hán đi theo sau, người nào người nấy quần áo tả tơi, còn kém ăn mày mấy phần.
Sự tò mò chỉ loé lên trong lòng, hắn liền đứng bên cạnh xe, vừa dắt ngựa đi, vừa nói chuyện với người đàn bà. Hoá ra nhà chồng người đàn bà này họ mã, chồng sớm đã chết trong binh tai, để lại hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống, mẹ con họ bị binh lính của Trình Đức Huyền ép ra đây, họ đành phải phục tùng, lại sợ đứa trẻ bị ánh mặt trời chiếu đốt nên đã thỉnh cầu một người già trong thôn để chừa lại một chỗ cho đứa con trai.
Sau khi hỏi rõ sự tình, Dương Hạo liền nói: “Đại tẩu, cả chặng đường này nhất định sẽ rất vất vả. Nhưng đến được Trung Nguyên rồi cuộc sống sẽ tốt hơn nhiều so với ở Bắc Hán. Ở đó giàu có, lại có thể tuỳ ý tìm được kế mưu sinh, cuộc sống của hai người cũng khá hơn nhiều so với ở đây. Hai người cứ yên tâm mà đi đi, có chuyện gì cứ nói với ta một tiếng, nếu có thể giúp ta nhất định sẽ giúp.”
Đại tẩu liên tục cảm ơn. Dương Hạo quay người lên ngựa, phi về phía trước. Cẩu Nhi ở trong xe vội kêu lên: “Dương Hạo đại thúc.”
Dương Hạo hắng ngựa, quay lưng cười nói: “Cẩu Nhi, gọi đại thúc có chuyện gì vậy?”
Cẩu Nhi đôi mắt hấp háy nhìn Dương Hạo, lại không dám thò đầu ra, chỉ nói: “Đại thúc, đại thúc cũng phải đến Trung Nguyên định cư à?”
Dương Hạo cười nói: “Đại thúc không đi đến Trung Nguyên, nhưng đại thúc sẽ hộ tống mọi người đến đó.”
“Ồ…”
Cẩu Nhi có chút thất vọng. Nghĩ nghĩ rồi lại hỏi: “Đại thúc, thúc tối nay có thể ở cùng Cẩu Nhi không? Cẩu Nhi vẫn chưa từng rời xa thôn, chưa từng nhìn thấy trời đất bên ngoài. Tối nay ở đây nhiều người như vậy, rất náo nhiệt. Nhưng mẹ sợ tản đi sẽ không tìm thấy xe của mình nữa, nên không có phép cháu đi lại xung quanh.”
Mã đại tẩu vội quát lớn: “Thật không hiểu chuyện, Dương lão gia…Dương đại nhân có rất nhiều việc phải làm, cả một ngày không biết đã mệt đến thế nào, làm gì có thời gian đi cùng với con.”
Cẩu Nhi trề cái môi nhỏ ra, Dương Hạo cười nói: “Được rồi, nếu như tối nay có thời gian, đại thúc sẽ dẫn cháu đi dạo trên thảo nguyên này và nói chuyện nhé.”
Cẩu Nhi nghe thấy liền cười tươi, kiềm chế không được hưng khởi nói: “Vâng. Dương Hạo đại thúc, tối nay Cẩu Nhi chờ thúc.”
Dương Hạo cười rồi đạp hai chân vào hông ngựa, phi về phía trước, xa xa nhìn về chiếc xe được mười mấy vị đại hán hộ tống. Hắn đột nhiên nghĩ đến điều ngờ vực lúc nãy, lại tiến gần đến. Nghiêng đầu nhìn vào trong xe, chỉ thấy một người già ngũ tuần đang cầm một cái túi da dê từ bên chỗ ngồi, đang vặn mở nắp túi đổ đầy nước từ trong đó vào mồm, nhìn dòng nước chảy tràn ra hai bên mồm, có vẻ như đó là rượu chứ không phải nước thường.
Nhìn thấy Dương Hạo đang nhìn về phía hắn. Người già hơi mỉm cười, Dương Hạo nói: “Lão bá làm gì vậy? Cơ thể thật khoẻ mạnh.”
Người già cười nhạt nói: “Ta là người mệnh khổ, lận đận long đong nửa đời người, chỉ dựa vào nuôi ngựa mà sống, lại chẳng thể nói là có gia nghiệp gì. Hôm nay được Trình đại nhân đưa đến Trung Nguyên. Ha ha ha, không chừng sẽ được sống những ngày tốt đẹp, ta rất vui mừng.”
Dương Hạo nhìn thấy hắn có vẻ nghĩ một đằng nói một nẻo. Nghĩ hắn nhất định có điều giấu diếm, xem ra đội quân của mình đúng là long xà hỗn tạp, mọi loại người đều có. Hắn đang muốn nói xa nói gần hỏi thêm lần nữa, thì đột nhiên nghe thấy phía trước truyền đến một trận chửi mắng ồn ào, liền thúc ngựa phi đến trước.
Cả chặng đường tới đây, tuy là hộ tống dân chúng đến nước Tống, đến bây giờ vẫn chưa gặp phải quân Khiết Đan, cũng chưa từng gặp đạo tặc, nhưng chuyện nhỏ chuyện lớn lại không ngừng xảy ra, có người trốn chạy, có người ẩu đả, có người lạc đội, có người phát bệnh, những đại quân này làm gì còn tâm trí để mà giảng giải đạo lí với người khác nữa, những chuyện này luôn không thể phân biệt được phải trái đúng sai, không thể phân biệt ai đúng ai sai, mà chỉ có thể dùng quyền để phân định. Vì một chút cãi cọ mà làm cho dân chúgn oán giận. Hai vị Khâm Sai Trình Đức Huyền và Dương Hạo cứ phải chạy qua chạy lại để giải quyết mâu thuẫn, làm an lòng dân. Quả thật là mệt vô cùng.
Vừa nhìn thấy đằng trước có người tụ tập, Dương Hạo lại lo rằng dân chúng được hộ tống và đám binh sĩ lại xảy ra mâu thuẫn, lập tức phi ngựa như bay tới. Đến được phía trước lại chỉ nhìn thấy mấy tên binh sĩ của mình đang cầm thương vây quanh một người, Phạm Lão Tứ đang hô lớn nói cái gì đó.
Người đó nhìn có vẻ khoảng trên dưới 40 tuổi, cơ thể hơi gầy, khuôn mặt hắn yếu ớt, tóc đen nhánh, hai con mắt nhỏ như kiểu luôn ngủ không tỉnh, dưới mép là lưa thưa ít râu, mặt một chiếc áo dài vừa rách vừa bẩn, trên đầu là một búi tóc dùng một cây xiên túm rối, có chút giống một kẻ đi vân du bốn phương.
Dương Hạo phi ngựa đến, cất cao giọng hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Người đó nhìn thấy có người đến, từ từ ngẩng đầu lên nhìn. Khi nhìn thấy dung mạo của Dương Hạo, hắn vội ngây người ra, lại nhìn kĩ một lần nữa. Hai con mắt như luôn không mở ra đột nhiên sáng lên như sao mờ, lại có chút chói mắt.
Nhưng Dương Hạo lại không hề nhìn vào thấy, hắn nhìn về phía Phạm Lão Tứ hỏi xong mới lại quay đầu nhìn người đó. Sự ngạc nhiên trên khuôn mặt người đó đã biến đi, hai con ngươi cũng không sáng lên nữa.
Phạm Lão Tứ vừa nhìn thấy Dương Hạo đến liền chắp tay bẩm báo: “Đô giám đại nhân, chúng ta vừa mới dò đường phía trước, thì nhìn thấy người này lấm la lấm lét trốn trong bụi cỏ, nghi rằng hắn là chó săn dò thám của Khiết Đan, nên bắt hắn đến truy hỏi, hắn lại nói là đang đi đại tiện ở trong bụi cỏ, nhìn thấy người ngựa đại quân đến nên không dám ra ngoài, vì vậy mới trốn ở trong đó.”
“Sao cơ?” Dương Hạo nghi hoặc nhìn về phía cái người có tướng mạo rất bình thường kia, lại nhìn về cánh đồng bát ngát phía sau, hỏi: “Một người lại một mình đến thảo nguyên Tây Bắc hoang vu này, nói xem để làm gì?”
Phạm Lão Tứ nói: “Thuộc hạ cũng đang nghi ngờ điều này, cổ đạo hoang dã ít có người qua lại, nếu thật có người đến đây thì chí ít cũng phải đi cùng mấy chục người mới có thể an toàn. Đột nhiên một mình chạy đến đây, khó tránh khỏi có điều nghi ngờ.”
Lúc này người đó chợt nhún vai, cúi đầu hướng về Dương Hạo, nói: “Vô lượng thiên tôn. Vị Thái Uý này xin nghe ta nói. Bần đạo là một khổ hành đạo nhân, trời nam đất bắc, chu du thiên hạ, mấy ngày trước vốn theo một thương đoàn qua đây, nhưng lại bị cường đạo tập kích, những thương nhân đó đều đã tháo chạy, bần đạo và họ đã li tán, rồi lạc đường đến đây. Bần đạo cũng là người Hán, thật sự không phải là gian tế Khiết Đan, cúi xin Thái Uý minh giám.”
“Ồ.” Dương Hạo lại nhìn kĩ hắn, hỏi: “Đạo trưởng tu hành ở đâu?”
Người đó vươn bộ ngực lên, mỉm cười nói: “Trong lòng có đạo, thì khắp thiên hạ có nơi nào là không thể tu hành?”
“Ồ. Thế đạo trưởng từ đâu tới?”
“Bần đạo đến từ nơi đến.”
“Thế đi về đâu?”
“Đi về nơi phải về.”
Dương Hạo mỉm cười rồi nhẹ nhàng nhấc cánh tay phải lên, chỉ xuống dưới, thản nhiên nói: “Đánh hắn cho ta.”
Mấy binh sĩ lập tức vứt thương xuống, chạy đến tay đấm chân đạp.
“Ôi ôi, tha mạng cho ta. Xương cốt của bần đạo…aiya…không thể chịu nổi quyền cước của quân gia đâu…ai ya…”
Lão đạo bị mấy binh sĩ đánh cho hoa mắt chóng mặt, người cuộn tròn trên mặt đất kêu rên không ngừng. Rồi hắn chợt cảm thấy quyền cước trên người hắn đã dừng lại, mở to mắt ra nhìn, liền thấy vị Dương Thái Uý đang ngồi xổm phía trước mặt hắn, cười mà như không cười nhìn hắn, lão đạo lắp bắp nói: “Thái…Thái Uý…”
Dương Hạo dùng roi ngựa nhẹ nhàng hất cằm hắn, cười nói: “Đạo trưởng tu hành ở đâu, từ đâu đến?”
“Bần đạo tu hành ở Thái Hoa Sơn Vân Đài Quan. Đến từ Thái Hoa Sơn.”
“Đi về đâu?”
“Lên núi Tử Vi bên ngoài Nhạn Môn Quan để tìm đạo hữu.”
“Tôn hiệu của đạo trưởng là gì?”
“Bần đạo là Phù Diêu Tử.”
“Ha ha. Ngươi xem , nếu sớm nói thì đã không bị ăn đòn.”
Dương Hạo đứng dậy nói: “Phía trước đang có đại chiến, cửa ải này ngươi không thể qua được, hay theo người ngựa của ta quay về, một khi vào được lãnh thổ hoàng toàn khống chế của người Tống ta, thì lúc đó muốn đi đâu thì tuỳ ngươi. Phạm Lão Ngũ, trông chừng hắn, không cho phép người này rời khỏi đội quân ta.” Nói xong liền nhảy lên ngựa phi đi.
Lão đạo toát ra đầy hơi lạnh. Đứng lên trong tiếng người nhe răng nhếch miệng của đám binh sĩ, nhìn theo bóng Dương Hạo đang dần xa, trong lòng thầm nghĩ: “Ngươi, cái đồ yêu nghiệt, thật dám ra tay ư. Lão đạo ta năm nay đã sống đến 99 tuổi, còn chưa từng bị người ta đánh…”
Dương Hạo phi ngựa trở về, Trình Đức Huyền liền ra đón, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
Dương Hạo thắng ngựa nói: “Không có chuyện gì cả, chỉ là gặp phải một đạo nhân lôi thôi, cũng không nhìn ra điều gì đáng nghi, nhưng để cho an toàn nên ta đã lệnh cho binh sĩ xem chừng hắn, bắt hắn đi theo chúng ta, đến khi vào lãnh địa của Trung Nguyên rồi thì sẽ thả hắn đi.”
Trình Đức Huyền nghe xong tán thành nói: “Dương Đô Giám suy nghĩ thật chu đáo. Chuyến đi lần này của chúng ta nhìn có vẻ an nhàn, nhưng thực ra nguy hiểm trùng trùng.”
“Đúng vậy.” Dương Hạo lau lau mồ hôi trên, nhìn về phía đội quân dài dằng dặc, nhăn mày nói: “Đã đi được ba ngày rồi, cũng không biết tình hình chiến sự của quan gia như thế nào rồi, thật làm cho người ta lo lắng. Chúng ta nên đi nhanh hơn nữa, mới có thể thoát khỏi nguy hiểm.”
Trình Đức Huyền cười gượng nói: “Nhưng tốc độ này đã không thể nhanh hơn được nữa, thời thiết nóng bức, trong hàng ngũ có rất nhiều người già trẻ nhỏ và phụ nữ. Nếu như phía sau có truy binh thì khỏi phải nói, nhưng bây giờ gió yên biển lặng, lại bắt họ nhanh chóng lên đường, mấy vạn người này làm sao chịu?”
Dương Hạo lắc đầu nói: “Ta thà đi tiếp như thế này còn hơn là thật sự có truy binh đằng sau, nếu không…chúng ta sẽ chính là mục tiêu, mang nhiều người như vậy, muốn thoát khỏi truy kích của kị binh Khiết Đan không phải là chuyện dễ.”
Trình Đức Huyền gật gật đầu, trong lòng thầm lo lắng, phi ngựa rời đó đã ba ngày rồi, ba ngày sóng yên biển lặng, nhưng càng bình yên thì lòng hắn càng bất an. Nếu như quan gia giành được thắng lợi thì không có lí nào lại không phải người báo cho họ tình hình chiến sự, hành quân về phía đông là do một mình tay quan gia chỉ định, hắn không thể không tìm được người. Do đó, chỗ quan gia mãi không có tin tức gì, lẽ nào đại quân triều đình đã…”
Hắn lắc lắc đầu, thầm an ủi: “Sẽ không đâu. Nếu như quan quân triều đình thật sự đại bại, thì quân lính tan rã sớm đã tháo chạy, tuy người Khiết Đan hung hãn như vậy lẽ nào lại có thể một hơi ăn hết được hơn mười vạn người ngựa sao? Nói như vậy, hai quân hẳn là sẽ giằng co với nhau, nếu như thế mình dẫn đầu mấy trăm vạn dân sẽ có thể rời khỏi nơi nguy hiểm, nhanh chóng đến được chỗ an toàn.” Nghĩ như vậy, lòng hắn bình tĩnh hơn.
Dương Hạo ghìm ngựa nhìn trước nhìn sau. Hơi nhăn mày nói: “Trình huynh. Lúc này mặc dù sóng yên biển lặng, nhưng luôn không có tin tức của phía sau, việc đề phòng vẫn cần phải làm. Huynh xem, đội ngũ tuỳ tùng hộ vệ của chúng ta kéo quá dài, còn nữa, nhưng chiến xa cũng đều hỗn tạp trong đoàn xe của dân chúng, như vậy, một khi có người đến đột kích thì rất khó có thể phát huy tác dụng. Thực ra những dân chúng này đều là những lương dân an phận thủ thường, một binh trông chừng một nghìn người cũng sẽ không có người dám phản kháng lại. Chúng ta nên để lực lượng quân tập trung lại bảo vệ cho hậu trận.”
Trình Đức Huyền tuy có tài kiếm thuật, nhưng thực ra hắn chỉ giỏi văn tài y, chứ hoàn toàn không hiểu binh pháp, còn không hiểu biết nhiều bằng những gì Dương Hạo biết được khi xem tivi. Nghe thấy Dương Hạo nói vậy liền đáp lại: “Quan gia phái cho chúng ta mấy nghìn binh này, một là để áp tống dân chúng, phong có kẻ gây náo loạn; hai là đề phòng sơn tặc thổ phỉ chặn đường cướp. Nếu thật sự người Khiết Đan đuổi tới, thì ba nghìn binh của chúng ta có phòng thủ thì cũng được ích gì?”
Dương Hạo nói: “Nếu như thật sự có chuyện đó, thì ba nghìn quân của chúng ta ít nhất cũng có thể chống cự lại được một lúc. Nếu không tập trung lại thì sẽ bị chia rẽ ngay.
Trình Đức Huyền lắc đầu, lại gật đầu, thở dài nói: “Được rồi. Vậy sắp xếp như ngươi nói đi. Nhưng đội quân người ngựa của chúng ta không nên thật sự dùng vào việc này mới tốt.”
