watch sexy videos at nza-vids!
doc truyen
Trang ChủTruyện
http://aff.mclick.mobi/ctxd/bigbang3g

Bá Chủ Tam Quốc

http://aff.mclick.mobi/swift-wifi/bigbang3g

Swift Wifi

http://aff.mclick.mobi/uc-in/bigbang3g

UC Browser

Chương 111: Binh lâm thành hạ

Sáng hôm sau mặt trời lên ba sáo, Dương Thu Trì và tiểu quận chúa thức dậy ra khỏi giường, rửa mặt xong xuôi, nha hoàn đến thưa nói lão phụ nhân thỉnh gặp.

Hai người nắm tay nhau đến phòng khách, chỉ thấy ở giữa có ba cái rương sắt lớn đẹp đẽ vô cùng, trên có khóa, có giấy niêm phong có ấn đỏ của Sở vương phủ.

Lão phụ nhân ngồi ở giữa nhà, cho hai người ngồi xuống, cười híp mắt bảo: "Phụ vương của Phượng nhi giao cho ta ba rương tài bảo hiện giờ đã đặt ở đây, ấn chương niêm phong còn chưa động, các ngươi đến kiểm tra đi."

Dương Thu Trì bước tới cúi đầu nhìn, quả nhiên hoàn chỉnh không thiếu gì, hơn nữa còn có biên hiệu, liền cười nói: "Đa tạ cữu mẫu! Cháu có thể mở ra xem được không?"

"Thứ của các ngươi hiện giờ giao cho các ngươi rồi, đương nhiên có thể xem!"

"Chìa khóa đâu?"

Lão phụ nhân lắc đầu: "Không có chìa khóa, không nhìn thấy sau? Lổ khóa đã bị đổ chì, muốn mở chỉ còn có cách bẻ gãy khóa."

Dương Thu Trì thán phục Sở vương đúng là lo lắng đến từng chút, giao tài bảo cho người ta bảo quản mà phí tận tâm tư đề phòng người ta. Hắn liền lấy một đơn đao, vận kình chém ba nhát, khiến ba cái khóa trên rương đứt ra, hé mở cái nắp rương sắt nặng nè nhìn vào trong, chỉ thấy đó là một rương châu báu, toàn là những thứ trang sức châu ngọc quý trọng. Dương Thu Trì kiếp trước là Trấn quốc công, kiến thức sâu rộng, cầm một vốc châu báu lên xem, biết là những bảo bối giá trị không nhỏ. Chỉ đáng tiếc là cả rương này toàn là châu báu, không có đĩnh vàng bạc nào!

Châu báu tuy quý, nhưng không thể trực tiếp dùng làm tiền tệ sử dụng. Muốn bán thì trong thời binh hoang mã loạn này bán cũng không được bao nhiêu tiền, hơn nữa ở chỗ xa xôi này e rằng không tìm được người mua. Cái hắn cần hiện giờ là vàng bạc, là vàng bạc có thể dùng làm tiền tệ!

Mở rương khác ra, thấy đều là các loại vật dụng quý giá. Rương thứ ba càng đặc biệt, toàn là lụa là gấm vóc, rất nhiều thứ hắn chưa hề thấy, e rằng đó là cống phẩm của phiên quốc.

Dương Thu Trì vô cùng thất vọng, ba rương châu báu dụng cụ lụa là gấm vóc này quả nhiên đều là bảo bối, tổng giá trị liên thành, nhưng mà hắn có thể bán ở đâu để đổi ra vàng bạc bây giờ?

Dương Thu Trì cười cầu tài nói với lão phụ nhân: "Cữu mẫu, cái này.... có thể tìm chỗ nào mua thích hợp không, cháu muốn bán một số bảo bối này, đổi lại thành vàng bạc..."

"Cái gì?" Lão phụ nhân trừng mắt, "Những thứ tốt như thế này vì sao lại muốn bán? Không được! Các ngươi nếu thiếu tiền cữu mẫu cho là được, muốn bao nhiêu?"

Chính vào lúc đó, một người hầu dẫn hai hộ vệ vội chạy vào, trong đó có Phó Quan lưu lại Kiềm Dương huyện. Y cung thân thi lễ với Dương Thu Trì, rồi đưa một phong thư hỏa tốc cho hắn: "Dương gia, quân tình khẩn cấp!"

Dương Thu Trì rúng động, vội tiếp lấy xé ra xem, sắc mặt đại biến: 'Đây là thông báo của Lôi tri huyện, nói Trương tặc quân đã đánh hạ Trường Sa, Hồ Quảng tuần án Lưu Hi Tộ, Thiên Nguyên tuần phủ Lý Càn Đức, tổng binh Khổng Hi Quý hộ tống Phúc vương, Huệ vương lui về Hành châu ở với Quế vương. Trương tặc quân bám theo sau, đánh chiếm Hành Châu. Hồ Quảng tuần án Lưu Hi Tộ và Thiên Nguyên tuần phủ Lý Càn Đức mang đại quân giả vờ yểm hộ ba vị vương gia triệt lui về Vĩnh châu, còn tổng binh Khổng Hi Quý ngầm bảo hộ ba vị vương gia giả trang lui về An Khánh. Vĩnh Châu sau đó bị Trương tặc quân công hạ, Hồ Quảng tuần án Lưu Hi Tộ chiến tử. Trương tặc quân phát hiện ba vị vương gia thật tế chạy về An Khánh, đã từ Trường Sa phái binh đánh chiếm An Khánh. Ba vị vương gia lại được tổng binh Khổng Hi Quý dẫn binh bảo hộ triệt về Kiềm Dương huyện. Lôi tri huyện bảo ta thỉnh binh tặng viện."