※※※※※※※※※※※※※※※※
Bóng đêm đã trùng xuống. Cái nóng khắc nghiệt của ban ngày đã được quét sạch, gió trên thảo nguyên cũng lạnh hơn. Nhiều người như vậy, lại đa phần là những người không có kinh nghiệm đi xa, nên tuy đã là ngày thứ ba, nhưng muốn thu xếp ổn thoả cho tất cả bọn họ cũng mất khá nhiều sức lực.
Dương Hạo đã đi xem xét qua một lượt các binh sĩ đi áp ở phía sau, rồi cứ ba đến năm tốp lại tập hợp thành một nhóm. Xong việc hắn liền đi qua bên cạnh đám dân chúng đang đốt lửa nấu lương khô để ăn. Đi chưa xa thì đột nhiên nghe thấy có người gọi: “Dương Hạo đại thúc.”
Dương Hạo dừng bước quay người thì nhìn thấy Cẩu Nhi đang vừa đi vừa nhảy từ chỗ đống lửa về phía mình, mẹ của nó đang đốt lửa để nấu chút lương thực mà binh sĩ đã phát cho, nhìn thấy đứa con chạy ra khỏi thì vội vàng gọi nó, Cẩu Nhi quay đầu nói: “Mẹ. Con đi chơi cùng với Dương Hạo đại thúc.”
Dương Hạo giơ tay vẫy vẫy với Mã đại tẩu, nói: “Đại tẩu, cho Cẩu Nhi đi với ta đi, một lát ta sẽ đưa nó về.” Mã đại tẩu lên tiếng đồng ý, rồi lại ngồi xổm bên đống lửa.
Dương Hạo nắm bàn tay nhỏ nhắn gầy yếu của Cẩu Nhi, cười nói: “Cẩu Nhi, từ mặt trời xuống dưới núi chính là thiên hạ của cháu, ha ha. Mẹ cháu chăm sóc cháu rất vất vả, không được nghịch ngợm nhé.”
Cẩu Nhi ngây thơ đáp: “Cẩu Nhi rất nghe lời mẹ, từ trước đến nay không có nghịch ngợm.”
“Thật không? Mới vừa rồi thúc thấy có người đang nằm nghỉ bên cạnh đống lửa, tại sao lại nhìn thấy cháu hình như đang trêu chọc người ta nhỉ?”
Cẩu Nhi che miệng cười: “Dương Hạo đại thúc, thúc không biết rồi. Hôm nay có một người ăn mặc cực kì quái dị mới đến, mẹ nói ông ta là người xuất gia, gọi là đạo sĩ. Đạo sĩ này rất kì quặc. Khi mọi người đi thì ông ta lại ngủ, vừa đi vừa ngủ. Khi mọi người dừng lại, ông ta vẫn còn ngủ, cũng đòi người ta đồ ăn. Lúc nãy đống lửa vừa mới bốc lên thì ông ta đã nằm ngủ mất rồi. Cẩu Nhi lấy cọng cỏ chọc vào mũi ông ta mà ông ta cũng không tỉnh.”
“Ồ.” Vừa nghe Cẩu Nhi nói vậy, Dương Hạo đã biết đó là ai. Sớm đã thấy người này có gì đó kì quặc. Hôm nay nhìn thấy biểu hiện của hắn, thật sự có chút dáng vẻ của kì nhân giang hồ.
Kì nhân giang hồ, tài nghệ có cao bao nhiêu thì cũng có cao hơn Trình Đại Tướng Quân không? Dương Hạo cười một lát, lại quay đầu nhìn. Chỉ nhìn thấy đạo sĩ đó đang nằm nghiêng, tay để lên trán ngủ rất ngon, một chùm râu bị gió thổi đang hơi bay bay trong ánh lửa.
“Dương đại thúc, Cẩu Nhi…Cẩu Nhi đói rồi.”
Dương Hạo quay đầu lại, cầm bàn tay nhỏ của đứa bé, nói: “Cẩu Nhi mấy ngày nay đã ăn gì rồi?”
Cẩu Nhi vui mừng, giơ ngón tay ra đếm và nói: “Mấy ngày nay được ăn rất nhiều thứ, có bánh nang, có màn thầu, còn có cơm gạo trắng. Rất thơm, rất thơm. Từ sau khi cha mất, Cẩu Nhi chưa từng được ăn nhiều thứ ngon như vậy. Trước đây, mỗi khi đến tết may mắn lắm thì Cẩu Nhi cũng chỉ có thể ăn được một miếng.”
Dương Hạo trong lòng có chút thương xót, nói: “Đi thôi, đi ăn tối với đại thúc nào, ở chỗ đại thúc không những có bánh nang, còn có cả thịt nữa, rất thơm.”
Hắn quay đầu nói một tiếng với Mã đại tẩu ở phía xa, rồi nắm bàn tay nhỏ của Cẩu Nhi đi về phía trại của mình. Đến được chỗ của hắn thì tân binh đã nấu xong cơm rồi. Màn thầu, cơm, canh thịt thơm phưng phức. Cẩu Nhi nhìn thấy thèm đến nuốt nước bọt, Dương Hạo cười cười rồi gọi tân binh đem đến cho đứa nhỏ một bát đầy, mình cũng bê lấy một bát, vừa ăn vừa hỏi: “Cẩu Nhi, cháu chỉ có biệt danh này thôi sao, tại sao cha cháu lại không đặt một cái tên cho cháu?”
Cẩu Nhi đang ăn ngấu ăn nghiến, nghe thấy liền dừng đũa lại. Buồn bã nói: “Cha nói, nhà nghèo, gọi Cẩu Nhi cho dễ nuôi. Cha nói, đợi khi nào Cẩu Nhi lớn sẽ đặt một cái tên hay cho Cẩu Nhi, nhưng…sau đó, loạn binh đánh giết tới, cha đã chết rồi…”
Dương Hạo nhìn đứa bé, thực ra Cẩu Nhi trông rất thông minh lanh lợi. Chỉ có điều đến tối lại xuất hiện bệnh lạ, da tái nhợt đi. Hoàn cảnh gia đình lại khó khăn, làm cho nó thiếu chất dinh dưỡng. Nhìn dáng vẻ của nó có chút giống như củ cà rốt nhỏ. Dương Hạo cười nói: “Đừng buồn nữa, hay là…đại thúc giúp đặt tên cho Cẩu Nhi nhé?”
“Được ạ, được ạ” Ánh mắt Cẩu Nhi sáng lên, vội vàng bê bát chạy đến ngồi phía trước hắn: “Đại thúc, thúc đặt tên gì cho Cẩu Nhi?”
“Ừm...” Dương Hạo nhìn ngọn lửa phía trước, nói: “Cháu à, trời sinh đã có bệnh lạ, chỉ đêm mới phát tác, mãi mãi không thể nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Trong cuộc sống của cháu, thứ khó có nhất chính là ánh sáng, cho nên…ta sẽ gọi cháu là Mã Diệc nhé. Chữ Diệc này có bốn ngọn lửa, bù đắp cho cái thiếu mất trong cuộc sống của cháu.”
“Mã Diệc…” Cẩu Nhi lẩm bẩm nhắc đi nắhc lại cái tên, đột nhiên nắm lấy tay Dương Hạo. Vui mừng nói: “Đại thúc. Cháu nhớ kĩ rồi. Sau này cháu tên là Mã Diệc, thúc có thể dạy cháu viết tên cháu không?”
Dương Hạo thuận tay với lấy một cành củi, vẽ ngay ngắn xuống dưới đất hai chữ “Mã Diệc”. Cẩu Nhi vội vàng vét mấy hạt cơm còn thừa lại trong bát đưa vào mồm, rồi cũng nhặt lấy một cành củi, quỳ xuống đất, cầm học viết từng nét một, ánh lửa chiếu vào mặt nó, có vẻ rất chăm chỉ.
“Nhóc này, buồn ngủ chưa, ta nên đưa cháu về nhà, nếu không mẹ cháu lại lo lắng.”
Cẩu Nhi ngẩng mặt lên cười nói: “Cháu không buồn ngủ. Ban ngày ngủ đủ rồi.” Nó nhảy lên, chỉ tay vào đám người ở phía xa xa, vui vẻ nói: “Cháu từ trước tới giờ chưa từng có buổi tối mà lại có nhiều người ở cùng với cháu như vậy, thật náo nhiệt.”
Dương Hạo mỉm cười, nắm tay nó. Kéo đứa trẻ cô đơn, rất dễ vì một chút thoả mãn mà vui vẻ đó đi lên phía sườn núi cao, rồi cùng nhìn đoàn người dài như một con hoả long. Sau đó quay về phía đông nam, ôm lấy đứa trẻ, chỉ tay về phía xa, nói: “Cẩu Nhi, cháu nhìn bên kia kìa. Chúng ta sẽ phải đi một con đường rất xa rất xa, qua một con sông rất rộng rất rộng, rồi đến một thành trì rất lớn rất lớn.
Thành trì đó gọi là Khai Phong. Sau khi tất cả các nước trong thiên hạ đều chìm vào màn đêm thì những ngọn đèn ở đó lại sáng và nhiều như sao trên trời. Đó là thành duy nhất trên thế giới không có ban đêm. Người trong ngôi thành đó nhóm lửa nấu cơm không giống như chúng ta dùng củi để đốt, mà là dùng đá màu đen. Cháu nói xem có vui không?
Điều vui nhất chính là mỗi tối, ở đó lại có rất nhiều rất nhiều người, nhiều hơn gấp mười lần chúng ta ở đây, họ mặc những bộ quần áo xinh đẹp, đi vào trong thành phố đêm náo nhiệt. Đến đó rồi, cháu mãi mãi sẽ không cô đơn như bây giờ. Cho dù ngày ngày cháu chỉ có thể ra ngoài vào ban đên, nhưng vẫn sẽ nhìn thấy chợ phiên, cửa hàng, tửu lầu, quán trà mở cửa giống như ban ngày. Ở đó, cháu có thể tìm thấy rất nhiều bạn, sẽ không còn cần mẹ cháu dẫn đi nữa, không phải cầm một ngọn đèn lồng đi trong thôn tĩnh mịch, một mình trèo cây lúc nửa đêm nữa…”
Cẩu Nhi đôi mắt lấp lánh, lẳng lặng nghe, trong ánh mắt càng lúc càng sáng lên, nó nhẹ nhàng hỏi: “Đại thúc. Đó…chính là Đại Tống?”
Dương Hạo một cánh tay ôm đứa trẻ, cái dáng gầy gò của nó trông như một con mèo không có sức lực. Dương Hạo mỉm cười nói: “Đúng vậy, nơi đó chính là Đại Tống, là nơi giàu có nhất thiên hạ.”
“Vậy…tại sao đại thúc không đến đó sống?”
“Ha ha. Ở đó tuy tốt, nhưng đại thúc còn có rất nhiều việc phải làm. Đợi đại thúc làm xong tâm nguyện, có lẽ…sẽ đến đó sống.”
Ánh mắt Dương Hạo từ từ nhìn quay sang hướng đông, nụ cười dần tan biến, con mắt trở nên mông lung: Mẹ già Dương Thị, Đại Lương ca, Tao Trư Nhi. Còn có người mà làm người khác phải thương – La Đông Nhi, khuôn mặt như hiện ra rõ rệt, dường như đang nổi lên trên bầu trời đêm. Đang mỉm cười với hắn…
Hắn hít hít cái mũi, ngăn dòng nước mắt mình. Đứa trẻ trong lòng tuy mãi mãi chỉ có thể sống trong màn đêm, nhưng trái tim thơ ngây của nó lại chưa từng bị nhiễm bụi trần. Dương Hạo không muốn để nó biết trên đời này còn có nhiều chuyện tàn khốc, những trái tim cay nghiệt độc ác như vậy…
Cẩu Nhi được đưa về bên cạnh mẹ. Có lẽ là vì xung quanh có rất nhiều người, nó cả đời chưa từng nhìn thấy nhiều người như vậy, hoặc cũng có lẽ là vì Dương Hạo đêm nay đã kể cho nó những thứ bên ngoài thế giới kia, vì thế vui mừng quá mà không ngủ được, cứ kéo kéo tay mẹ, kể những thứ đã được nghe. Nó rất tự hào vì nó biết được nhiều thứ mà mẹ nó không biết, nó có kiến thức hơn mẹ. Nó biết thiên hạ này rất lớn, ngồi xe cưỡi ngựa cũng phải đi rất xa rất xa. Nó biết nơi mình cần đi phải vượt qua một con sông rất rộng, nó biết bên kia sông là một cái thành, đó là thành phố duy nhất trong thiên hạ mà đêm cũng náo nhiệt như ngày, khắp nơi đều là đèn, giống như sao trên trời vậy.
Nó chớp chớp mắt, nhìn lên những ông sao lấp lánh trên bầu trời, thầm nghĩ : “Nơi đó không phải là giống như thiên cung, nơi ở của thần tiên ư?”
“Đúng rồi. Mẹ, còn có một chuyện lớn nữa. Con bây giờ có tên rồi, là Dương Hạo đại thúc đặt tên cho con. Mẹ…mẹ.”
Đứa trẻ ngồi dậy, trề trề cái môi. Vì cả ngày đã mệt mỏi nên Mã đại thúc đáp đại mấy câu với đứa con lúc này đang chưa chịu ngủ.
Buổi tối mới là thế giới của nó. Chỉ có buổi tối mới là lúc tinh thần nó tốt nhất. Nó không muốn ngủ, một mình đứng dậy, chạy đến bên đống lửa, lấy một cảnh củi đang cháy từ trong đó ra, khua khua lên cho tắt lửa đi, rồi ngồi bên cạnh đó. Nghiêng đầu chăm chỉ vui vẻ viết tên của mình: “mã Diệc, bốn chữ lửa. Tên đại thúc đặt thật là hay.”
“A…a…a” Đạo nhân ngủ say như heo chết không biết từ lúc nào đã ngồi dậy, ngáp mấy cái nói: “Tiểu quỷ, người ta mới chỉ đặt cho ngươi một cái tên mà đã vui vậy sao? Ngươi phải cẩn thận đấy. Thiên hạ này có rất nhiều người xấu, đừng để bị người khác lừa mà bán mất đấy, đến lúc đó xem ngươi còn vui mừng đếm bạc hộ người ta không?”
“Ngủ đi ông, đi cả chặng đường đều ngủ gật, bây giờ lại tỉnh táo thế, Dương Hạo đại thúc là người tốt, sẽ không hại tôi đâu. Nếu ông nói xấu Dương Hạo thúc, tôi sẽ không để ý đến ông đâu.” Cẩu Nhi nói xong, tức giận quay lưng lại với hắn ta, lại viết tên mình lên mặt đất.
Đạo nhân lôi thôi cười híp cả mắt, lại nằm xuống, gối đầu lên cánh tay, hai chân duỗi dài, nhìn sao trên trời. Thần sắc lại trở nên cổ quái: “Lão đại tu cả một đời đạo pháp, nhưng đây vẫn là lần đầu tiên gặp phải chuyện kì lạ như thế này, lại gặp một người kì quái như thế. Lão đạo có thể đi theo hắn, xem xem người này rốt cuộc là thứ gì. Không chừng lão đạo có thể vì đó mà biết được thiên cơ. Lão yêu đạo Thuần Dương Tử. Ha ha, để hắn đợi vài ngày nữa ở quan ngoại vậy, hắn đã sống lâu như vậy, không thể nói chết là chết ngay được. Dương đo giám trước mắt lại là một kì nhân có thể gặp mà không thể cầu.”
※※※※※※※※※※※※※※※※�� � � �※※※※.
Trời vừa sáng, đám binh lính đã hối thúc mọi người dậy, ăn chút đồ ăn sáng rồi lên đường. Chặng đường mỗi ngày đều rất dài và vô vị, ngay đã đám binh lính cũng tê hết cả chân. Bất luận là trước hay sau thì đều là những cánh đồng bát ngát mờ mịt. Vùng đất này giống như đất sa đất thổ, không có cây lớn, chỉ có một ít cây bụi thấp bé. Cả chặng đường nếu ngẫu nhiên nhìn thấy mấy con linh dương đang ăn có ở trên núi thì cũng bị đoàn người lớn làm cho kinh động, không biết chạy về hướng nào.
Thời tiết càng ngày càng lớn, khi mặt trời lên cao đến ba sào, thì người người đều toát mồ hôi như tắm. Ngay cả binh sĩ cưỡi trên ngựa cũng có chút không chịu được. Dương Hạo và Trình Đức Huyền đứng song song ở bên đường, nhìn về phía xa nói: “Trình đại nhân, nếu cứ tiếp tục thế này thì ban ngày sẽ không có cách nào đi tiếp được. Huynh xem xem nếu như ban ngày tìm một nơi nào râm mát để mọi người nghỉ, rồi ban đêm lại lên đường, thế nào?”
Trình Đức Huyền nói: “Mấy vạn người ngựa, đến tối sợ không quản hết được. Đặc biệt là phụ nữ, người già và trẻ nhỏ. Còn có rất nhiều người mắc bệnh về mắt, đêm xuống không nhìn thấy gì. Nói thì dễ nhưng nếu thật sự hành quân đêm thì đội quân có tốt chất mới làm được, chú đám ô hợp này thì…”
Hắn vừa nói đến đây thì đột nhiên có người kêu thét lên, tiếng gào thét này như bị truyền nhiễm, nhanh chóng tụ thành những tiếng gào thét cực lớn, Trình Đức Huyền rút kiếm ra khỏi vỏ, quát lớn: “Xảy ra chuyện gì?”
Một tên binh sĩ chỉ lên trên trời đáp lớn: “Đại nhân. Mau nhìn xem, mau nhìn, trên trời là người ngựa của chúng ta.”
“Cái gì?” Trình Đức Huyền ngẩng đầu nhìn. Chỉ nhìn thấy một trận sóng trên bầu trời mờ mịt. Một bức tranh hơi mơ hồ dần dần hiện ra rõ rệt. Bức tranh đó đang chuyển động, cực lớn, che khuất cả bầu trời mặt đất. Chiếm vị trí một phần ba bức tranh đó chính là một sườn núi, từ sườn núi đó nhìn xuống thấy vô số quân Tống và dũng sĩ Khiết Đan đang chém giết nhau. Cảnh tượng rất rõ rệt, giống như một trận đại chiến đang diễn ra ngay trước mắt họ vậy. Tàn khốc, thảm thiết, nhưng lại không có bất cứ một âm thanh nào, cho nên càng làm cho nó có vẻ quái dị.
“Hải Thị Thận Lâu.” Dương Hạo kinh ngạc hét lớn. Trình Đức Huyền vốn cũng có chút kinh hãi, thì vừa nghe Dương Hạo hét lên bất giác cũng thầm nói “Thật xấu hổ”. Kì cảnh Hải Thị Thận Lâu hắn đã từng đọc qua trong cổ thư, nhưng đây là lần đầu tiên nhìn thấy, cho nên lúc nãy vừa nhìn đã có chút thất thần, lại còn nghĩ là do yêu quái làm ra. May mà chưa nói gì, nếu không thì sẽ cho mọi người thấy mình thật nông cạn.
Nhưng đám binh sĩ, đặc biệt là dân chúng thì đều không biết Hải Thị Thận Lâu là thứ gì. Có một số người dân kinh hãi hét lên “Thiên binh thiên tường.”, rồi vội vàng nằm sấp xuống đất ngẩng đầu lên. Cũng có rất nhiều binh sĩ hoang mang không biêt phải làm gì. Chỉ tay lên trời hét lớn: “Nhân mã của chúng ta tại sao lại trên trời? Lại còn cả bọn cẩu Khiết Đan nữa, xảy ra chuyện gì vậy?”
Trình Đức Huyền nhăn mày quát: “Trấn tĩnh lại, hô ầm ỹ như thế còn ra thể thống gì nữa.” Nhưng những người hắn có thể quát dừng lại cũng chỉ có mấy người bên cạnh, còn một đoàn người dài như con rắn, khắp nơi đêu kêu gào thì hắn làm sao có thể ngăn được.
Dương Hạo ngẩng đầu lên, mắt nhìn chằm chằm vào đó. Không biết kì cảnh Hải Thị Thận Lâu đến khi nào sẽ biến mất. Trên bầu trời, đám người Khiết Đan đang dần chiếm được ưu thế. Quân Tống đang dần dần lui bước, để lại vô số thi thể. Bức tranh luôn được quan sát từ trên sườn núi xuống phía dưới, giống như có một người đang đứng ở trên đó, nhìn sự tranh giành sống chết của hai đại quân trong sơn cốc và sườn núi.
Đột nhiên, một lá cờ lớn từ từ rơi xuống đất, chiếc cờ đó chính là chiếc được cắm thẳng trên sườn núi, nên khi nó rơi vào trong bức tranh thì lập tức bao phủ toàn bộ màn trời. cả bầu trời đều là đại kì chữ Tống màu vàng hơi đỏ, đại kì từ từ rơi xuống, liền nhìn thấy vô số người Khiết Đan đang cầm loan đao xông lên núi giống như những con sói, sau đó là hình một đôi giầy chiến đầu phượng đang đạp mạnh lên chiếc cờ bị đổ, một bóng người từ từ hiện lên, chiếm cả màn trời.
Đầu tiên là bóng người thon thả, sau đó nàng ta từ từ quay lưng lại, chỉ nhìn thấy nàng ta mặc một chiếc áo giáp vảy cá, ở eo có thắt tám chiếc váy chiến thêu hình phượng, phía trước ngực là tấm kính hộ tâm sáng lấp lánh, chiếc mũ hộ đỉnh đều được làm bằng lông cáo. Đỉnh đầu là một bó lông vũ đang bay phấp phới. trên vai có vắt một con thú đang trừng mắt. Phía sau là lọ cũng tiễn. Nàng có đôi mắt hạnh nhân, mày lá liễu, miệng nhỏ anh đào, giữa hai hàng lông mày có một nốt chấm đỏ. Trong cái xinh đẹp có cả uy lực không thể xâm phạm. Lúc này, nàng ta đang đứng gần đó, chân dẫm mạnh lên đất. Những cái lông vũ trên đầu dựng thẳng lên trời, trông giống như Đại Thánh thần giới.
Rất nhiều người đang cuống quýt khấu đầu, hô vang: “Quan âm nương nương hiển linh.”
Họ chỉ nhìn thấy người con gái này đang đưa ánh mắt sáng trong như ánh mùa thu nhìn về phía xa, mỉm cười, khua tay lên, thì rất nhiều dũng sĩ Khiết Đan liền xông lên núi như hổ như sói.
Trên trời lại có một làn sóng chập chờn, bóng dáng yêu kiều của nữ tướng bắt đầu méo dần. Lờ mờ còn có thể nhìn thấy một trận tạp loạn diễn ra khi đội quân Khiết Đan xông lên núi. Ngay sau đó thì đốt lửa lên, đốt đỏ cả bầu trời, lửa cháy nuốt hết tất cả, nữ tướng xinh đẹp đó không hề mất đi sự anh dũng, dần dần biến mất trong biển lửa.
Trình Đức Huyền kêu lớn lên một tiếng, quay đầu cười: “Dương Đô Giám thật là có kiến thức, ta cũng từng đọc được những ghi chép về việc này trong cổ thư. Nghe nói thế gian có ảo ánh. Nó có thể nuốt cả mây, huyễn hoá lên các tầng lớp, nhân vật xe ngựa. Tất cả những gì lúc nãy chúng ta nhìn thấy, nghĩ rằng…Dương Đô Giám, ngươi làm sao vậy, sắc mặt tại sao lại trở nên khó coi vậy?”
Dương Hạo mặt xanh xao nói: “Trình đại nhân, cảnh Hải Thị Thận Lâu này thực không phải là do ảo yêu biến thành, mà là do thời tiết nóng quá, không khí bị đốt nóng. Nó giống như một tấm gương, đem tất cả cảnh tượng in lên bầu trời, chiếu lại một cảnh đang diễn ra ở nơi khác.”
Trình Đức Huyền nói: “Ồ, đúng là nguyên nhân này. Dương Đô Giám thật là hiểu rộng. Trình mỗ còn…” Câu nói vẫn chưa nói hết thì sắc mặt của hắn bống biến đổi: “Dương Đô Giám, ngươi nói…?”
Dương Hạo trầm giọng nói: “Không sai, tất cả những cảnh tượng diễn ra lúc nãy đều là thật, hơn nữa nó đang xảy ra.”
Trình Đức Huyền sắc mặt từ từ thay đổi. Ánh mắt dừng lại nói: “Dương Đô Giám, ngươi nói…quân ta bại rồi?
Dương Hạo hơi lắc đầu, nói: “Chưa chắc, nên nói là…quân ta lui rồi.”
Trình Đức Huyền hơi ngẩn ra, liền hiểu ngay sự khác biệt giữa những từ này. Bại là bị uy lực cực lớn của địch làm cho lui về, còn rút lui là hoàn thành nhiệm vụ ngăn cản di chuyển của địhc, hai cái này không giống nhau. Nhưng, Dương Hạo làm sao biết được quân Tống là lui hay là bại?
Hắn nghi ngờ hỏi: “Dương Đô Giám, cảnh tượng lúc nãy quân ta rõ ràng là bại. Ngươi nói quân ta rút lui chứ không phải là bại, ngươi dựa vào đâu vậy?”
Dương Hạo nói: “Dựa vào đám lửa lớn trên trời.”
“Lửa?”
“Không sai. Ngọn lửa này từ đâu mà tới? Người Khiết Đan không có lí do gì để phóng hoả. Khi chúng đang chiếm thế thượng phong mà lửa lớn sẽ không có lợi cho chúng tiến công. Như vậy ngọn lửa này là do quan gia phóng. Mục đích là gì? Là để ngăn địch mà thôi. Huynh xem chỗ lương thực kia vốn không dễ cháy, nhưng lại cháy lớn như vậy, tất là đã được tưới dầu. Nếu như không phải là quân ta có ý định rút lui mà là trận chiến đã bại thì sao lại có thể làm ra một ngọn lửa to đến thế?”
Trình Đức Huyền nghe thấy Dương Hạo nói thế liền thức tỉnh, không khỏi vui vẻ nói: “Không sai, không sai. Dương Đô Giám nói đúng. Nếu quân ta đã chủ động rút lui, thì thương vong tổn thất chắc sẽ không lớn.”
Dương Hạo thở dài nói: “Nhưng…chúng ta mấy ngày nay đi quả thật là không nhanh, trừ phi là người Khiết Đan không muốn đuổi đến, nếu không…chỉ dựa vào chút binh mã này thì chúng ta có thể chạy đi đâu?
Trình Đức Huyền vừa nghe lập tức đơ người ra. Tất cả sự vui mừng đều tan biến hết.
Chương 144: Gấp rút đánh một trận.
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Đại quân và di dân chống chọi với cái khắc nghiệt của mặt trời mà tiến về phía trước. Bất chấp sự oán trách của dân chúng, đám binh sĩ vẫn dùng đao thương ép họ phải đi tiếp. Bây giờ là lúc chỉ có thể dựa vào nắm đấm để nói lí thôi.
Mọi người đều chảy mồ hôi như tắm, Ngay cả Trình Đức Huyền và Dương Hạo ngồi trên ngựa cũng mặt mũi đầy bụi bẩn nhếch nhác, rồi cứ như thế đuổi sát chậm chạp. Buổi trưa ngày thứ hai họ đã bị kị binh tiên phong Khiết Đan đuổi đến.
Chính ngọ vừa qua, đoàn xe vừa ăn xong bữa trưa, đang vội vàng lên đường, đột nhiên một con chim bay nhanh trên không trung, lướt qua đầu họ và bay về phía trước. Dương Hạo kéo ngựa quay đầu lại, nhìn về phía xa, chỉ nhìn thấy trên mặt đất xuất hiện một điểm màu đen, điểm đen này nhanh chóng biến thành lớn, dần dần nhìn rõ đó là một đội kị binh đang phi nhanh về phía mình.
Dương Hạo khuôn mặt biến sắc, hét lớn: “Không hay rồi, người Khiết Đan quả nhiên đã đuổi đến.”
Những kẻ đang đuổi đến đây đương nhiên cũng có thể là Tống quân, nhưng thời tiết nóng như thế này, không chỉ người không chịu được mà ngay cả ngựa cũng chịu không nổi. Nếu như đằng sau là kị mã của Tống quân, thì họ chẳng có lí nào lại phi nhanh như thế cả, cho nên lúc này tuy không nhìn rõ hình dạng và trang phục của đội binh mã đó nhưng cũng có thể đoán chắc được họ là người Khiết Đan.
Trình Đức Huyền lúc này cũng đã nhìn thấy truy binh, lập tức rút kiếm hét lớn: “Nhanh, nhanh, tiến nhanh về phía trước. hiệu lệnh cho tất cả mọi người lập tức tiến về phía trước. Có thể vứt được cái gì thì cứ vứt…Hoảng hốt cái gì… ngươi… ngươi… ngươi, kẻ nào chạy loạn không nghe hiệu lệnh giết không tha.”
Trình Đức Huyền lần đầu nhận nhiệm vụ quan trọng như thế này, kinh hãi rút kiếm cầm chặt trong tay, nói năng thì loạn lên, phía hậu trận có một người phi ngựa đến, người nay mặc áp giáp chỉnh tề, hắn phi ngựa tới trước mặt hai vị Khâm Sai, bẩm báo: “Hai vị đại nhân, chúng ta không thể đi tiếp nữa, trừ phi bỏ lại đám dân chúng này, nếu không chúng ta hoàn toàn không thể thoát khỏi truy binh. Lúc này nếu trốn chạy tình thế nhất định sẽ đại loạn, binh sĩ cũng đã sức tàn lực kiệt, không dám chống chọi lại, vậy thì đại cục sẽ bị phá tan. Theo mạt tướng nghĩ, đội tiên phong của người Khiết Đan tuy là tinh nhuệ, nhưng người lại không nhiều, chúng ta không hẳn là không thể đánh một trận, bây giờ cần phải nhanh chóng bày binh bố trận để nghênh tiếp.”
Tên tiểu tướng này sinh ra vốn đã thông minh, lại mặc thêm bộ áp giáp trông lại càng anh tuấn. Vì thời tiết nóng bức, khuôn mặt trắng của hắn đỏ lên, chảy đầy mồ hôi. Dương Hạo vừa nhìn đã nhận ra người này tên là La Khắc Địch, lo cho việc từ quan đến quân, thống soái hai nhìn cấm quân. Là Phó Thủ của Đô Chỉ Huy Sứ. Trong biên chế của bốn cấp sương, quân, doanh, đô thì đã là tướng lĩnh cao cấp bậc một. Vì hắn chịu sự quản lí của cấm quân, thuộc quản chế của Trình Đức Huyền, cho nên Dương Hạo và hắn qua lại không nhiều.
Trình Đức Huyền quát lớn: “Kị binh chạy nhanh như hổ báo. Chúng ta mới có năm vạn dân đã mệt rồi, làm sao có thể đánh với chúng một trận chứ? La quân chủ, ngươi nghe bản quan ra lệnh đây. Nhanh chóng đưa binh đi ngăn cản quân địch. Bản quan và Dương Đô Giám đưa người gấp rút lên đường, đưa được bao nhiêu thì đưa bấy nhiêu. Còn hơn là dừng lại ở đây chờ chết.”
La Khắc Địch vội nói: “Đại nhân, nơi đây địa thế rộng lớn bằng phẳng, mạt tướng cho dù có đưa binh nghênh địch, nhưng quân địch chưa chắc đã nghe theo sự bài bố của chúng ta. Nếu như địch vòng ngựa qua chiếc xa của chúng ta, tấn công dân chúng thì lúc đó sao có thể ngăn cản được đội binh lang sói? Đại nhân, bây giờ chỉ có thể thu nạp nhân mã chuẩn bị chiến đấu tại chỗ, còn chần chừ sẽ không được nữa.”
Dương Hạo lập tức tỏ thái độ, cao giọng nói: “Trình đại nhân, hạ quan cho rằng lời nói của La quân chủ rất đúng. Nếu như chúng ta một mực tháo chạy thì cả đoàn người đều sẽ kéo dài thành một con rắn, một khi bị người Khiết Đan cắt đứt thì chỉ có thể để chúng tuỳ ý chém giết thôi. Bây giờ xem ra kị binh tiên phong của Khiết Đan quả thật không nhiều người, chi bằng làm theo La quân chủ, đấu một trận với chúng
Dương Hạo chưa từng dẫn dắt binh và cũng chưa từng đọc qua binh thư, nhưng hắn biết nhận ra người tài giỏi. Trình Đức Huyền quả thật là học cao hiểu rộng, nhưng không có nghĩa là hắn tinh thông binh pháp, có kinh nghiệm chiến trận phong phú. Cho dù trong lòng Dương Hạo cũng giống như Trình Đức Huyền, vừa gặp sự truy đuổi của kị binh Khiết Đan, hắn vốn đã muốn tháo chạy, chạy càng nhanh càng tốt, càng xa càng tốt, nhưng hắn tin tưởng vào La Khắc Địch kẻ xuất thân từ trong quân ngũ, những lời hắn nói tất có lí lẽ của nó. Mình không hiểu không có nghĩa là người khác nói không đúng. Lúc này nếu như đem tất cả hi vọng đặt lên người một tên xuất thân thư sinh như Trình Đức Huyền thì chi bằng làm theo La Khắc Địch còn hơn.
La Khắc Địch nào có biết vị Khâm Sai Dương Hạo như đang ngồi trên đống lửa, chỉ như bệnh nguy kịch cần tìm đại phu nên mới đặt trọng trách này lên người hắn thôi. Hắn còn nghĩ rằng vị quan thăng liền ba cấp này rất có tầm mắt, không khỏi khâm phục
Trình Đức Huyền thấy truy binh ngày càng gần, nhất thời không chú ý, đành nói: “Vậy được, La Chỉ Huy, bản quan tạm thời giao cho người binh quyền, ngươi nói xem, chúng ta nên bày trận thế nào?”