Tiểu quận chúa hô lên một tiếng cả kinh, túm giữ chặt lấy cánh tay Dương Thu Trì, run bần bật.

Lão phụ nhân sắc mặt đại biến: "Hiền tế, như vầy... như vầy thì tính làm sao?"

Dương Thu Trì hỏi Phó quan mới biết khi họ rời khỏi thành, Trương tặc quân còn chưa đánh tới Kiềm Dương huyện, nhưng xem ra không còn xa nữa. Dương Thu Trì vội hỏi lão phụ nhân: "Trấn viễn phủ có bao nhiêu thủ binh có thể tăng viện?"

Lão phụ nhân lắc đầu đáp: "Không biết."

"Mau mang cháu đi gặp tri phủ!"

Lão phụ nhân mang Dương Thu Trì vội vã đến tri phủ nha môn. Dương Thu Trì tỏ rõ thân phận, trình báo quân tình khẩn cấp lên, tri phủ sợ đến ngây người, nói rằng tuy Trấn Viễn vệ có mấy trăm binh sĩ, nhưng thuộc quân đội vệ sở, cần phải có quân phù của binh bộ mới có thể điều động, ông ta cũng chẳng có biện pháp nào.

Dương Thu Trì vô cùng thất vọng, thầm nghĩ mấy trăm vệ sở binh chẳng có tác dụng gì, hắn chợt nghĩ đến binh lính của Đồng trại, và nhị đương gia Vũ Kỳ của bọn thảo khấu cũng có nói qua, rằng Đồng trại có thể dễ dàng chinh triệu hơn vạn đồng binh. Đây là một chi sinh lực quân, hắn cần phải đến Đồng trại mượn binh ngay, rồi khẩn cấp chi viện cho Kiềm Dương, cứu ra Băng nhi cùng các thiết bị chế tạo vũ khí nữa. Còn về ba vị vương gia thì hắn không có trách nhiệm bảo hộ, cũng không có năng lực đó.

Dương Thu Trì vội trở về phủ của lão phụ nhân. Ba cái rương sắt đó đã được đưa lên 3 xe ngựa. Lão phụ nhân còn lấy thêm 3 nghìn lượng bạc cho Dương Thu Trì, dặn là không được bán tài bảo giá trị liên thành của Sở vương lưu lại, nếu thiếu tiền thì đi tìm bà ta.

Dương Thu Trì không khách khí gì thu lấy, hắn đang cần xây dựng quân đội, lúc này cần nhất là vàng bạc. Sau đó hắn dẫn theo tiểu quận chúa đi suốt ngày đêm đến Đồng trại.

Mấy ngày sau đến nơi. A Hạnh Ny vô cùng mừng rỡ ra đón đưa vào trong trại. Sau khi nói chuyện qua loa, biết được thổ ti Dát Các Ước cũng đã được triều đình ra chiếu chỉ dẫn 5000 Đồng binh đến Thần Long quan hiệp đồng với quân đội của các thổ ti khác cùng đề ngự quân của Trương Hiến Trung đang đánh tới.

Dương Thu Trì vội kể quân tình của Kiềm Dương huyện. A Hạnh Ny cảm thấy tình hình nghiêm trọng, lập tức triệu tập tộc trưởng các trại thương nghị, nói nếu như Kiềm Dương thất thủ, thì sẽ trực tiếp uy hiếp sự an toàn của Đông trại. Sau khi thương nghị, họ nhất trí đồng ý điều khẩn cấp 5000 Đồng binh từ các thôn động tăng viện cho Kiềm Dương.

Đồng trại của Dát Cát Ước ngoài 1000 Đồng binh chính quy ra, còn có quân dự bị là nam tử từ 18 đến 60, lúc vào mùa thì làm nông, khi nông nhàn thì tập trung huấn luyện, vũ khí đều tự bảo quản. Thời bình họ là dân, thời chiến họ là binh. Cho nên, sau khi lệnh chinh triệu phát ra, chỉ cần nửa ngày là 5000 đồng binh vũ trang đã tập kết hoàn tất, cờ xí chói lòa, đội ngủ chỉnh tề.

A Hạnh Ny toàn thân nhung giáp, cưỡi một thớt ngựa trắng, trong tay cầm cây trường thương, dùng tiếng của người Đồng tiến hành động viên trước khi ra chiến trường. Dương Thu Trì nghe không hiểu, nhưng thấy Đồng binh vô cùng hứng khởi, nắm tay giơ cao, lòng hắn vô cùng khâm phục.

Dương Thu Trì quan sát thấy Đồng binh không những quân kỷ nghiêm minh, mà trang bị cũng không tệ, được trang bị hơn 200 cây súng toại phát loại mới, hỏa thằng thương cũng có tới 700 cây, hỏa khí chiếm 1/5, tỷ lệ khá cao. Ngoài ra, họ còn dùng lừa ngựa kéo hơn 10 đại pháo, mấy trăm viên đạn sắt đặc ruột và đạn khai hoa (đán bắn văng ra bi sắt, mảnh vụn).