La Khắc Địch vui mừng nói: “Hai vị đại nhân. Hai vị nhìn về phía bên kia xem, cách đây hai dặm là một ngọn núi hoang vu, thỉnh hai vị đại nhân nhanh chóng đưa dân chúng rời khỏi con đường lớn, di chuyển đến núi, mạt tướng sẽ tập trung chiến xa yểm hộ đằng sau, cứ theo địa thế mà ngăn cản truy binh, người Khiết Đan không thể vòng ra sau tập kích chúng ta, tiếp theo đó chỉ cần đánh một trận với ta, ta sẽ có cơ hội sống.”
Trình Đức Huyền đã buông quyền nên cũng không bừa bãi đưa ra chủ ý nữa, tình hình trước mắt không còn làm theo ý của hắn, liền nói: “Được, Dương đại nhân, chúng ta nhanh chóng đưa dân chúng lui ra phía bên trái chân núi.”
Lập tức ra lệnh, trong một thời gian ngắn, trên cả chặng đường có người lớn tiếng hô ngựa, có tiếng ngựa hí lừa kêu, có người khóc hét, có người chửi mắng, nhưng lại không có ai chần chừ chậm chạp. Cả một đoàn người lớn hoang mang vội vã rời khỏi đường chính, đi theo sự dẫn dắt của quân Tống đến phía chân núi chọc, trên đường nhân mã đã không còn, nhưng lại để lại rất nhiều sọt chum vại, giống như một thành phố bị cướp bóc vậy.
Đám người Lưu Thế Hiên, Phạm Lão Tứ hô khản cả giọng, vội vàng hối thúc dân chúng như thúc bò dê lên núi tập trung. Dân chúng khi đã tụ tề lại thì sợ hãi nhìn về phía đội kị binh Khiết Đan đang càng lúc càng gần. La Khắc Địch nhìn thấy kị binh tiên phong Khiết Đan đã đến, lập tức tập trung tất cả chiến xa bày bố thành hai đại trận hình hình tam giác rỗng giữa có hai lớp bên trong và bên ngoài, rồi lệnh cho đám cũng tiễn lấy chiến xa làm vật che người, đứng ở bên trong. Thế trận đã bày ra, đứng cản phía trước mặt dân chúng, cách họ chỉ một bước tiễn.
Theo sự chỉ huy thì hai viên tướng Từ Hải Ba, Hách Long Thành lần lượt dẫn hai đội quân, một là cấm quân, hai là kị binh và sĩ tốt do Trình Thế Huyền giao phó cho, xếp thành hai trận nhỏ như cánh chim nhạn ở hai bên trái phải xa trận, bảo vệ dân chúng. Hai đoàn người ngựa kị binh này ở bên trong, tương giáo ở bên ngoài, bộ binh ngồi xổm xuống, chống thương xuống đất, vô số những cây thương lớn từ từ giơ lên phía trước, giống như một rừng gang thép nhọn hoắt vậy. Đại trận vừa mới ra được hình thế ban đầu thì La Khắc Địch lại phi ngựa tới kêu người thông báo cho hai Khâm Sai Trình Đức Huyền và Dương Hạo tập trung thân binh của họ chuẩn bị hành động. Nhưng khi vừa nhìn thấy đại trận và hai trận nhỏ còn chưa kịp đến bổ sung viện trợ thì đội kị binh Khiết Đan đã đuổi giết đến nơi.
Đoàn kị binh này quả thực như La Khắc Địch đã phân tích, đám tiểu binh tiên phong người Khiết Đan này biết được dân chúng Bắc Hán bị bắt đến đây, Hoàng Đế Bắc Hán Lưu Kế Nguyên đau đớn như mẫu thân phụ thân qua đời vậy, nhìn thấy nữ chủ Khiết Đan liền khóc lóc kể ấm ức của mình.
Tiêu Hậu sau khi nghe xong ngọn nguồn sự việc cũng biết được kế này của người Tống quả thật là cay nghiệt, nếu như thật sự để cho chúng đạt được thì Bắc Hán không tới hai năm sẽ bị diệt vong. Tuy người Khiết Đan lần này xuất binh chủ yếu là muốn loại trừ xung đột nội bộ, nhưng nếu như không thể giữ lấy Bắc Hán, thì việc hi sinh để duy trì Bắc Hán bấy lâu nay cũng trở thành công cốc. Vì thế, sau khi chủ lực Tống quân của Triệu Khuông Dận chủ động rút rui, thì nàng ta đã lập tức phái hơn ngàn người phân chia ra tìm kiếm, một là muốn tìm ra hướng đi của chủ lực Tống quân, hai là muốn tìm nhưng dân chúng Bắc Hán bị đưa đi.
Người dẫn đầu đoàn kị binh tên là Kha Phi Bào, đó là thủ hạ của Ký Vương Da Luật Địch Liệt đã mất mạng tại trận Thông Thiên Hà. Da Luật Địch Liệt tính tình táo bạo, dụng binh luôn chỉ có tiến mà không có lùi, nhưng tướng mà hắn đề bạt đương nhiên cũng là người có tính tình hợp với hắn, đa số đều là những kẻ rất sôi nổi và cuồng vọng, khi đánh trận chỉ nghĩ đến dùng sức mạnh chứ không có kế sách. La Khắc Địch chỉ sợ chúng không chịu xông lên thôi, nếu như chúng tấn công lên một bên cánh quân của mình thì thế trận vừa bố trí khó có thể hô ứng với ba trận phía trước..…
Kha Phi Bào mắt thấy dân chúng Bắc Hán bị dẫn đi, cho rằng đại công đang ở ngay trước mặt, lập tức vui mừng nhìn về phía trước. Hắn liên tục thúc ngựa, gào thét ầm trời, chỉ muốn chém giết tan tác quân Tống trước mặt, nào có nghĩ đến những điểm mạnh và yếu của địch.
Đội quân Khiết Đan này đều do hắn bố trí, mỗi tên đều rất ngang tàng, không hề coi ai ra gì. Lần này Tiêu Hậu đại thắng, ngay cả Hoàng Đế Đại Tống cũng phải tháo chạy, càng làm cho chúng không coi đoàn quân Tống đang di dân ra gì, mắt thấy Tống quân bày binh bố trận nhiều người hơn mình, nhưng đám kị binh Khiết Đan lại không một chút sợ hãi, người như hổ, ngựa như long, bừng bừng nhuệ khí xông tới đại trận của quân Tống, ý đồ muốn một trận phá huỷ sạch xa trận của quân Tống, giết sạch giống như giết dê giết lợn vậy: “Đầu quân Tống có thể đem về lĩnh thưởng, còn trong đám dân kia lại có vô số những cô nương xinh đẹp. Ha ha. Chuyến đi tốt đẹp này chúng ta đã giành được, có lẽ là do lão nhân gia Ký Vương phù hộ.”
La Khắc Địch cưỡi ngựa đứng trước trận, ngồi trên yên ngựa cầm trường thương, nhìn thấy kị binh của địch phi nhanh không giảm tốc độ cũng không có ý đồ tránh trận xe ra để tấn công vào hai bên cánh quân, không khỏi mừng thầm trong lòng. Hắn thầm tính toán tốc độ của địch, nhìn thấy bụi bay mù mịt khi địch phi tới thì lập tức giơ thương lên, hét lớn: “Bắn tên.”
Cung tên sớm đã được lên dây, một loạt tên được ào ạt bắn ra. Sự phối hợp của cung thủ trong quân Tống là nhiều nhất, binh sĩ trong mỗi một Đô thì đao thủ có 8 người, thương thủ có 16 người, còn lại 70 người là cung thủ, binh sĩ cận chiến là ít nhất. Trận tên này bao phủ cả bầu trời, khi từ trên không trung bắn xuống thì đúng là lúc kị binh tiên phong của Khiết Đan xông đến gần.
Tên bay như mưa, thế tấn công của kị binh Khiết Đan đang rất gấp gáp, hơn nữa đa phần lại không có phòng bị, cho nên lập tức bị bắn cho người ngã ngựa đổ. La Khắc Địch cầm thương giơ lên, lại hét lớn: “Bắn tên.”
Đợt cung tên thứ hai lại bắn ra, người Khiết Đan dựa vào ngựa nhanh, đấu chọi với cả mưa tên mà gào thét xông lên, bất chấp người chết người bị thương. Đến khi trận tên thứ ba bắn ra thì người Khiết Đan đã xông tới phạm vi gần một trăm bước chân, khuôn mặt dữ tợn của kẻ xông lên đầu tiên đã có thể nhìn thấy rất rõ.
La Khắc Địch lạnh lùng hô lên: “Giương nỏ, bắn!”
Đám binh lính phía sau lập tức phất cờ, những người dùng nỏ này đều là những lão binh có kinh nghiệm chiến trường phong phú, thấy phía trước quân địch đã gần tới lại không hề hoang mang sợ hãi. Nghe theo hiệu lệnh của chỉ huy, họ đứng phía sau những chiến xa làm tấm chắn, đều hạ quyết tâm cao, chân dẫm vững xuống đất, cong người, thở chầm chậm, giương nỏ lên, cho tiễn vào, chỉ nghe thấy những tiếng “soạt soạt”, rồi lập tức vô số nhưng tên nỏ từ hai bên cánh quân phóng đến đội kị binh Khiết Đan.
Nỏ tiễn so với cung tiến thì có uy lực hơn, nó có tầm bắn thẳng. Lúc này khi quân Khiết Đan đã tiến tới gần thì nỏ tiễn lại càng dễ ngắm chuẩn, lập tức những nỏ tiễn bay đến đám kị binh Khiết Đan đang tới gần. Nhìn thấy đám kị binh đang xông đến gần bị nỏ tiễn làm cho ngã xuống, vì chúng đang xông lên rất nhanh nên có rất nhiều binh mã dính nỏ tiễn bị trượt ngã xa đến cả hai ba trượng, làm cho đám quân đằng sau phải dừng bước lại, La Khắc Địch lập tức phát ra mệnh lệnh chủ động tấn công: “Chiến xa, xông trận.”
Hàng chục chiếc chiến xa xông lên phía trước chém giết, quay vòng tròn quanh đám kị binh Khiết Đan mà thế trận đã hỗn loạn. Bất kì một loại quân nào cũng đều có ưu nhược điểm của nó, nếu như Kha Phi Bào lợi dụng đặc điểm tính cơ động của kị binh rất cao để công kích vào hai bên của quân Tống thì sẽ ép cho xa trận chuyển động hỗn loạn, rồi chỉ huy quân lên chém giết, như vậy thì xa trận của La Khắc Địch nhất định sẽ khó phát huy uy lực như thế này. Bây giờ tiên cơ của Kha Phi Bào đã thất bại, kị binh bị sa vào xa trận, thật là còn kinh khủng hơn cả bộ binh.
Dương Hạo xa xa nhìn chỉ thấy chiến pháp xa trận của Tống quân giống như chiến thuật xe tăng của hậu thế, lấy hoả pháo để công kích tới phía xa, lại dựa vào mặc giáp để xông tới, bộ binh ở phía sau đi theo sẽ được tiện lợi hơn. Giờ phút này là như thế, chiến xa xông lên vây hãm kị binh, đám binh lính đi theo xe khua đao múa kiếm, chặt đầu chém đứt chân ngựa, những tinh binh Khiết Đan còn không kịp thi triển thủ cước thì đã lâm vào thế trận, chiến mã không biết trốn tránh nên kị binh lập tức bị giết chết.
Loại chiến thuật này bày bố trên bình nguyên để đối phó với kị binh là thủ đoạn có lợi nhất, sau này quân Tống trong các chiến dịch Đại Nghi Trấn, Thác Cao đều đánh bại kim quân, đó là đều dùng chiến thuật này. Dũng sĩ phương bắc cũng phải thừa nhận rằng quân đội Trung Nguyên thứ lợi hại nhất vẫn là cung tiễn, thứ nhì là đại đao rìu nặng, còn những thứ khác thì không đáng sợ. Bầy giờ lại có sự phối hợp vừa vặn của đội kị binh Khiết Đan làm cho quân Tống có thể thi triển một cách hoàn mĩ chiến thuật tấn công xa trận trùng đao này.
…………………………………………�� � � �…………………
Cẩu Nhi không dám nhìn ánh sáng mặt trời, trốn trong xe, lơ lắng hỏi: “Ây, lão đạo sĩ, Dương Hạo đại thúc có đánh thắng được người Khiết Đan không?”
Lão đạo sĩ tỉnh mà như không tỉnh nhìn về đại chiến mà không nói một lời nào. Cẩu Nhi lại nói: “Đạo sĩ, Dương đại thúc của ta không sao chứ?”
Lão đạo sĩ đưa tay vuốt chòm râu mà không thèm để ý đến nó, Cẩu Nhi đành phải thay đổi giọng: “Ây, lão đạo gia gia, ông nói cho ta biết đi mà.”
Nó thấy lão đạo sĩ tóc đen sì, có vẻ trẻ hơn nhiều so với Lưu gia gia, nhưng nếp nhăn trên mặt thì không ít, liền khôn ngoan thay đổi, gọi hắn là gia gia, làm cho hắn bật cười nói: “Dương Hạo đại thúc của ngươi đang đứng ngay ngắn yên vị ở chỗ kia quan sát trận chiến mà không phải dùng một đao nào, cũng không phải bắn một cái tên nào, hơn một trăm thân binh bên cạnh đang bảo vệ hắn, hoàn toàn không phải rút đao ra trận, thì hắn có thể xảy ra chuyện gì chứ.”
Cẩu Nhi nghe thấy lúc này mới mới yên tâm, vỗ ngực nói: “Đại thúc không có xông lên trận thì tốt rồi, đạo sĩ gia gia, ta nghe thấy bên ngoài kia tiếng gáo thét rất kinh khủng, chúng ta có thắng không?”
Phù Diêu Tử nhăn mắt nhìn xa xa, chỉ thấy thân binh của La Khắc Địch đang dùng chiến xa xông vào trận địa của địch, lợi dụng ưu thế trang bị trùng trùng mà áp chế được không gian cơ động của kị binh Khiết Đan, làm chi địch hoàng toàn mất đi ưu thế chiến đấu cơ động linh hoạt. chỉ huy Tống quân ở hai bên cánh đều là những lão tướng nơi sa trường có kinh nghiệm phong phú, lúc này cũng đã nắm bắt được chiến cơ, nhanh chóng dẫn kị binh và bộ binh đi theo hai hướng bao vây hai bên ngoài, bộ binh thì tấn công trận địch, kị binh thì men theo đánh phía sau địch, rất muốn đem cả nghìn binh Khiết Đan dìm chết ở đây, liền tươi cười nói: “Thắng rồi, thắng rồi, ngươi không cần phải lo nữa, kị binh Khiết Đan đơn độc đánh tới lại tự bỏ mạng. Trận này bại tan tác rồi.”
Cẩu Nhi nghe thấy vô cùng vui mừng, chỉ giận mình không thể ra ngoài tận mắt nhìn thấy uy phong thắng lợi của Dương Hạo đại thúc. Uy phong của Dương Hạo đại thúc? Đó là điều đương nhiên, hắn không xông lên trận thì cũng có sao, trong lòng Cẩu Nhi hắn luôn là một đại quan, cho dù không có xông trận thì trận chiến này cũng nhất định là do Dương Hạo đại thúc đích thân chỉ huy.
Trong lòng Cẩu Nhi “Dương đại tướng quân”có tài sách lược như Gia Cát Lượng, dũng mãnh như Tử Long. Dương Hạo lúc này đứng song song với Trình Đức Huyền, há mồm trợn mắt nhìn Tống quân đang đánh cho người Khiết Đan tan tác. Nhưng Tống quân trận này tuy là thắng một cách dễ dàng, nhưng hắn cũng biết rằng không phải là không có sự may mắn, nếu như đội quân Khiết Đan thật sự tề tụ đầy đủ thì ngay cả nhân vật anh hùng như Triệu Khuông Dận cũng chưa chắc đã có thể dẫn đại quân đi xa như vậy.
Nhìn thấy hai vị chỉ huy sứ Từ Hải Ba và Hách Long Thành từ hai bên cánh quân bao vây tới, đại cục đã được định, Trình Đức Huyền không khỏi mừng rỡ nhìn ra xa, giống như trận chiến này cũng có công lao của hắn vậy, mặt mày hớn hở nói: “Thiên binh của Đại Tống ta quả là thần dũng, ha ha, người Khiết Đan tuy thế lực hung hãn, nhưng lại không biết tấn công. Dương Đô Giám, ngươi xem quân ta có thể tiêu diệt hết được đội kị binh đó không?”
Dương Hạo nhẹ nhàng lắc đầu, nói: “Đại nhân, trừ phi là đám Khiết Đan này không có ý định tháo chạy, nếu không muốn giết sạch chúng e rằng…rất khó.”