Đội ngủ tập hợp xong, lập tức xuất phát. A Hạnh Ny tự thân dẫn quân theo Dương Thu Trì tăng viện cho Kiềm Dương.

Kiềm Dương cách Đồng trại lộ trình nửa ngày. Khi ngang qua núi Tuyết Phong, nhị đại vương Vũ Kỳ nghe tin báo Dương Thu Trì sắp hành quân qua, liền ở cửa núi bày tiệc rượu nghênh đón.

Dương Thu Trì uống liền ba bát lớn, lần nữa yêu cầu Vũ Kỳ nhập bọn.

Vũ Kỳ vốn cảm kích ân cứu mạng của Dương Thu Trì, hiện giờ thấy Dương Thu Trì đã mượn được Đồng binh, quả không phải kẻ tầm thường. Y biết Trương tặc quân đã đánh xong An Khánh, kéo tới Kiềm Dương, biết là tổ lật rồi làm gì còn trứng nữa, cần phải hợp lực mới có thể chống lại đại quân của Trương Hiến Trung. Do đó, y liền chọn hơn 100 người tinh nhuệ giỏi võ, thề chết trung thành và nghe theo sự chỉ huy của Dương Thu Trì.

Số người mà y chọn ra tuy ít, nhưng ai ai cũng có võ công, hơn nữa lại có mấy chục cây toại phát thương, không thể khinh thường. Hơn nữa, Đồng binh chẳng qua là quân mượn, không phải của riêng Dương Thu Trì. Hắn có hơn trăm người này theo cùng, coi như đã có một chi quân đội riêng, cho nên rất cao hứng.

Đêm đó, đại quân khi sắp tới Kiềm Dương huyện, nhóm tiền tiêu quay về báo, nói ngoại thành Kiềm Dương huyện đang kịch chiến, quân đội của Trương Hiến Trung đanh đánh rát huyện thành.

Dương Thu Trì cả kinh, ra lệnh khẩn cấp hành quân về huyện thành.

Khi sắp đến nơi, hắn cho đại quân chuẩn bị đuốc. Từ binh lính cầm hỏa súng, binh lính khác mỗi người cầm ba cây đuốc, chờ phía trước khai chiến thì lập tức đốt đuốc xông ra cửa núi, lớn tiếng hò hét chế tạo thanh thế sau đó tiến công. Dương Thu Trì và A Hạnh Ny cùng Vũ Kỳ mang theo một nghìn quân cầm súng dây lửa, súng kíp của Đồng binh và Sơn tặc đẩy hơn 10 cây đại pháo nhân trời tới vượt qua cửa núi mò về gần huyện thành.

Từ xa, họ đã nghe tiếng chém giếng vang trời, chen vào đó là tiếng pháo. Khi gần đến nơi, họ phát hiện quả nhiên là quân đội của Trương Hiến Trung, đang dùng thang dây tấn công huyện thành, số lượng xem ra đến hai vạn. Trên thành lâu có Minh quân đề kháng, có thể là bộ đội của tổng binh Khổng Hi Quý lui về thủ bảo vệ ba vương gia. Ngoài ra còn có một số dân chúng trong thành.

Không ít Trương tặc quân đã đánh lên thành lâu, nhưng không biết vì sao lại lập tức ngã xuống hết, tiếng gào thảm thiết không ngớt cất lên, tay đứt chân rụng chỗ nào cũng có.

Chú thích:

Người dân tộc Đồng thật ra là một chi của người Miêu (người Mèo), hiện nay sống tập trung ở vùng Quý Châu - Trung quốc.

Nhân tiện nói thêm, súng kíp của người mèo được cho là khá hiệu quả, với nòng súng dài. Có thể tác giả đã dựa vào chi tiết này để viết truyện. ND

Chương 112: Viện binh

Dương Thu Trì biết thành tường của Kiềm Dương huyện thấp bé, không có hộ thành hà, trong thành dường như không có quân đội. Từ Minh quân phòng thủ trên thành lâu, cho thấy nhân số không nhiều, chỉ e rằng thành phá trong khoảnh khắc. Hắn lòng nóng như lửa đốt, nhưng không hoảng loạn, khẽ lệnh cho một nghìn hỏa súng binh phân thành ba đồi sắp hàng trước sau, chờ tiếng pháo nổ ra thì chia nhau xông lên, tiến vào tầm bắn mới nổ súng, sau đó nhanh chóng lùi về sau nạp đan, đội thứ hai sẽ xông lên nổ sống rồi tới đội thứ ba, hình thành ba lớp tiến công.

Sau khi sắp xếp xong, Dương Thu Trì phát hiệu lệnh, mười mấy hỏa pháo đồng thời khai hỏa, tiếng động vang trời. Do thủ quân ở huyện thành đều phòng thủ bằng vũ khí lạnh (đao kiếm), rất ít hỏa súng, càng không có hỏa pháo, vì thế quân đội Trương Hiến Trung công thành đều xống cả lên trước, tập kế ở dưới thành tường không cao dùng thang mây đánh rát. Thấy đội hình địch quân tập trung dày đặc như vậy, Dương Thu Trì ra lệnh bắn đợt đầu đều là đạn thật tâm chặc ruột.

Loại pháo đạn này có hình tròn đặc ruột với rất nhiều mấu bên ngoài, vốn dùng để công phá công sự phòng thủ thành, nhưng nếu như đội hình địch quân dày đặc, bắn theo chiều ngang sẽ khiến cầu sắt bay ngang với tốc độ cao, có thể tạo thành một đường tác hại dài, so với bắn đạn khai hoa bung ra nhiều mảnh lợi hại hơn nhiều.

Chiêu này quả nhiên công hiệu, hơn mười quả cầu sắt to từ miệng pháo phún lửa bay đi, dọc đường rơi xuống lăn tròn, quân Trương Hiến Trung tức thời người ngã ngựa đổ, tiếng gào thảm vang lên khắp nơi, tử thương mấy trăm.

Tiếp đó, ba trăm hỏa súng thủ hò hét xông lên, tiến vào xạ trình xong nghe lệnh cùng phát xạ, khiến cho quân Trương Hiến Trung không kịp đề phòng ngã rạp thêm một loạt nữa. Chờ chúng phản ứng lại, thì đợt súng công kích thứ hai đã vang lên, lại ngã rạp thêm một loạt. Sự đột kích từ trong hắc ám này khiến đại quân của Trương Hiến Trung choáng váng, tử thương vô số.

Lúc này, sau đồi của địch quân của chúng chợt đốt lên vô số ngọn đuốc, tiếng hô giết vang trời địch quân xông tới từ khắp nơi.

Cùng lúc đó, đợt súng thứ ba lại vang lên, rồi hơn mười đại pháo đã được cho đạn mới vào, đồng thời phát xạ, quân Trương Hiến Trung lớp chết lớp bị thương.

Tuy đại quân công thành của Trương Hiến Trung nhiều gấp 4 lần Đồng quân tăng viện, nhưng trong hắc ám, đại quân của y căn bản không biết có bao nhiêu viện quân, chỉ thấy khắp đồi núi đều có đuốc. Nhất thời không phân biệt rằng thực ra mỗi địch nhân cầm tới ba cây. Chỉ từ số lượng đuốc mà xét, thì địch quân chẳng kém chúng bao nhiêu, hơn nữa hỏa lực mãnh liệt, trong hắc ám tình huống không rõ, không dám liều chống, cho nên chúng lập tức khua chiêng thu binh, hậu đội biến thành tiền đội, nhanh chóng triệt về sau mười dặm.

Dương Thu Trì thấy địch quân tuy lùi nhưng không loạn, tiến thối có chừng mực, không khỏi rúng động trong lòng, không hạ lệnh truy đuổi, ra lệnh hỏa súng binh, cung tiễn thủ và hỏa pháo yểm hộ ở ngoài, đại quân đến dưới thành, hắn lớn tiếng hô: "thủ quân trên thành, ta là điển sứ Dương Thu Trì của huyện nhà, đã thỉnh Đồng quân đến tăng viện, thỉnh mau mở cổng thành!..."

Lời vừa dứt, chợt nghe trên thành có một nữ tử vui mừng reo: "Thu Trì! Là đệ về thật rồi?" Nghe thanh âm chính là Liễu nhược Băng.

Dương Thu Trì cũng mừng: "Liễu tỷ tỷ, là ta! Mau mở cổng thành!"

"Mau! Mau dọn bao cát, mở cửa thành cho họ tiến vào!" Liễu Nhược Băng vui mừng reo: "Thu Trì, giữ phi tác! Ta kéo đệ lên!" Tiếp đó, một sợi dây đen lăng không bay tới, Dương Thu Trì khẽ giơ tay chụp, giữ chặt lấy, tiếp đó như đằng vân giá vụ nhẹ bay lên thành lâu.

"Thu Trì!" Liễu Nhược Băng lời hơi run, chụp giữ cánh tay hắn, "Ta... ta còn cho kiếp này không còn gặp lại!"

Dương Thu Trì đưa mắt nhìn, thấy đầu tóc Liễu Nhược Băng tán loạn, bộ đồ trắng đã nhuộm máu biến thành hồng bảo, chỉ có mũi đoản kiếm cầm trên tay vẫn hàn quang lấp lánh. Trên tường thành đâu đâu cũng có thi thể địch quân nằm ngổn ngang, hắn tức thời minh bạch, vừa rồi bên dưới thấy địch quân đánh lên thành lâu, tiếp đó gào thảm rơi xuống dưới hết, tàn chi đoạn tí bay khắp nơi, thì ra là tác phẩm của Liễu Nhược Băng thủ ở trên mặt thành.

Hai ngày trước, hai vạn quân tiền phong của Trương Hiến Trung đánh tới, huyện thành Kiềm Dương tường thấp bé, không có hộ thành hà, trong khi Hồ Quảng Tổng binh Khổng Hi Quý chỉ mang theo hai ba nghìn quân bảo vệ ba vị vương gia. Cổng thành sau khi bị đại pháo của địch bắn nát, họ liền dùng bao cát ngăn chặn hết các cổng thành, toàn bộ Minh quân lên thành liều chết đề kháng, vẫn không ngăn được quân đội dũng mãnh của Trương Hiến Trung. Rất may là có Liễu Nhược Băng bằng một mũi đoản kiếm của mình đã xông lên thành lâu trảm sát vô số địch quân.