Lúc này đã có một đám binh Khiết Đan thấy thế trận bất ổn nên đã tìm đường tháo chạy, Trình Đức Huyền thở dài, tiếc nuối nói: “Thật đáng tiếc, quả là đáng tiếc, nhưng bản quan thấy trận này có thể địch lại kị binh Khiết Đan, làm chúng phải bỏ chạy, thế cũng là đủ rồi.”
Dương Hạo thấy hắn có chút đắc ý liền nhắc nhở, nói: “Trình đại nhân, bây giờ cá đã lọt lưới chạy thoát, e rằng rất nhanh sẽ có đại đội kị binh đuổi đến. Trận này tuy thắng nhưng mục đích của chúng ta là đem mấy vạn dân chúng này an toàn về đến đất Tống. E rằng nhiệm vụ lần này sẽ thêm phần khó khăn.”
Trình Đức Huyền hơi nhăn mày, nghĩ nghĩ rồi nói: “Chúng ta nếu muốn nhanh chóng đến đại thành cố thủ gần nhất thì phải mất bao lâu?”
Dương Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: “Còn khoảng 600 dặm.” Giọng hắn có chút mệt mỏi: “Chúng ta mang theo người già và trẻ nhỏ, thì chặng đường này e rằng không chạy khỏi kị binh Khiết Đan.”
Trình Đức Huyền có chút khinh miệt nhìn Dương Hạo, nói: “Dương đại nhân sợ rồi à?”
Dương Hạo nén tức giận, nói: “Đại nhân, hạ quan thực sự sợ rồi, không vì an nguy bản thân thì cũng vì an nguy của mấy vạn dân chúng. Bây giờ người Khiết Đan đã đuổi đến, lại phát hiện hành tung của chúng ta, sợ rằng chúng ta không thể đem những dân chúng này bình an trở về đất Tống. Nếu như…chúng ta bây giờ chia thành hai hướng như quan gia đã chỉ định, một hướng nam, một hướng tây, qua sông, đi men theo An Phủ thì sao nhỉ?
Trình Đức Huyền do dự một hồi, nhẹ nhàng lắc đầu. Dương Hạo lại nói: “Từ chỗ này hướng về phía đông là một đường thẳng, một vùng bằng phẳng rất dễ để truy đuổi, hơn nữa con đường này cách Bắc quốc rất gần, chúng có thể đuổi đến từ phía sau, cũng có thể thông báo cho quân trong thành lập tức đến truy kích. Chúng ta mang một đoàn người dài như rắn thế này thì khả năng muốn an toàn tiến vào nơi không nguy hiểm là rất nhỏ. Nếu như chúng ta lập tức thay đổi lộ trình, đi men theo dãy núi về phía nam, và về phía tây, vượt sông mà đi về tây bắc thì người Khiết Đan sẽ tuyệt đối không dám đi sâu vào bên trong đất Tống để truy đuổi đến đó, chỉ có như vậy thì chúng ta mới có thể an toàn mà đến nơi thôi. Bây giờ chúng ta mới chỉ thắng một trận nhỏ, đúng là có tác dụng làm cho địch cảm thấy nghi ngờ. Kị binh sẽ đuổi đến phía trước tìm kiếm, tuyệt đối sẽ không nghĩ rằng chúng ta đột nhiên đã thay đổi hướng đi, đợi đến lúc chúng phát giác ra thì chúng ta đã đến được bên kia Hoàng Hà rồi, lúc đó chúng ta có thể yên bình mà không tổn thất một binh một mã, an toàn đến đất Tống rồi.”
Dương Hạo nói rất thấu tình đạt lí, nhưng Trình Đức Huyền biết rằng Triệu Khuông Dận hoàn toàn không hi vọng phải đem dân chúng đi qua phạm vi thế lực của Chiết Thị tây nam, nếu như không phải là vạn bất đắc dĩ thì hắn không muốn đi con đường này. Nếu như có thể đưa toàn bộ dân chúng an toàn trở về theo hướng đông thì công lao này sẽ hoàn mĩ hơn, mới có thể có được sự ưu ái của quan gia. Hắn do dự một lúc rồi cười nói: “Dương đại nhân nói có chút phóng đại rồi, người Khiết Đan còn đang ở khắp nơi tìm kiếm đại quân nhân mã của quan gia, nào có thể điều động lượng binh lớn đến truy sát chúng ta, các vị tướng quân anh dũng thiện chiến, có họ bảo vệ ngăn địch, chúng ta lại ngày đêm đi về phía đông thì làm sao lại không thể an toàn tuyệt đối về đến đất Tống chứ?”
Dương Hạo còn định nói thêm thì Trình Đức Huyền đã phi ngựa đến phía trước, lạnh lùng nói: “Người Khiết Đan đã thoái lui. Chúng ta đi kiểm tra binh mã đã, còn chuyện thay đổi lộ trình thì tạm gác lại.”
Nhìn thấy Trình Đức Huyền dẫn đám tuỳ tùng của hắn vui mừng dương dương tự đắc ảnh hưởng đến nhưng binh sĩ bị thương máu me đầy người, Dương Hạo nhẹ nhàng lắc đầu, thở dài nói: “Không sợ địch mạnh như hổ, chỉ sợ chiến hữu ngu như heo, ngươi không thể không đem hàng vạn tính mạng của dân chúng vào tuyệt cảnh sao.”
Phạm Lão Tứ nhai nhuyễn cọng cỏ rồi nhổ ra, u ám nói: “Đại nhân, chỉ cần đem đầu heo làm thịt, thì còn sợ ai kéo chân sau nữa?”
Dương Hạo biết giữa hai người thuộc địa vị cao thì phải nể mặt mũi, nhưng Chiết Thị ở tây nam và triều đinh có ngăn cách, lại làm cho giữa đám quân binh và binh mã triều đình “Kinh Hà nước trong, Vị Hà nước đục” (phân biệt rõ ràng), hai bên hoàn toàn không có chút thân thiện nào.
Nhưng hắn lại không nghĩ rằng đám binh tốt Phạm Lão Tứ lại hoàn toàn không coi uy nghiêm triều đình ra gì, lại dám nói những lời đại nghịch bất đạo như vậy. Hắn sợ Phạm Lão Tứ thật sự sẽ gây ra đại hoạ tru di cửu tộc, vội vàng nghiêm giọng nói: “Sao lại nói ra những lời hạ lưu như vậy, hãy thu lại những lời đầy giọng điệu của thổ phỉ giang hồ đó lại. Chớ có đem đại hoạ đến cho ta đấy.”
Phạm Lão Tứ vừa bị hắn quát thì vẻ mặt u ám đã tan biến, thay vào đó là vẻ mặt gian trá. Hắn vặn vặn hai tay, cười khan nói: “Ty chức chỉ là nói cho sướng mồm thôi, đại nhân sao lại coi là thật như thế, hì hì, đùa chút thôi, chỉ là đùa thôi.”
Dương Hạo vừa bực mình lại vừa buồn cười, trừng mắt nhìn hắn, lúc này mới vỗ ngựa đi về phía Trình Đức Huyền
Nhìn thấy đội quân Khiết Đan điên cuồng như gió, lại cuồn cuộn như nước chảy, đám dân chúng kinh hãi run sợ gào thét lên, người già ngũ tuần dáng vẻ khôi ngô lại không buồn không vui, chỉ thản nhiên liếc mắt nhìn quân Tống đại thắng trở về, khoanh hai tay lại, nhíu nhíu hai mắt nhìn lên trời, trên bầu trời có một con diều hâu đang bay lượn mấy vòng, rồi lay động cánh bay về phía bắc, hắn thở dài, hơi lắc đầu nói: “Con đường phía trước gập gềnh chông gai, e rằng khó đi.”
Một đại hán Mộc Ân ngồi bên cạnh trầm ngâm nói: “Người Khiết Đan có hùng ưng truyền tin tức, e rằng kị binh trong Bắc quốc sẽ nhanh chóng đuổi đến. Con đường phía trước đã không còn an toàn, chúng ta có cần đi nhắc nhở hai đại nhân Tống quốc không?”
Người già cười nhạt nói: “Đi để làm cái gì?”
Mộc Ân vội nói: “Chủ thượng. Nếu như người Khiết Đan đuổi giết đến, trong chiến loạn e rằng sẽ làm bị thương chủ thượng, chúng ta…”
Người già lạnh lùng nói: “Lão phu cả đời nước chảy béo trôi tuỳ cho người ta xếp đặt, sống những ngày như một thi thể sống, hôm nay có gục xuống thì còn có gì trông mong nữa? Sống một ngày lại phải tính một ngày, người Tống cũng được, người Khiết Đan cũng được, cũng có liên quan gì đến ta?”
“Chủ thượng…”
“Yên tâm một chút đi.” Người già nói xong, hai mắt nhắm lại, Mộc Ân muốn nói lại thôi, hắn dậm mạnh chân, nhìn theo hướng con hùng ưng biến mất, thở dài một tiếng.
Chương 145: Khí phách nam nhi.
Tác giả: Nguyệt Quan
Nguồn: Sưu tầm
Điều Dương Hạo lo lắng cuối cùng cũng thành sự thật, bọn họ chỉnh đốn hàng ngũ, tiếp tục đi về phía đông, nhưng ngày thứ hai khi đi tới Sát Hồng Lĩnh thì bị một đoàn người Khiết Đan đuổi đến. Đội quân nghìn người này đã gặp đội kị binh Khiết Đan bị đánh tan rã và biết được đại quân mà Tiêu Hậu lệnh đi tìm đang ở phía trước, hơn nữa quân lính hộ tống chỉ trên dưới ba nghìn người, bọn chúng liền phái người đi truyền tin tức, đồng thời nhanh chóng đuổi đến.
Thủ lĩnh của đội quân Khiết Đan lần này đã nhận được sự giáo huấn của Kha Phi Bào, không dám khinh xuất đánh nhau với đội xe Tống quân nữa, mà ra sức phát huy đặc điểm của kị binh, vừa tiến vừa kùi, vừa trái vừa phải, cả đội quân như gió lốc. Lợi dùng khoái mã mà mì nhanh đến trận địa. Xa trận của quân Tống không thể dùng được vào việc lớn, ba nghìn bộ tốt lại không có cách nào bảo vệ chu toàn cho mấy vạn bách tính. Họ đều đã mệt mỏi kiệt sức với chiến thuật cơ động trên dưới trái phải của kị binh Khiết Đan.
Cũng may là vùng này rừng núi rậm rạp rất nhiều, La Khắc Địch phái hai tướng tài Hách Long Thành, Từ Hải Ba ngăn cản địch ở phía sau, còn Trình Đức Huyền và Dương Hạo đưa dân chúng đi xuyên vào rừng sâu, lúc này trời đã tối dần, mặt trời đã xuống núi, người Khiết Đan sẽ không dám mạo hiểm truy đuổi vào trong rừng. sau khi đám người La Khắc Địch hoàn thành nhiệm vụ ngăn cản địch cũng đuổi kịp đoàn người. Lúc này tất cả tướng sĩ Tống quốc đã chỉ còn không quá 2300 người, rất nhiều người đã bị thương.
Buổi sáng ngày thứ ba, đoàn người cuối cùng đã đi ra khỏi khu rừng rậm, Trình Đức Huyền đi ra ngoài, đứng phía dưới một cây tùng cao lớn thở phào nhẹ nhõm, hắn ngẩng đầu nhìn sắc trời, đã nhận ra phương hướng, nói: “Người Khiết Đan đi rất nhanh, chúng ta phải tăng tốc, lệnh xuống phía dưới, vứt bỏ tất cả những thứ đồ nặng, chỉ còn lại năm ngày lương thực, tất cả phải dốc toàn sức đi về phía trước.
Dương Hạo cuối cùng không thể kiềm chế được nữa, hắn phi ngựa đến trước mặt Trình Đức Huyền, nói: “Trình đại nhân, hạ quan có lời muốn nói.”
Trình Đức Huyền sắc mặt trầm xuống, quát: “Dương đại nhân, bản khâm sai đã có quyết định rồi.”
Dương Hạo nén giận nói: “Trình đại nhân, không phải là hạ quan kháng lệnh, nhưng thật sự chúng ta không thể đi tiếp được nữa. Trình đại nhân, hãy nhìn kĩ xem, bên cạnh chúng ta bây giờ còn lại bao nhiêu tướng sĩ? Đại nhân hãy nhìn cả năm nghìn bách tính này, có rất nhiều người già yếu, phụ nữ và trẻ nhỏ, họ đã không thể chống đỡ được với cuộc hành quân gấp này nữa, lẽ nào đại nhân bảo họ bỏ tất cả cha mẹ con nhỏ ở lại đây để lên đường sao?”
Dương Hạo chất vấn hắn như vậy trước mặt mọi người, làm cho Trình Đức Huyền có chút khó xử, sắc mặt của hắn xanh xám lại, phẫn nộ quát: “Dương Đô Giám, ngươi định uy hiếp ta, một mực ngăn cản, rốt cuộc là muốn gì?”
Dương Hạo lớn tiếng nói: “Bẩm đại nhân, bây giờ chúng ta chỉ còn trên dưới hai nghìn tướng sĩ, phần lớn đều đã bị thương, luân phiên hành quân tác chiến. Cho dù người Khiết Đan đã phát hiện ra ý đồ của chúng ta thì ta vẫn có thể dựa vào dãy núi liên hoàn này, kị binh của chúng sẽ không phát huy được uy lực to lớn vốn có, như vậy chúng ta cũng sẽ có cơ hội thoát thân. Nhưng nếu tiếp tục hành quân ư? Lại đi về phía trước, đó chính là một thảo nguyên hoang dã, lúc đó quân địch đuổi đến, chúng ta chạy không được, đánh cũng không lại, ngay cả lợi thế địa hình cũng không có. Hai nghìn tướng sĩ, năm vạn dân chúng lẽ nào lại vì chúng ta mà bỏ mạng ở trên thảo nguyên hoang vu, biến thành một đống xương trắng hay sao?”
La Khắc Địch trên cánh tay quấn vải đang thấm máu ra, đám người Từ Hải Ba, Hách Long Thành cũng đều bị thương khắp nơi, chọ ghìm cho ngựa nghỉ chân, lạnh lùng nhìn hai vị Chính Phó Sứ, hai người họ sẽ quyết định sự sống chết của hàng vạn sinh linh.
Trình Đức Huyền đột nhiên giận dữ, lớn tiếng quát: “Dương Hạo, ngươi năm lần bảy lượt nói những lời uy hiếp người khác, rốt cuộc là ngươi có ý đồ gì, nói đi.”
Dương Hạo không hề sợ hãi, thản nhiên nói: “Trái tim này của Dương Hạo nhật nguyện soi chiếu, liệu có thể có ý đồ gì chứ?”
Trình Đức Huyền cười lạnh một tiếng, nghiêm giọng nói: “Dương Hạo, ngươi vốn là một tiểu dân vùng quê, đừng có quên đấy. Là quan gia đã mở mồm đề bạt ngươi lên làm chức Phó Khâm Sai, Tây Tường Đô Giám, quan gia ân trọng như núi. Chúng ta không thể quên được bổn phận của một thần tử. Ngươi cứ quanh co lòng vòng chính là muốn mấy vạn dân này phải đi về hướng tây nam, ngươi dám nói ngươi không có ý đồ riêng sao?”
Dương Hạo nghe thấy những lời vạch trần của hắn, mặt không khỏi biến sắc, một vài người bằng hữu của hắn đã từng sóng vai ngăn địch, liên thủ đẫm máu nhưng lại làm tướng lĩnh của hai phe triều đình và Chiết Thị. Nghe hắn đã nói ra chuyện này mấy tướng sĩ mà dẫn đầu là Hách Long Thành đều không tránh khỏi thầm nghĩ: “Chẳng lẽ Dương tướng quân thật sự cố ý muốn đem năm vạn dân chúng này đến tây nam?” Còn đám tướng sĩ dẫn đầu là La Khắc Địch thì thấy thần sắc của họ có chút không tự nhiên, nhất thời cũng không tránh khỏi nghi ngờ, không khí lậo tức trở nên quái dị
Dương Hạo cười lớn, cầm roi ngựa chỉ vào Trình Đức Huyền, mắng lớn: “Nếu là chuyện khác thì ta còn nhịn ngươi, nhưng lại tận mắt chứng kiến ngươi đen vô số tính mạng dân chúng đi vào con đường tuyệt mệnh, Dương Hạo ta đã không thể nhẫn nhịn được nữa. Ngươi, cái tên thất phi, đợi đến khi chúng ta rơi vào đường cùng không có lối đi thì ngươi có mấy cái mạng cũng không để đền hết được cho năm vạn dân đâu.”
Trình Đức Huyền thẹn quá thành giận, hai hàng lông mày dựng lên, quát: “Dương Hạo, ngươi to gan thật, ngươi ôm ý đồ riêng, không nghe theo ý ngươi thì liền muốn xông tới bản quan, đợi khi nào về đến đất Tống, bản quan nhất định sẽ nói tội ngươi trước mặt quan gia, bây giờ à, ha ha. Ta mới là Khâm Sai Chính Sứ, lời của ta chính là thánh chỉ, ai dám làm trái? Đứng ra nói xem.”