Có một số sĩ binh đã tham gia trận chiến ở Phượng Dương từ mười năm trước nhận ra vị bạch y nữ hiệp ngày đó, và chính nàng cũng là người cứu được vô số bá tánh, suýt giết được Trương Hiến Trung. Lời này truyền ra, toàn dân trong thành vốn đang nhân tâm kinh hoàng, nghe được tin tức liền đại chấn tinh thần. Có nhân vật truyền kỳ này làm chỗ dựa tinh thần, bá tánh toàn thành nhiệt huyết phi đằng, thanh niên trai trang đều lên thành giúp giết địch. Già cả phụ nữ trẻ em thì giúp mang đạn dược, nấu đưa cơm nước, cứu trị thương binh. Minh quân binh sĩ cũng anh dũng hơn, cố theo Liễu Nhược Băng liều chết giết địch, cực khổ chống chịu suốt hai ngày. Hai vạn đại quân của Trương Hiến Trung nhờ thế mà vẫn chưa đánh chiếm được huyện thành nho nhỏ chỉ có ba nghìn thủ quân thế này!

Dương Thu Trì thấy nàng mệt mỏi cùng cực, nhớ lại nàng thân trúng kịch độc, rằng ba bốn tháng không thể động võ, không biết lần này chém giết đại như vậy có dẫn phát kịch độc tiềm phục trong nội thể hay không, liền lo lắng hỏi: "Liễu tỷ tỷ, độc trong nội thể của tỷ..."

Liễu Nhược Băng đang mừng đến đỏ cả hai mắt, nghe vậy lắc đầu nói: "Không thành vấn đề, rất may khi trước đệ cứ giúp ta khu độc, cho nên tiến triển thần tốc, vừa khéo mấy ngày trước đã giải trừ sạch, nếu không e rằng đã không được gặp đệ rồi..."

Thì ra, từ khi Liễu Nhược Băng trúng độc đến giờ đã ba tháng rồi, vốn là còn có một ít độc chất còn chưa trừ hết, nhưng do mỗi ngày Dương Thu Trì đều vận công giúp nàng khu độc, tuy công lực của hắn quá kém, nhưng một là sự trợ giúp từ ngoại lực là trọng yếu, hai là công pháp hai người xuất phát cùng nguồn gốc, nên vừa khéo hòa hợp, hiệu quả nâng cao bất ngờ.

Dương Thu Trì tâm tình kích động, vòng tay ôm eo nàng, dịu giọng nói: "Xin lỗi tỷ tỷ, Thu Trì không chiếu cố tỷ tốt."

Liễu Nhược Băng toàn thân máu đỏ, hiện vẻ ngượng ngập, khẽ tránh thoát vòng tay ôm của hắn. Nàng cố sức giết địch suốt hai ngày không chợp mắt, giết địch vô số, đã đến lúc sức cùng lực kiệt, lúc này chỉ bằng chút tín niệm mà chống chọi. Bất tri bất giác, cả lòng nàng cứ nghĩ đến Dương Thu Trì - vị tiểu sư đệ dùng môi bón thuốc cho nàng, nói những lời cực kỳ lạ, rồi đòi chết cùng với nàng.

Liễu Nhược Băng tuy mãi không nhớ không biết Dương Thu Trì là ai, nhưng từ khi gặp hắn cứ cảm thấy thân thiết, dường như hai người đã nhận thức mấy trăm năm rồi vậy. Hơn nữa, hai ngày liều mạng đánh giết này, nàng nhất mực tin rằng Dương Thu Trì sẽ dẫn viện binh trở về. Hiện giờ cuối cùng đã về đến, tâm tình kích động, nàng đã nói ra lời thực sự của lòng. Giờ DƯơng Thu Trì ôm eo nàng, bên cạnh có không ít Minh quân, dù sao nàng cũng là nữ tử mặt mỏng, e thẹn vô cùng, mang vẻ trách móc hiện lên mắt, khẽ bảo: 'Coi đệ kìa! Có ngươi mà!"

Dương Thu Trì thì sướng rơn trong lòng, kéo tay nàng nhất thời không nói ra lời.

Lúc này, các bao cát ở cửa thành đã bị dời ra. Đồng quân lục tục tiến vào thành, sau đó dùng bao cát chèn lấp cửa thành lại.

Dương Thu Trì cho hộ vệ đưa tiểu quận chúa và ba rương kim ngân châu báu đến nội nha điển sứ của mình, để A Hạnh Ny và Vũ Kỳ mang Đồng binh lên thành lâu bố phòng. Hắn giới thiệu hai người họ cho Liễu Nhược Băng, hai người đều làm lễ ra mắt.

Liễu Nhược Băng thấy A Hạnh Ny mắt sáng răng trắng, da như tuyết, liền nhìn kỹ so sánh nàng và Dương Thu Trì. A Hạnh Ny thấy Liễu Nhược Băng dáng vẻ như thiên tiên, liều mạng huyết chiến lại khiến nàng bội phục hơn. Biết nàng là sư tỷ thân mật của Dương Thu Trì, liền có ý lấy lòng, hai người nhanh chóng quen thuộc hòa hợp nhau.