Hắn trừng hai mắt lên, nhìn lướt qua mặt đám tướng sĩ, đám tướng sĩ đều cúi đầu xuống. Trình Đức Huyền đắc ý cười lạnh một tiếng, quát: “Tiếp tục đi về phía đông, tất cả hậu quả tự bản quan gánh chịu. Đi!”
Dưới sự ra lệnh của hắn, dòng người khổng lồ dần dần đi về phía đông. Dương Hạo tức giận nổi đầy gân xanh trên trán. Hắn ghìm ngựa đứng ở chỗ cũ. Mắt nhìn đám dân chúng như một đàn bò dê bị lủi thủi đi quan mình. Mình chức vị thấp, không có cách nào kháng cự lại tên Khâm Sai Chính Sứ do Hoàng Đế cử ra này. Đang lúc không biết làm thế nào thì đột nhiên có người hét lớn: “Mau nhìn kìa, mau nhìn, phía xa có một đoàn người ngựa đang đến.”
“Trời ơi, là từ phía trước tới, chúng đã bao vây phía trước ta.”
“Đại Mao, Nhị Mao, mẹ của đám trẻ ơi, mau chui vào rừng đi.”
“Không được chạy loạn, ai dám lộn xộn, giết ngay không cần hỏi.”
“Nương tử, đừng sợ hãi, ta đang đi tiện, lập tức sẽ ra…”
Đang trong lúc hỗn loạn, một binh sĩ quát lớn: “Không cần phải hoảng sợ, không phải hoảng sợ, những người đang đến là quân của Đại Tống.”
“Cái gì?” Trình Đức Huyền nghe thấy thì vui mừng khôn xiết, vội vàng phi ngựa tới, kêu lên: “Là binh mã của Đại Tống sao? Thật là binh mã của Đại Tống sao?”
Tên binh sĩ chỉ về phía xa nói: “Đại nhân xem, đội quân đó mang cờ không phải chính là cấm quân Đại Tống sao?”
Trình Đức Huyền nhín chăm chú, thấy đội nhân mã ấy đi đầu là Phạm Dương Mão, trên đầu đội mũ tua đỏ như một ngọn lửa, trái tim đang nặng nề lập tức được thả lỏng, hắn ngửa mặt lên trời cười lớn nói: “Ha ha ha, binh mã triều đĩnh đã đuổi tới phía trước đón chúng ta rồi, lần này cuối cùng cũng đã an toàn. Ha ha ha. Mau mau theo bản Khâm Sai đi nghênh đón, xem xem người đến là đoàn binh mã nào.”
Trình Đức Huyền vui sướng hân hoan, thúc nựa giơ roi lên phi về phía đoàn nhân mã. Vừa đi chưa được mấy trăm bước thì phía sau một người phi ngựa như bay đuổi đến, lập tức kị sĩ nắm lấy cương ngựa của hắn, trầm giọng nói: “Trình đại nhân, không được lỗ mãng, đoàn ngựa này có chỗ cổ quái.”
Trình Đức Huyền ngẩn ra, quay đầu lại nhìn, hoá ra đó là La Khắc Địch, không khỏi thừa dịp lên mặt quát lớn: “La tướng quân, ngươi cũng bị Dương Hạo đầu độc rồi à, đoàn người ngựa phía trước có gì cổ quái chứ?”
La Khắc Địch sắc mặt nghiêm lại, hắn không trả lời, chỉ giơ trường thương lên, nghiêm giọng quát: “Bước lên ba bước dàn trận, cẩn thận đề phòng.”
Tướng sĩ Tống quân lập tức chạy lên phía trước, đứng chắn trước mặt dân chúng, rồi vội vàng bày thế trận hình X. Thế trận này rất thích hợp để phòng ngự, hơn nữa có thể tuỳ cơ mà di chuyển đội hình, làm cho trung tâm phòng ngự có thể từ trước chuyển sang hai bên cánh trái phải. Đồng thời, các cung tiễn thủ cũng bước lên trước, đao gươm thủ đứng ở phía sau, kị binh xếp thành ba hàng cũng có mục đích phòng ngự.
Một thế trận nhanh chóng được dựng lên nhưng chưa kịp hoàn chỉnh thì kị binh Tống quân phía trước mặt đã phi đến. Vừa nhìn thấy dưới chân núi là thế trận nghênh chiến của Tống quân, thì người cưỡi ngựa đi đầu liền cười lớn mấy tiếng, cầm cung lên tay, không nói gì, bắn ra một mũi tên, người bắn mặc y phục quan văn. Trình Đức Huyền đứng ngẩn ra phía trước trận.
La Khắc Địch thấy vậy liền vội vàng giơ thương lên nghênh tiếp, “Phập” một tiếng, chọc trúng vào mũi tên nhọn, hắn vốn biết được rằng cây thương này có thể đỡ được mũi tên đang bay kia, nên không muốn vội vàng xông ra. Tướng lĩnh Tống quân ăn mặc rất nho nhã dùng một cây cung cứng làm bằng gỗ, khi tiễn và thương giao nhau, thì cánh tay La Khắc Địch vốn đã bị thương vì chấn động mạnh mà lại nứt ra, cánh tay vừa lỏng ta thì mũi tên cũng hơi mất đi phương hướng. “Xoẹt” một tiếng, thoắt cái đã bay qua đầu Trình Đức Huyền, không những làm bay mũ quan của hắn mà ngay cả tóc hắn cũng bị làm bung rối ra. Trình Đức Huyền kinh hãi kêu lên, vỗ cho ngựa bước đi.
La Khắc Địch kêu lớn: “Bảo vệ Khâm Sai đại nhân.” Nói dứt lời thì thúc vọt lên phía trước, đi theo hướng ‘Tống quân Chỉ Huy Sứ’ đang cầm tên, vị ‘Chỉ Huy Sứ’ này nhìn thấy hắn tránh được mũi tên của mình, thần sắc lộ ra vẻ tức cười, hắn giơ cung lên, bắn liền ba phát về phía La Khắc Địch, nhưng đều bị cây thương của La Khắc Địch ngăn lại. Nhìn thấy La Khắc Địch đang dần lại gần, người đó liền đeo cung lên, lấy ra một cây thương, hung hăng xông về phía La Khắc Địch. Lúc này La Khắc Địch mới biết ‘Tống quân Chỉ Huy Sứ’ chính là một đại hán mắt chột, có một con mắt bị mù.
Hoá ra ‘Tống quân Chỉ Huy Sứ’ này chính là em ruột của Nhạn Cửu – Lư Nhất Sinh. Bắc Đế Da Luật hiền khổ vì nội bộ phân tranh, đã không thể dùng vũ lực giải quyết lại không có cách nào hiệu lệnh các bộ, nên Hoàng Thủ Tiêu Náo đã hiến một kế, đó là đã chiêu mộ Lư Nhất Sinh, một tên đại đạo tặc đã sớm có quan hệ làm ăn buôn bán qua lại với Tiêu Gia, rồi bí mật giao cho hắn chức Tướng Quân, ban vàng ngọc gấm vóc vô kể, giờ lệnh cho hắn đóng giả cấm quân Đại Tống, tập sát bộ tộc Khiết Đan làm cho họ phẫn nộ, rồi sau đó mời Nam Viện Đại Vương Da Luật Ốc Chất, Đại Tổng Quản binh mã Da Luật Qua Liệt và tân nhiệm Đại Dịch Ẩn Da Luật Hưu Ca ra mặt điều đình, cuối cùng làm cho các bộ Khiết Đan vứt bỏ tranh chấp hoàng vị, đồng lòng đánh Hán.
Lư Nhất Sinh đã hoàn thành sứ mạng bí mật của hắn, vốn đang định cho cờ Tống một mồi lửa thì đột nhiên nhận được mật chỉ, lệnh hắn lập tức xuất binh nam hạ, ngăn cản di dân Bắc Hán xuống phía đông. Lư Nhất Sinh rất nhạy bén, liền mặc quân phục Tống quân, chỉ có điều lần trước mặc y phục này người bị hại là dân chúng Bắc quốc, còn lần này lại là đều đối phó với người Trung Nguyên.
Nhưng bọn chúng mặc y phục quân Tống có thể lừa gạt được dân chúng Bắc quốc, lại không thể lừa được La Khắc Địch, người xuất thân từ cấm quân. Bọn cướp cưỡi ngựa coi trọng kẻ kiêu dũng. Đội cấm quân là một đội quân phối hợp chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất, kị nhất là độc lập hành động, vì thế trong những lần huấn luyện và tiến công bình thường thì làm thế nào phải sắp xếp bố trí cho thật quy củ. Lư Nhất Sinh là người không có kinh nghiệm nên khi vẫn chưa tiến tới gần đã để lộ sơ hở, La Khắc Địch vốn tính cẩn thận bỗng nhiên nảy sinh cảnh giác.
Lư Nhất Sinh cũng rất nhạy bén, vừa biết mình bị lộ liền không giả mạo nữa, lập tức thừa lúc trận thế của quân Tống chưa triển khai thì phát lệnh tấn công toàn diện.
Rất nhiều Tống quân tuy đã nghe theo mệnh lệnh của La Khắc Địch bày trận hình phòng ngự, nhưng thứ nhất là tốc độ không nhanh, thứ hai tận mắt nhìn thấy đoàn người ngựa đang xông tới là rõ ràng là mang cờ hiệu Đại Tống, trong lòng khó tránh khỏi do dự, vì thế mà khi vừa xông trận thì đã lộ ra rất nhiều kẽ hở, bị bị bọn cướp đánh cho tan nát, xông vào trong trận, đến lúc này lũ cướp như cá gặp nước, còn quân Tống thì ngay cả tiễn cũng chưa kịp phóng ra, rất nhanh sẽ bị bại.
Tướng sĩ Tống quân phần lớn trên người đã bị thương, lai luân phiên khổ chiến mệt mỏi vô cùng, thế trận một khi đã bị phá loạn thì làm sao còn là đối thủ của chúng nữa.
Lư Nhất Sinh vốn thủ hạ chỉ có hơn nghìn người, đều là những mã tặc cướp của đánh nhau ở giữa vùng đất của Bắc quốc và Đại Tồng, lần này lẻn vào Bắc quốc tập sát các bộ lạc du mục, dưới sự thả lỏng của Da Luật Hiền mà luôn thuận lợi, nhất thời tiếng tăm vang xa, lập tức có rất nhiều tên thổ phỉ trên thảo nguyên đến đầu quân, thời gian chỉ mới hai tháng mà hắn đã hội tụ được ba nghìn tên. Binh mạnh ngượi tráng, lần này đánh đến thật sự là rất có uy phong.
Quân Tống ứng phó không kịp, thế trận một khi đã bị loạn thì ngay cả sự chỉ huy điều động cũng không có tác dụng nữa, đành phải vừa đánh vừa chạy, men theo rừng núi sơn cố tản lùi về hướng nam, đến tận trưa hôm sau mới chạy đến Phù Vân sơn cốc. Lúc này mới dựa vào địa hình cửa cốc có lợi mà vững chân, lệnh cho dân chúng vứt bỏ lừa ngựa đi vào cốc, còn quân tống thì ở lại cửa cốc chiến đấu với mã tặc.
Ở cửa Phù Vân cốc, dân chúng đang vội vàng tiến về trước, quan binh đẫm máu cản phía sau, Trình Đức Huyền đứng ở chỗ cao, thấy hơn bốn nghìn dân chúng không kịp vào trong cốc đã bị Tống quân giả ngăn lại ngoài cốc, ngay cả hai nghìn quân anh dũng thiện chiến của mình cũng bị chia làm đôi, không khỏi đau lòng.
Hắn quát lớn một tiềng, rút kiếm ra xông vào trận địch. Trình Đức Huyền là một tay kiếm giỏi, khuyết điểm chỉ là dũng khí và kinh nghiệm. Lần này trong cơn bi phẫn, kiếm pháp cũng sắc bén hơn, liên tiếp mấy tên địch bị hắn chém chết. Trình Đức Huyền trong lòng rát hận, cho dù đã cắt đứt chân tay của đối phương làm cho nó không có cách nào đánh tiếp nữa, những vẫn cứ xông lên lấy đi tính mạng của nó. Nhìn dáng vẻ tóc tai bù xù của hắn cũng thấy đáng sợ.
La Khắc Địch sợ Khâm Sai sẽ xảy ra chuyện nên đành phải đi theo từng bước không rời để bảo vệ hắn. Quay mắt lại thấy Phó Khâm Sai cũng đang cầm đao đích thân xông vào giết địch, La Khắc Địch vội vàng phái mấy thân binh ra hộ vệ bên cạnh Dương Hạo. Dương Hạo đánh không lại những tên mã phỉ ngày đêm đao thương đẫm máu kia, nhưng cho dù hắn ở đến bất kì chỗ nào thì bên cạnh luôn có mấy tên thân binh đi theo bảo vệ. Có người cầm trường thương, có người cầm đoản đao da thuẫn, có người thì cầm nỏ, chỉ cần hắn hô lên thì đã có rất nhiều tên thổ phỉ bị giết mà mình thì không bị thương gì.
Trong sơn cốc đã không thể đi thêm xe ngựa nữa, xe đều bị vứt ở bên ngoài. Lão giả khôi ngô lúc này cũng đã xuống xe, được Mộc Ân vội vàng đỡ vào trong cốc.
Đột nhiên những mũi tên lạc hướng bay đến, Mộc Ân, người vẫn luôn chú ý quan sát ở phía sau tay trần không kịp cứu viện, liền hét lớn mà đưa cánh tay ra ngăn ở phía sau gáy lão giả.
Nội trong vòng mười bước, cái tên đó đã bay cắm phập vào cánh tay hắn, lại xoẹt một đường sau gáy lão giả, lão giả nhăn mày lại, không không có chút hoảng sợ. Lúc này Mộc Ân liền kêu lớn lên một tiếng: “Bảo vệ Chủ Thượng!” Rồi quay người chạy đến cửa cốc.
Trong đám dân chúng đột nhiên có hai người nhảy ra, đưa lão giả đến cạnh gốc cây, cùng lúc đó lại có mười mấy đại hán xông ra cửa cốc đi theo phía sau Mộc Ân. Lão giả gọi với một tiếng, Mộc Ân cơ thể to lớn, thủ cước tinh nhanh vừa chạy đã đi xa mười mấy trượng, nên làm sao có thể nghe được tiếng hắn gọi, lão giả đành phải cười gượng lắc đầu, ngồi xuống để hai đại hán băng bó vết thương cho.
Mộc Ân xông ra khỏi cốc, đưa tay lên một cái thì “tách” một tiếng, cái thân tiễn trên tay đã đứt làm đôi, hắn nhổ đầu tiễn ra, xé toạc một cái chiếc áo bào, lộ ra một bộ lông ngực đen sì, rồi ngửa mặt lên trời hét lên một tiếng, rồi tung như bay nhảy vào trận địa
Một tên mã tặc một tay cầm đao xông lên, chỉ nhìn thấy một cơ thể to lớn đột nhiên thoáng một cái đã đến trước mặt mình, tên mã tặc ngẩn ra, chỉ nhìn thấy hai con ngươi to tròn đang phẫn nộ, miệng mở, răng lộ ra. Sau đó hô lên một tiếng mà đánh vào ngực hắn.
“Bộp” một tiếng. Vì dùng lực quá mạnh mà quyền sắt đó thoắt cái đã đánh gãy xương ngực hắn, còn vì tốc độ quá nhanh cho nên năng lượng đều trút lên cơ thể tên mã tặc. Chưa đợi tên mã tặc ra quyền thì Mộc Ân đã đứng ở bên cạnh hắn. Người không biết sự tình lại cho rằng đại hán lộ ngực trần này rất yếu, quyền cước không có tác dụng.
“Ặc… ặc…” tên mã tặc trợn trừng hai mắt, cơ thể hắn co quắp lại, một dòng máu đen sì chảy ra từ mồm của hắn, Mộc Ân sớm đã quay người bỏ đi, nhặt một cây cung bên cạnh một Tống quân đã chết, bàn tay to liứn nắm chặt, lại rút một cái tên từ trong hộp đựng tên ra cắm xuống đất, rồi đứng hiên ngang ở đó như tảng đá, đưa ba mũi tên lên cung, nhẹ nhàng kéo dây cung, lập tức căng hết dây, rồi thả dây cung lên, ba mũi tên liền bắn ra, lao thẳng tới ba tên mã tặc, làm chúng ngã nhào xuống.
Hơn mười đại hán chạy ra cửa cốc cũng giống như Mộc Ân, đều nhặt cung tên lên, lập tức mũi tên bay ngang lên trời, vang lên những tiếng xoẹt xoẹt trong gió, dây cung vừa động thì có người lại ngã xuống, quả thật là như có thần giúp. Đại chiến hai bên ở cửa cốc thoát cái đã biến thành màn biểu diễn kĩ nghệ bắn tên của mười mấy đại hán, hoặc là liên hoàn, hoặc là một lúc ba tên, nhìn hoa cả mắt.
Những người này chẳng những tiễn không chệch phát nào, mà còn bắn nhanh lạ thường, thời gian để những binh sĩ bình thường bắn ra một mũi tên thì họ có thể bắn được năm, sáu mũi, có mười mấy đại hán như thế chấn thủ ở cửa cốc không thua gì bảy tám mươi thần tiễn thủ của quân Tống liên kết chống địch. Đám mã tặc liên tục kêu lên thảm thiết, rồi lần lượt mất mạng.
Lư Nhất Sinh nhìn thấy uy lực của cửa cốc như vậy không khỏi kinh ngạch, vội vàng dừng tiến công, chỉ lệnh thủ hạ dùng cung chống trả, lập tức một cơn mua tên xuất hiện, tạo ra áp chế đối với đối phương. La Khắc Địch nhìn thấy tình thế vậy liền lệnh giơ những tấm thuẫn lên để bảo vệ hai vị Khâm Sai lùi ra khỏi vùng nguy hiểm.
Lúc này dân chúng trong cốc cũng vội vàng đi. Hai bên đấu tiễn, rất nhiều múi tiễn bay vào phía người dân làm họ bị thương. Tai không ngừng nghe thấy những tiếng kiêu khóc thảm thiết phát ra. Những người dân này ngay cả thời gian đi xem cũng không có, họ chỉ có thể nhìn chằm chằm vào đường dưới chân để đi, biết rằng đi càng xa thì cơ hội sống càng lớn.
Cẩu Nhi được đạo sĩ ôm vào trong lòng, mẹ của nó đang đi mở đường ở phía trước, cũng đang cố gắng chen chúc trong đám người để có thể đi về phía trước. Khi ánh mặt trời trong sơn cốc chiếu vào người thì lại được một đại thúc cao lớn che chắn cho. Mỗi khi đi đến những chỗ có ánh sáng mặt trời thì lão đạo lại giơ cái tay áo lớn lên che đầu cho nó.
Cẩu Nhi trèo lên vai lão đạo ngồi, nhìn về phía xa để tìm kiếm Dương Hạo, nhưng trong cục diện hỗn loạn như vậy, nó làm sao có thể nhìn thấy bóng dáng Dương Hạo.
Đột nhiên, từ phía mã tặc có hai mũi tên mất hướng bay lên không, trên không trung lại vẽ ra hai đường vòng cung, rồi bay về phía sau đạo sĩ. Đúng lúc Cẩu Nhi đang tìm bóng dáng Dương Hạo nhìn thấy, nhất thời sợ hãi hồn phi phách tán. Nó đưa một cánh tay ra chỉ vào hai mũi tên nhọn hoắt đang bay tới, muốn dùng mồm để nói nhưng vì sợ hãi quá mà không thể phát ra tiếng, chỉ có thể dùng tay để chỉ, khuôn mặt lộ ra vẻ sợ hãi vô cùng.
Hai mũi tên thoắt một cái đã bay đến, nhanh như ánh chớp điện. Cẩu Nhi sợ hãi đến mức muốn nhắm mắt lại, nhưng chính vào lúc đó thì nhìn thấy lão đạo đầu không quay lại, chỉ giơ tà áo ra vung lên, rất nhanh rồi thu tà áo trở lại, hai mũi tên kia liền biến mất vào hư không. Cẩu Nhi nhìn thấy cảnh tượng kì lạ như vậy, hai mắt đang mở to lại càng to hơn, chỉ “A a” mà không nói ra lời.
Lão đạo rung tay áo một cái thì hai mũi tên từ trong tay áo rơi xuống đất, Cẩu Nhi ngạc nhiên hỏi: “Đạo sĩ gia gia, ông…ông là thần tiên à?”
Lão đạo cười nói: “Đứa trẻ ngốc này. Ngươi đã từng nhìn thấy một thần tiên nào mà quá giản dị như ta chưa?”
“Cẩu Nhi chưa từng gặp thần tiên, nhưng…nếu ông không phải là thần tiên thì làm sao lại dùng tay áo thoắt cái đã có thể bắt được hai mũi tên đó? Đạo sĩ gia gia, ông có bản lĩnh tốt như vậy tại sao lại không cứu mọi người?”
“Ngươi là đồ con nít, không ai để ý đến người, sao ngươi lại thương tiếc cho người khác.”
Lão đạo vừa nói vừa quay đầu lại nhìn, bùi ngùi thở dài nói: “Đường, Lương, Tấn, Hán, Chu, đến bây giờ là Tống. Hoàng Sào giết người, Vương Tiên Chi giết người, Chu Ôn Sát giết người, Sa Đà Nhân giết người….haizzz, chuyện giết qua giết lại như thế này lão đạo ta đã nhìn suốt mấy mươi năm rồi, sớm đã chán ghét. Đây là việc của Đế Vương, người ngoài cuộc chỉ cầu đạo trời. Khổ lạc trong nhân gian ta có thể quản được bao nhiêu chứ…”
“Đạo sĩ gia gia nói gì vậy, Cẩu Nhi không hiểu.”
Lão đạo cười nói: “Đạo sĩ gia gia nói là ta không phải là thần tiên, cơ thể toàn xương này của ta cũng không thể cứu được nhiều người, pháp thuật ta dùng lúc nãy mỗi ngày chỉ có thể làm được ba lần thôi, ngươi nói ta có thể làm gì nào?
Nhóc con, ngươi không được nói cho người khác nghe nhé, nói ra thì nó sẽ không linh nữa đâu. Ngươi xem những tên cường đạo kia hung ác như vậy, một khi không thể dùng pháp thuật phòng thân thì ta chẳng phải là bị ngươi hại chết rồi sao? Đến lúc đó, lão đạo nhất định sẽ trách ngươi hại ta, mỗi đêm đều đến tìm ngươi, bay bay trên bầu trời trừng mắt nhìn ngươi. Ngươi sợ không?”
Cẩu Nhi sợ hãi giơ hai tay liên tục xua xua: “Đạo sĩ gia gia, ngươi đừng doạ Cẩu Nhi, Cẩu Nhi nhát gan lắm, Cẩu Nhi không nói với người khác là được chứ gì, không nói với ai cả.”
Lão đạo cười ha ha, Cẩu Nhi sợ hãi liếc nhìn hắn, nói: “Đạo sĩ gia gia, pháp thuật của ông có thể dạy cho Cẩu Nhi không?”
“Sao cơ? Cái con tiểu nha đầu này học nó làm cái gì?”
“Ta học nó để có thể bảo vệ cho người ta yêu mến.”
“Ồ. Thế ngươi muốn bảo vệ ai?”
Cẩu Nhi đếm đếm đầu ngón tay, nói: “Ta muốn bảo vệ mẹ, vì mẹ đã sinh ta nuôi ta. Ta muốn bảo vệ Dương Hạo đại thúc vì Dương Hạo đại thúc đối với ta tốt nhất, thúc không muốn người xấu ức hiếp mẹ và ta, còn cho ta ăn thịt. Ta còn muốn bảo vệ Lưu gia gia, vì khi người trong thôn bị quan binh bắt đi hết, thì chỉ có một mình ông ấy là chịu để ta ngồi trong xe của ông…”
Lão đạo nhếch râu mép lên, giả vờ giận dỗi nói: “Sao cơ. Ngươi muốn học bản lĩnh của lão đạo mà lại không bảo vệ cho lão đạo à?”
Cẩu Nhi mở to hai mắt, kì lạ nói: “Ông tự biết pháp thuật mà, còn cần người khác bảo vệ sao?”
Phù Diêu Tử cười ha ha: “Có lí, ha ha. Hoá ra tiểu nha đầu ngươi cũng không ngốc.” Hắn cười cười rồi xoa đầu Cẩu Nhi. Để một người không thân cận xoa đầu vốn là chuyện làm người ta phản cảm nhất, nhưng khi lão đạo xoa đầu Cẩu nhi thì Cẩu Nhi lại cảm thấy cánh tay đó truyền đến một cảm giác từ từ tan ra, làm cho nó không hề cảm thấy xa lạ.
“Đạo sĩ gia gia, ông có đồng ý dậy ta không?”
“Ừm, chuyện này, đạo sĩ gia gia phải suy nghĩ kĩ đã.”
Con ngươi của Cẩu Nhi tròn vo quay vòng vòng, hứa nói: “Nếu như ông dậy Cẩu Nhi phép thuật thì đến tối khi đi ngủ Cẩu Nhi sẽ không dùng cỏ khô trêu ông nữa.”
“Được được, ta sẽ nghĩ, nhưng lão đạo chỉ thu nhận đồ đệ lanh lợi thôi.”
“Cẩu Nhi không lanh lợi sao? Nếu ông dạy Cẩu Nhi pháp thuật thì Cẩu Nhi sẽ đấm chân cho ông.”
“Ha ha ha…”
“Ừm…, còn đấm lưng cho ông nữa.” Cẩu Nhi tiếp tục nói
Lão Đạo sờ mũi không nói gì.
“Mùa hè quạt cho ông, mùa đông đốt lò sưởi cho ông.”
“Hình như cũng có lợi nhỉ?”
“Ông đồng ý rồi sao?”
“Ta đâu có nói gì…”
Ngoài cửa côc tiếng chém giết như những con thú không ngừng vọng lại. Trong cốc khắp nơi đều là những nạn dân đang hoảng loạn tìm đường trốn, chỉ có một già một trẻ trong cái cảnh hỗn loạn ấy mà vẫn còn có tâm tình như vậy.
Tống quân hộ vệ dân chúng vừa đánh vừa lui, đi xuyên qua cốc, lại có một con sông rộng khoảng 100m. Sau khi chạy một mạch qua rừng rậm, lúc này mới thoát được sự truy đuổi của đám người Lư Nhất Sinh, họ dừng lại đóng doanh trại bên trên sườn núi.
Khi đã rời khỏi nguy hiểm, mọi người ý thức được mình vẫn còn sống, lúc này tinh thần đang tê liệt của họ mới thức tỉnh dậy. Những người đã mất đi người thân ngồi kêu gào thảm thiết, những người có thân nhân li tán thì tìm kiếm người nhà trong đám người đang hoặc đứng hoặc nằm, vừa đi vừa khóc, còn có rất nhiều dân chúng bị thương đang rên rỉ đau đớn không ngừng.
Đám Tống quân phòng thủ may mắn sống sót thì đứng thành những tốp ở bên ngoài, họ âm thầm băng những vết thương cho chiến hữu, bỏ mũ và áo giáp nặng nề xuống, cố gắng chống chọi cơ thể mệt mỏi đi tìm những cây củi cỏ dại để nhóm lửa nấu cơm. Ngọn lửa hồng chiếu lên khuôn mặt họ, làm nó mờ nhạt đi. Họ là những chiến sĩ kiên cường mạnh mẽ hơn rất nhiều người bình thường, nhưng cũng không biết rằng ngày mai họ có thể chống chọi được với bao nhiêu tên địch, không biết họ có còn sống để trở về cố hương hay không. Kiềm chế, tất cả mọi nơi đều mang một không khí kiềm chế, nó làm cho người ta mệt mỏi, làm cho người ta cảm giác như không thể thở nổi. Dương Hạo bước những bước chân nặng trình trịnh vào giữa đám binh lính và dân chúng, thậm chí còn không dám nhìn họ nhiều, hắn cảm thấy mình chính là đao phủ. Nếu như không do chủ ý của hắn, thì những dân chúng này sẽ không vứt bỏ nhà cửa ruộng vườn để bây giờ trở thành như vậy, nếu như không do chủ ý của hắn thì đám binh sĩ này cũng sẽ không vô cớ mà bị chết oan ở đây.
Trong rừng cây, một cái trướng vải mới được dựng lên, Trình Đức Huyền ngồi trên đống cỏ êm ái, ngu ngốc run sợ nói: “Nguy hiểm thật, không ngờ người Khiết Đan lại cải trang thành Tống quân, may mà La Khắc Địch nhận ra sơ hở của chúng, nếu không thì…”
Nghĩ lại mũi tên hung ác của Lư Nhất Sinh, Trình Đức Huyền vẫn còn sợ, trên trán hắn còn để lại một vệt máu, đó là do ba mũi tên đã bắn sượt qua, bây giờ vẫn còn cảm thấy rất đau.
“Hiện giờ nên làm sao mới tốt đây, xem ra Dương Hạo đã nói không sai, người Khiết Đan quả nhiên là phái quân xuyên qua cảnh giới đuổi đến đây. Hai ngày này chúng ta đã vượt qua những ngọn núi, dựa vào lợi thế địa hình, mỗi lần đều có thể có hoặc không có huy hiểm, nhưng nếu cứ tiến về phía trước, hành quân thẳng đến Minh Cố, đó là một bình nguyên rộng lớn mênh mông bằng phẳng, nếu như bị người Khiết Đan đuổi đến thì liệu có còn may mắn sống sót như hôm nay không?”
“
Trình Đức Huyền trong lòng rối loạn, đang thầm tự nhủ, thì một người thị vệ đem một bát nước bước vào, kính cẩn nói: “Trình đại nhân, uống miếng nước trước đã, cơm một lát sẽ nấu xong.”
Trình Đức Huyền lúc này mới cảm thấy khát và đói bụng, hắn vội đứng lên, sửa sang một chút quần áo đầu tóc, rồi nhận bát nước. Người thân binh đó lại lặng lẽ lui ra. Trình Đức Huyền cảm thấy thái độ của người thân binh đó có chút lạnh nhạt, nhưng lại chỉ có thể cười một cách bất lực với hắn. Quan vị và quyền lực không phải lúc nào cũng có tác dụng, trong tình thế như bây giờ đối với một số sự phản đối không lời của một số binh sĩ, thì hắn chỉ có thể coi như không nhìn thấy.
Hắn nhấp một miếng nước ấm, đang suy nghĩ đến hành động của ngày mai thì nghe thấy mấy tiếng “Pang pang pang”, ngẩng đầu lên nhìn thấy Dương Hạo đang lạnh lùng đứng ở cửa trướng, mấy tiếng vừa nãy là hắn dùng đao đập vào cây cột ở cạnh đó.
Dương Hạo bước tiến vào trong trướng vải, tiến gần tới Trình Đức Huyền, nhìn thẳng vào mắt hắn nói: “Khâm sai đại nhân, khi rời khỏi Mã Nguyên, Hoàng Đế Bệ Hạ đã giao vào tay chúng ta 3500 dũng sĩ mạnh như hổ long, 5 vạn dân chúng. Bây giờ…Nhân mã của chúng ta không hơn nghìn người, số còn lại đa phần là bị thương, 5 vạn dân đã bị cướp mất 4000 người, rất nhiều người vợ con li tán, đang kêu khóc thảm thiết ở ngoài kia. Ty chức đến đây to gan xin thỉnh cầu, xin Khâm Sai đại nhân lấy tính mạng của dân chúng và tướng sĩ làm trọng, hãy nhìn vào tình cảnh trước mắt của chúng ta mà lập tức thay đổi lộ trình.”
Trình Đức Huyền sắc mặt lạnh lùng, quát lớn: “Dương Hạo, ngươi vẫn chưa từ bỏ ý định sao? Ta hỏi ngươi, nếu như bây giờ chúng ta thay đổi đường xuống phía Nam, chuyển sang hướng Đông thì ngươi có thể bảo đảm rằng người ngựa Khiết Đan sẽ không đuổi đến không?”
Dương Hạo trầm giọng nói: “Không thể, nhưng tình thế bây giờ đã quá rõ ràng, hành tung của chúng ta đã bị người Khiết Đan nắm được, nếu cứ đi theo hướng đông thì sẽ đến một bình nguyên rộng 300 dặm, đó chính là một bãi săn phù hợp nhất để cho người Khiết Đan giết người. Ngài nói xem chúng ta nên chọn thế nào?”
Trình Đức Huyền là Chính Sứ Khâm Sai, đồng thời hắn còn là người của Nam Nha Triệu Quang Nghĩa, không nể mặt thì cũng phải nể mũi. Nếu như không phải là bắt buộc thì Dương Hạo hoàn toàn không muốn xảy ra xung đột với hắn. Nhưng nhìn thấy quyết định của Trình Đức Huyền sẽ quyết định tất cả mạng sống của mấy vạn dân, mấy nghìn vạn quân đã hi sinh vô ích, thì Dương Hạo không thể ngồi nhìn.
Đi đến bước này, nếu như cứ tiếp tục đi tiếp thì họ sẽ không thể đưa dân chúgn an toàn trở về đất Tống, đến bước này rồi thì người Khiết Đan cũng không còn dư sức đưa dân chúng trở lại Bắc Hán, nhưng họ vẫn phái quân đuổi theo ngăn lại, chứng tỏ chúng có ý đồ khác. Thà rằng giết sạch 5 vạn dân cũng không để Đại Tống đưa họ đi. Sự hung hãn tàn bạo của người Khiết Đan sớm đã vang danh khắp thiên hạ, chúng không sợ lại phải nhuốm thêm máu tanh. Nhưng nếu như 5 vạn dân này bị chết thì Hoàng Đế Đại Tống tất sẽ bị chửi rủa sau lưng, lẽ nào Trình Đức Huyền không nhận ra được điều đó?