Dương Thu TRì biết đại quân Trương Hiến Trung trước đó không rõ tình huống mới thối lui, một khi biết quân đội tăng viện không nhiều, hoặc là viện binh của chúng kéo đến, nhất định sẽ tổng tiến công.

Lúc này, bộ đầu Ngụy Trì và thiết tượng lão Hắc đầu cũng toàn thân đầy máu đến làm lễ ra mắt Dương Thu Trì.

Thì ra, trước khi địch quân đến, rất may là Dương Thu Trì để lão hắc đầu chế tạo mỗi thứ hỏa khí một cây, vừa khéo dùng được luôn. Những hỏa khí này dùng trong phòng thủ tạo ra tác dụng không nhỏ.

Dương Thu Trì hỏi cầu đầu tiên là về sự an nguy của tiểu nha hoàn Quách Tuyết Liên, biết nàng đang cũng các phụ nữ trong thành lo liệu cơm nước, chăm sóc thương binh, lòng cảm thấy an ủi. Cô bé này không có võ công, không thể trực tiếp tham chiến, nhưng có thể tổ chức hậu phương, xem ra cống hiến không nhỏ.

Tiếp đó, hắn lại hỏi chỗ trú ngụ của vương gia, biết Lôi tri huyện đang cùng ba vị vương gia ở trong huyện nha, tổng binh Khổng Hi Quý mang thân binh bảo hộ. Dương Thu Trì mím môi, thầm nghĩ không chịu thủ thành lâu, một khi thành phá thì huyện nha cái khỉ gì. Xem ra vị tổng binh Khổng Hi Quý và ba vị vương gia, Lôi tri huyện đều là phường tham sống sợ chết.

Hắn hiện giờ không rảnh để quản đến họ. Điều hắn lo nhất là làm sao sắp xếp phòng ngự ở thành lâu cho thật hiệu quả, sẵn sàng chờ đợt tấn công mới của địch quân.

Chương 113: Huyết chiến

Dương Thu Trì ra lệnh cho Đồng quân kéo hơn chục khẩu pháo lên bày ở thành lâu chánh diện, dùng để oanh kích từ xa địch quân kéo đến. Hỏa thương đội và cung tiễn thủ làm hậu bị, một khi địch nhân bức gần thành, thì sẽ tiến hành công kích theo đợt. Còn Đồng quân dùng vũ khí lạnh thì nghênh đón địch quân đã đánh lên trên thành.

Tuy đã bố trí đâu vào đó, nhưng Dương Thu Trì biết, quân của Trương Hiến Trung đều là những sư đoàn thân kinh bách chiến, hơn nữa nhân số vượt hơn bên hắn. Thành tường của Kiềm Dương huyện quá thấp quá cũ, địch quân lại chẳng rút đi xa bao nhiêu, hiển nhiên là muốn ngày mai chờ quan sát rõ sẽ cường công. Muốn chống ngăn địch quân, điều cần nhất bây giờ phải nhanh chóng chế tạo vũ khí hiện đại hóa.

Lần trước Mã Lăng Vũ đã mang bản đồ thiết kế súng bộ binh bán tự động 56 và súng xung phong về cho lão hắc đầu chế tạo, nhưng không có đạn, hơn nữa hai loại vũ khí này thợ rèn cổ đại chế tạo ra có hiệu quả thế nào còn chưa kinh qua kiểm nghiệm. Tình húống hiện tại vô cùng khẩn cấp, không kịp kiểm tra, cũng không kịp chế tạo vỏ đạn. Để ứng phó với đại chiến ngay sáng ngày mai, biên pháp hữu hiệu nhất hiện giờ là lội dụng pháo cổ hiện tại, phối ra thuốc súng tặng cao uy lực nổ của pháo đạn, cấp cho địch quân cú phủ đầu cực mạnh, khiến cho chúng sinh lòng sợ sệt, tạm thời không dám tiến công, từ đó có thêm thời gian để chế tạo vũ khí mới.

Thuốc nổ ở Minh triều chỉ có một loại, đó là thuốc nổ đen. Đó chính là hỏa dược được nhồi vào pháo ngày nay, nghiêm cách mà nói thì đó không phải là thuốc nổ, nhân vị uy lực nổ quá nhỏ. Loại đạn pháo nhồi thuốc súng đen này cho dù có nổ giữa đội hình xung phong dày đặc, cũng chỉ tạo thành sát thương cho những kẻ ở gần hai mét, hiệu quả hạn chế vô cùng. Do đó, Dương Thu Trì quyết định thay hỏa dược trong đạn pháo nổ đó thành loại thuốc nổ chân chính.

Để bắn đạn pháo cần có hỏa pháp. Dương Thu Trì lựa chọn Phất Lãng Cơ hỏa pháp. Loại pháo này có đạn đã nhồi thuốc sẵn dễ dàng nạp vào, cho nên trước hết chỉ cần thay thuốc nổ trong đạn, bắn xong có thể nạp cái khác, nâng cao tốc độ bắn hơn nhiều. Hắn trước khi đi đã bảo lão Hắc đầu chế tạo một cái Phất Lãng Cơ, từ thật chiến hai ngày nay, vị công tượng thối hưu này có tài nghệ không tệ. Hỏa pháo đã vượt qua khảo nghiệm, sử dụng tốt, không hư hỏng gì.

Dương Thu Trì kéo ông ta sang một bên, thành thật khen ngợi mấy câu, cho ông ta dẫn đồ đệ về tiệm sắt, tận hết khả năng chế tạo Phất Lãng cơ hỏa pháo. Chỉ cần huyện thành thủ được, thì con trai ông coi như giữ được mạng.

Lão hắc đầu mừng rỡ vô cùng, vội dẫn đồ đệ trở về tạo pháo.

Dương Thu Trì cho gọi thợ đá chế tạo đạn pháo hoa bằng đá tới, cho chế tạo đạn pháo, nhưng không được nhồi thuốc nổ, phải để ở nha môn để hắn nhồi. Trong thành có không ít thợ đá, trong quân Minh cũng có người xuất thân từ nghề này, mọi thứ đá trong thành đều được mang đến dùng để chế tạo pháo đạn đầu đá.

Sau khi bố trí xong, Dương Thu Trì dẫn hộ vệ Mã Lăng Vũ cùng mọi người về nha môn, ra lệnh đem các bán thành phẩm và nguyên liệu vận chuyển từ sơn động của Vô trần đạo trưởng ra mở niêm phong toàn bộ.

Quách Tuyết Liên đã được tin lão gia Dương Thu Trì đã về, vui mừng như điên chạy trở về, chẳng quản người khác ở bên cạnh, nhào vào lòng Dương Thu Trì òa khóc. Dương Thu Trì dịu dàng an ủi mấy câu, để nàng tiếp tục tổ chức công tác hậu cần.

Nhưng khi thấy Dương Thu Trì trở về rồi, Quách Tuyết Liên chẳng chịu rời xa, đòi lưu lại chiếu cố hắn. Dương Thu Trì không còn cách nào khác, chỉ đành chiều cho nàng, bắt đầu ra tay chế tạo quả lựu đạn đầu tiên sau khi xuyên việt đến thời cổ đại.

Dương Thu Trì là pháp y, khi học tập các vết thương do các vụ nổ hay súng đạn gây ra đều có nghiên cứu nhất định với các loại thuốc nổ và súng ống. Do đó, hắn cũng biết được công thức chế tạo thuốc nổ. Căn cứ đặc điểm hỏa khí của Minh triều và yêu cầu khẩn cấp về thời gia, hắn quyết định phối chế thuốc nổ đắng chứa axit picric đơn giản nhất (*). Loại thuốc nổ này có uy lực còn lớn hơn cả thuốc nổ TNT, chế tạo đơn giản hơn nhiều. Chỉ có điều tính axit của nó rất mạnh, sẽ ăn mòn ruột đạn bằng kim loại, cho nên pháo đạn có nhồi thuốc nổ đắng này có thời gian bảo tồn rất ngắn. Đồng thời, do nó phản ứng với kim loại tạo thành muối kim loại cùng các loại vật chất có độ bền thấp, chỉ cần gia nhiệt hoặc ma sát là có thể phát nổ. Vì thế, sau khi thuốc nổ TNT được chế ra, đã được dùng để thay thế ngay (Xem chú thích **).

Đối với Dương Thu TRì, nhưng vấn đề này không ảnh hưởng gì mấy, bỡi vì hắn dùng đạn bằng đá để bỏ vào thứ thuốc nổ axit này, không sợ bị ăn mòn, và cũng không cần bảo tồn nhiều thời gian. Vì thế, chỉ cần chú ý thao tác an toàn, sẽ không dẫn tới sự cố phát nổ.

Dương Thu Trì dặn dò xong các lưu ý cho sự an toàn, lại tiến hành cho thuốc nổ vào để làm mẫu trước, bảo Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ phụ trách kiểm tra cho sự an toàn. Sau đó, cho đội hộ vệ bắt đầu nhồi thuốc vào pháo đạn. Dương Thu Trì sau đó tiếp tục đóng cửa phòng một mình chế tạo thuốc nổ axit đắng.

Sau một phen bận rộn, nhất mực cho đến sớm mai, binh sĩ canh gác trên thành lâu chạy vào nha môn bẩm báo: 'Dương điển sứ, địch quân tiến công rồi!"

Dương Thu Trì cả kinh, chạy ra ngoài cửa xem, phát hiện đã nhồi được hơn trăm phát đạn pháo bằng đá, lòng nghĩ nếu sử dụng đúng cách, có thể ngăn chặn được một trận rồi. Hắn lập tức mệnh lệnh Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ cùng các hộ vệ đưa chúng vào rương gỗ khiêng đến thành lâu.

Tiểu nha hoàn Quách Tuyết Liên mấy ngày trước đã không chịu ở không, từ khi biết địch quân công phá An Khánh, bức đến Kiềm Dương, nàng liền tìm Ngụy Trì đến chỗ thiết tượng lão Hắc đầu chuyên môn làm một chiếc khải giáp nặng cho Dương Thu Trì. Tuy giáp trầm trọng, nhưng nàng đã thấy Dương Thu Trì ở Hoàng châu một mình vác ba cây gỗ, biết hắn thần lực kinh người, nên chiếc khải giáp này chú trọng lực phòng hộ, trọng lượng nặng hơn khải giáp thường nhiều. Lúc này, nàng đã gọi bọn nha dịch mang giáp ra, bức Dương Thu Trì mặc vào mới thôi.