Trình Đức Huyền mặt biến sắc, nghiêm giọng nói: “Thật là truyện cười, chúng ta bây giờ cách Minh Cố còn bao xa? Đã không đến 300 dặm nữa, chúng ta đem theo 5 vạn dân, vắt cạn sức lực, hi sinh biết bao tính mạng binh sĩ mới đến được đây, giờ ngươi lại bảo bản quan quay đầu nam hạ, lại đi về phía Nam, vượt qua núi cao, dãy núi rộng, mấy vạn dân chúng căn bản không thể leo núi được, đến lúc đó ta chỉ có thể quay đầu về hướng tây mà đi thôi. Người ngựa của ta đã không còn nữa, tất cả lương thực cũng không còn, nếu quay đầu lại thì chúng ta sẽ có bao nhiêu người sống được đây?”
Dương Hạo buồn bã nhìn hắn, lắc đầu: “Ta không biết, ta chỉ biết hôm nay tới bước đường này đều là do Trình đại nhân ngươi cố chấp tạo thành, ngươi còn dám hỏi ta sao? Ta biết bây giờ quay đầu xuống phía nam rồi chuyển về hướng tây đã mất đi thời cơ tốt nhất, 5 vạn dân của chúng ta rất có thể ngay cả nửa cơ hội sống cũng không có. Nhưng…tiếp tục đi về hướng đông thì chết là chắc chắn, quay đầu nam hạ thì sẽ có chút cơ hội sống. Chúng ta còn có lựa chọn khác sao?”
Bên ngoài trướng, không biết từ lúc nào những thương binh, đô đầu, ngu hầu, chỉ huy đã lặng lẽ quây tụ lại, tạo thành một đám đen lớn, tất cả mọi người không ai nói gì, chỉ nín thở ngồi nghe hai vị Khâm Sai đại nhân đang đấu khẩu.
Trong trướng, khuôn mặt Trình Đức Huyền đỏ lên. Vô cùng phẫn nộ nói: “Ngươi một điều không thể, hai điều không biết, lẽ nào ngươi muốn bản quan đem tính mạng của tướng sĩ và dân chúng đi mạo hiểm sao? Nam hạ, hướng tây. Ngươi thì chỉ biết nam hạ rồi đi theo hướng tây thôi, vậy ngươi có biết bây giờ chúng ta đã cách đất Tống rất gần không? Đi theo hướng đông, cứ đi theo hướng đông 200 dặm nữa thì chúng ta đã an toàn rồi. Lúc này mà quay đầu nam hạ? Ngu xuẩn! Có đồ ngu xuẩn mới làm thế! Dương Hạo, ngươi đừng cho rằng bản quan không biết ngươi có ý đồ gì. Ngươi là người của Trình Thế Hùng, là môn hạ của Chiết Thị, tây bắc tây nam đất rộng người thưa, muốn dựa vào lợi thế đó để nuốt mất 5 vạn dân. Ngươi một mực muốn dẫn họ đi theo hướng tây chính là thụ ý của Trình Thế Hùng, phải không? Ngươi. Rõ ràng là người của Chiết gia.
Dương Hạo cũng tức giận, mặt đỏ lên gân giọng quát lớn: “Lão tử là ai không quan trọng, điều quan trọng trước mắt chính là 5 vạn dân mà chúng ta vừa đấm vừa xoa kéo họ tới đây, chúng ta đã hứa rằng sẽ cho họ một cuộc sống tốt hơn Bắc Hán, chứ không phải là để chúng ta dẫn họ đi tìm đường chết. 3500 binh ăn cơm nhà binh thì làm việc binh, hi sinh tính mạng là lẽ đương nhiên, nhưng chết cũng phải chết cho đáng, bên ngoài kia còn 1000 binh, có cấm quân, có biên quân, ta không quan tâm là họ ăn cơm Triệu gia hay ăn cơm Chiết gia, ta chỉ biết chúng ta đã từng sóng vai tác chiến, chúng ta từng liên thủ giết địch, chúng ta là đồng đội, chúng ta là huynh đệ, có đường sống thì quyết không để huynh đệ đi vào đường chết.”
Bên ngoài trướng, những binh sĩ cho dù là bị chặt mất tay chân, chị bắn vào ngực cũng không rơi lệ, thì lúc này lại có rất nhiều người lặng lẽ ngẩng đầu lên lau nước mắt
“Hỗn xược, to gan!” Trong trướng Trình Đức Huyền vừa giận vừa thẹn, vội vàng quát: “Ngươi không cần phải yêu ngôn mê hoặc mọi người. Ta là Khâm Sai, ý của ta chính là ý của quan gia. Kháng mệnh Khâm Sai là kháng lại thánh dụ, là đại nghịch bất đạo, là tội tru di cửu tộc! Là…”
Dương Hạo giận giữ, những gì kiêng nể đều vứt hết lên chín tầng mây. Hắn đầu quân tây bắc vốn là muốn làm một chức quan nào đó, để báo ân oán Bá Châu, nhưng nhiều ngày như vậy, tận mắt nhìn thấy tướng sĩ chiến đấu đẫm máu, vai hắn bất giác cảm thấy nhiều hơn một phần trách nhiệm, hắn không thể có lỗi với sự hi sinh của nhiều chiến hữu như vậy, không để họ phải chết một cách vô nghĩa như thế.
Dương Hạo huyết khí trào dâng, hắn hét lớn: “Ngươi bớt lấy thánh chỉ ra ép ta đi, khi tình hình bất lợi thì chọn con đường thứ hai là nam chuyển sang tây, qua Hoàng Hà, rồi đi men theo An Phủ, lấy an nguy của dân chúng làm trọng, đây chính là lời quan gia chính miệng nói ra, Dương Hạo ta sẽ không đi theo con đường của ngươi đâu!”
“Bản quan là Chính Phó Khâm Sai, há lại dung thứ cho những lời xằng bậy của ngươi? Cho dù bản quan có đưa ngươi xuống địa ngục thì ngươi cũng phải không do dự mà đi theo ta.”
“Ta không xuống địa ngục, ai thích thì cứ xuống.”
“Ngươi láo xược!”
“Ngươi thật to gan!”
“Ha, cứ để ngươi nói đấy, đồ đáng chết, xem ngươi làm gì nào. Dương mỗ ta chẳng tiếc tấm thân này, Hoàng Đế ta còn dám kéo xuống ngựa, lẽ nào lại còn sợ một loại Khâm Sai như ngươi sao?”
“Ngươi….”
“Đạo bất động bất tương vi mưu, từ bây giờ ngươi và ta sẽ phân ra hai đường, ai đi đường người nấy!” Dương Hạo nói xong thì quay ra khỏi trướng, Trình Đức Huyền tức giận há mồm cứng lưỡi.
Đến khi ra bên ngoài, Dương Hạo mới phát hiện ra có một đám người lớn đang ngồi đen một mảng, đều yên lặng không một tiếng động quanh trướng. Dương Hạo đứng lại, có một chút hổ thẹn nhìn họ; binh sĩ, quân hiệu, đô đầu, ngu hầu, chỉ huy…, tất cả binh sĩ đều nhìn hắn, những binh sĩ này không hẹn trước mà cùng giơ hai tay lên, chắp cánh tay nặng trình trịch về phía hắn.
Dương Hạo ngẩn ra, mắt hắn nhoà đi, hắn mở miệng ra lại không nói câu gì. Hắn từ từ chắp hai tay lại, tay trái như mặt trăng, tay phải như mặt trời, hai đầu tay chắp vào nhau hướng về phía binh lính.
Đầy vẻ quang minh lỗi lạc, đầy nhiệt huyết.
Trong trướng, Trình Đức Huyền chán nản ngồi đó, hắn không phải là không hiểu những gì Dương Hạo lo lắng, nhưng hắn chỉ có thể ôm ý chí như của con bạc, tiếp tục kiên trì hướng đi của mình.
Lúc này nếu đồng ý với ý kiến của Dương Hạo, dẫn mấy vạn dân quay đầu nam hạ chẳng khác nào chứng minh những gì hắn luôn kiên trì làm là sai lầm, như vậy tất cả sẽ vứt hết, đến khi luận công lao thì hắn một tấc cũng không có, rồi đám Giám Sát Ngự Sử lại hùa nhau vào viết tấu chương vạch tội hắn.
Khi đó hắn sẽ phải chịu trách nhiệm với cái chết của hơn hai nghìn tướng sĩ, với cái chết của bốn nghìn dân chúng rơi vào tay giặc, hắn phải chịu trách nhiệm vì đã đưa mọi người vào con đường chết…hắn sẽ phải chịu trách nhiệm nặng như vậy sao?
Nhưng nếu như trên con đường chỉ còn hơn 200 dặm, trên bình nguyên rộng lớn mênh mông mà không xuất hiện một người Khiết Đan nào thì hắn sẽ dễ dàng đưa thành công đám dân chúng vào đất Tống, lúc đó hắn sẽ là Khâm Sai đầu tiên di dân được dân chúng Bắc Hán, công lao của hắn rất vĩ đại, tiền đồ to lớn sẽ có được dễ như trở bàn tay. Thậm chí trong sử sách cũng sẽ lưu lại tên hắn. Điều này…còn không đáng để làm sao?
Mặc dù thất bại, chỉ cần hắn quyết không thay đổi con đường khác, thì rất lâu sau cũng sẽ không có ai có thể chứng minh rằng con được thứ hai nhất định là con đường có thể đi tốt hơn. Như vậy cho dù hắn có chết trên con đường về đất Tống thì hắn vẫn có thể giữ lại được cái danh quyên thân cho đất nước. Vì thế hắn không được chọn. Bất kể là còn đường hắn đang đi có sai, nhưng bây giờ hắn chỉ có thể đi tiếp mà thôi, đem tất cả mọi người theo hắn lên đường, đã sai rồi thì chỉ có thể sai đến cùng, hắn không có cách nào quay đầu lại được.
Ý chí đã quyết, Trình Đức Huyền cắn răng chậm rãi ngẩng đầu lên, cây đuốc đang được cắm nghiêng trong trướng đang cháy hừng hực, ngọn lửa chiếu vào hai con ngươi có chút điên cuồng của hắn, mơ hồ ánh lên màu đỏ. “Tách tách” tiếng nhựa thông bị đốt kêu nhè nhẹ lên, trong tai Trình Đức Huyền như nghe thấy tiếng chém giết liên tục, tiếng thương đao đánh lên, khoé mắt hắn không khỏi nhăn lại.
Ở một bên góc rừng, có một cái trướng to khác, trong trướng cũng đang cháy một cây đuốc. Dưới đất còn đốt một đống lửa nhỏ, trên ngọn lửa dùng mấy cây gỗ thô làm một cái giá, rồi dùng một thanh sắt uốn cong một đầu treo lên làm cái móc.
La Khắc Địch khoanh chân ngồi cắt những cành cỏ dày để làm đệm nằm, hắn nhìn chăm chú vào Dương Hạo người đang ngồi đối diện mình.
La Khắc Địch đã bỏ áo giáp ra, hắn cởi trần, một miếng vải đã được băng trước ngực hắn. Xem ra vết thương rất nghiêm trọng, nhưng thần sắc của hắn thì khá tốt, hắn một tay cầm hũ đầy nước rót cho Dương Hạo, còn tay kia lại không chút cử động, đến khi bát nước đã đầy hắn mới lại treo hũ nước trở lại lên giá
Dương Hạo không đặt bát nước xuống đất, hai tay đặt lên đùi, trầm giọng nói: “La quân chủ. Ngươi xuất thân từ quân ngũ, nguy cơ trước mắt ngươi chắc hiểu rõ hơn ta. Trận chiến đẫm máu lần này người ngựa của chúng ta đã tổn thất hơn nửa, sức cùng lực kiệt, đã không thể tiếp tục chiến đấu, còn những dân chúng kia đã vứt đi một lượng lớn xe cộ, tổn hại rất nhiều lừa ngựa. Mặc dù nơi đây cách Minh Cố chỉ còn hơn 200 dặm, nhưng với tình hình của chúng ta bây giờ thì chưa đến được đó toàn quân đã bị tiêu diệt, tiếp tục tiến về phía trước chỉ còn một con đường chết. Chúng ta phải quyết định thật nhanh, lập tức thay đổi đường đi, nam hạ rồi chuyển sang tây, như vậy mới có khả năng cứu được mấy vạn tính mạng.”
La Khắc Địch hai tròng mắt buông xuống, nhìn vào bát nước bập bềnh, chậm rãi nói: “Dương đại nhân, chuyện này đại nhân nên bàn với Trình đại nhân mới phải.”
Dương Hạo trầm giọng nói: “Trình Đức Huyền vốn là người thông minh, nhưng càng là người thông minh, một khi đã đi vào ngõ cụt thì lại càng kiên trì theo ý nghĩ của mình, vô cùng ngang ngạch cố chấp…còn ngu xuẩn hơn cả heo. Hắn bây giờ vẫn kiên quyết đi theo hướng đông, hắn làm như vậy sẽ có rất nhiều người bị kéo xuống âm tào địa phủ. Ở đây ngươi là Thống Soái cao nhất trong quân, ta hi vọng ngươi có thể cùng ta ngăn cản hắn.”
La Khắc Địch cười cười, nhẹ nhàng lắc đầu: “Dương đại nhân, ngài ấy là Khâm Sai, ngài bảo mạt tướng phải ngăn cản như thế nào?”
“Tướng ở bên ngoài quân mệnh thì không phải nghe. Ta hi vọng tướng quân có thể phối hợp với ta quay đầu về hướng nam.”
La Khắc Địch thở dài, tỏ ra khó xử nói: “Dương đại nhân, tuy nói tướng ở ngoài quân mệnh thì không phải nghe, nhưng bây giờ Khâm Sứ của quan gia đang ở trong quân. Ngài ấy chính là đại diện cho quân mệnh. Nếu coi như không có thì chẳng phải là dối mình dối người sao. Khi mạt tướng thống lĩnh binh đã nhận được lệnh là tất cả nghe theo sự dặn dò của Trình đại nhân. Quân lệnh đã hạ xuống thì cho dù là núi đao biển lửa ta cũng chỉ có thể xông lên mà thôi. Cũng có nghĩa là quân lệnh cho dù có sai thì ta vẫn phải tuân theo.”
Dương Hạo rất thất vọng, cười gượng nói: “Thôi vậy, ngươi cố chấp như thế ta thấy… có lẽ là có chút hoang đường, nhưng ta biết chính vì sự cố chấp này mới nhận được rất sự kính nể của mọi người. Ta không làm khó ngươi nữa. La quân chủ, trên cả chặng đường may mà có ngươi mưu trí dũng mãnh, chúng ta mới có thể chống cự được đến ngày hôm nay. Dương mỗ bây giờ phải lui về, duy có một thỉnh cầu mong La quân chủ đáp ứng.”
“Dương đại nhân xin cứ nói.”
“Sáng ngày mai, ta sẽ đưa bộ quân nhân mã đi về phía nam. Nếu như dân chúng đồng ý đi theo thì xin La tướng quân đừng ngăn cản, họ bây giờ còn có thể sống, cũng công lao của tướng quân và rất nhiều tướng sĩ đã hi sinh máu tươi của bản thân và tính mạng để đổi lấy, ta tin rằng tướng quân cũng không muốn họ phải chết một cách oan uổng. Dương mỗ chỉ nói vậy thôi, xin cáo từ.”
Dương Hạo đứng dậy, chắp tay chào hắn rồi quay người bước đi.
La Khắc Địch khoanh chân ngồi một chỗ, lẳng lặng nhìn hắn. Dương Hạo vừa mới bước đến cửa thì La Khắc Địch đột nhiên nói: “Trận huyết chiến hôm nay, mạt tướng đã bị thương.”
Dương Hạo dừng lại, quay người, lông mày hơi nhíu lên, có chút kinh ngạc khi nghe thấy hắn nói điều này.
La Khắc Địch tiếp tục nói: “Vết thương của mạt tướng rất nặng, không chừng ngày mai sẽ hôn mê không thể tỉnh lại.”
“Sao cơ? Nghĩa là sao?” Ánh mắt Dương Hạo sáng lên.
Ánh mắt La Khắc Địch buông xuống, trầm giọng nói: “Một lát nữa mạt tướng sẽ hạ lệnh cho một đội quân, hiệu dụ cho tất cả các tướng sĩ: hành trình trở vệ Đại Tống cực kì nguy hiểm. Bản tướng quân không thể nắm trong tay toàn quân cùng một lúc, nên để cho Hách Long Thành tướng quân tạm thời thay chức bản tướng, nghe theo sự điều động của Hách Long Thành tướng quân.”
Chỉ Huy Hách Long Thành chính là người của Trình Thế Hùng, như vậy là nói…
Nghĩ tới đây, Dương Hạo vừa mừng vừa sợ, khi nhìn vị thiếu niên tướng quân này lại có cảm giác nghiêm nghị đến đáng kính, hắn vui vẻ nói: “Đa tạ La tướng quân.”
La Khắc Địch mỉm cười, nói: “Dương đại nhân bảo trọng.”