Dương Thu Trì cũng không nói gì nhiều, vội mặc chiếc khải giáp nặng nề này lên người, đầu đón mũ sắt, dặn dò Quách Tuyết Liên làm tốt chuyện hậu cần, rồi dẫn Lưu Dũng cùng mọi người đến dưới thành lâu, liền nghe tiếng pháo tiếng hỏa súng và tiếng hét giết vang trời. Dương Thu Trì gấp gáp xông lên thành lâu, nhìn ra xa, thấy trong ánh bình minh, vô số binh sĩ địch quân đen xì xì hò hét xông tới trước!

Hơn mười đại pháo của Đồng quân đã tiến hành bắn một loạt. Chỉ có điều, phát xạ tuy là thiết đạn đặc ruột lúc trước, nhưng địch quân đã hình thành đội hình chiến thuật, khiến cho thật tâm thiết đạn bắn từ tước lăn ra sau không tạo thành tử thương nhiều lắm. Địch quân vẫn xông lên trước ào ạt y như cũ, một loạt pháo bắn ra hầu như chẳng ảnh hưởng gì.

Dương Thu Trì hạ lệnh đổi ngay đạn đá đã dồn đầy thuốc nổ mới. Binh sĩ vẫn y như cũ từ miệng hỏa pháo điền đạn vào, chờ địch quân xông tới mấy trăm mét, Dương Thu Trì hạ lệnh, hơn mười hỏa pháo cùng bắn một lượt. Tiếng nổ vang trời, trong trận địa địch quân tấn công theo đội hình dày đặt chợt bốc lên mười mấy cái nấm đen, vô số chân cụt tay đứt cùng xương thịt bị hỏa pháp xé nát văng tứ tung. Mỗi chổ phát nổ, trong phạm vị hai ba chục mét xung quanh đều chẳng thấy bóng dáng địch quân!

Binh sĩ trên thành lâu đều cả kinh. Ai cũng chưa bao giờ nhìn thấy vụ nổ mãnh liệt như vậy, có thể nổ chết nhiều người như vậy! Chốc lát sau, trên thành vang lên tiếng hoan hô điên cuồng!

Chỉ có điều, bọn họ chẳng cao hứng được bao lâu, nhân vì sau lần bắn này, cho dù đã tạo thành thương vong cho mấy trăm binh sĩ xung phong của địch, nhưng không ai cho địch quân biết là bọn chúng đang đối diện với loại thuốc nổ loại mới. Tuy vụ nổ tạo thành thương vong nhiều hơn trước mấy lần, nhưng binh sĩ địch quân trong cơn tấn công biến thành như điên như khùng, căn bản chẳng kịp chú ý con số thương vong đó có biến hóa gì. Bọn họ mỗi khi vào chiến trường, thi hai con mắt đỏ ngầu, phát điên xông lên trước. Cho dù ở bên cạnh họ có quả đạn nguyên tử phát nổ, nếu như không tạo thành thương hại với họ, thì họ thậm chí cũng chẳng thèm chú ý, vẫn y như cũ như bầy trâu bị đốt lửa vào đuôi gầm đầu xông lên phía trước!

Do hỏa pháo của Đồng trại đều là thứ phổ thông lắp đạn pháo vào từ nòng, mỗi khi bắn xong rồi phải chờ ít nhất năm phút mới có thể điền vào đạn pháo mới. Và thời gian năm phút đó đã đủ địch quân xông qua cự li mấy trăm mét rồi.

Khi tiền phong của địch quân xông đến dưới thành, bắc thang mây bắt đầu công thành. Hỏa pháo của Đồng quân lần nữa vang lên, mười mấy đám mấy đen bốc cao, địch quân tập trung dày đặc người ngã ngựa đổ vô số. Nhưng mà, lúc này binh sĩ điên cuồng đã chẳng chú ý gì thương vong chung quanh, chỉ có một ý niệm - đó là liều chết đánh lên trên thành!

Khi họ tiến nhập vào tầm bắn của hỏa súng, khai hỏa!

Các hỏa súng thủ và cung tiễn thủ đã sớm chờ sẳn sau thành tường, một loạt súng vang lên, tên bay như mưa, nhưng lần công kích này không tạo thành bao nhiêu thương vong, nhân vì địch quân ở dưới thành đã sớm có sự chuẩn bị để đối phó chiến pháp này, họ đã đưa những thuẫn bài rắn chắc lên hình thành tường phòng hộ như cái mu rùa, hỏa súng và cung tên không thể tạo thành bao nhiêu thương vong. Trong khi đó, địch quân yểm hộ ở phía sau cũng giương cường nỏ và hỏa súng bắn lên. Một loạt súng nổ, đạn và tên bay lên không ngớt, không ít Minh quân và Đồng binh đang lăn gỗ đá xuống dưới gào thảm ngã vật xuống.

Cùng lúc đó, vô số thang dây đã bám vào thành, địch quân đã trèo lên tới nơi!

Chú thích:

(*) Thuốc nổ đắng (axit picric): Axit Picric (công thức phân tử: C6H3N3O7, công thức cấu tạo: C6H2(NO2)3OH) là một hợp chất hóa học thường được biết đến với cái tên 2,4,6-trinitrophenol. Nó có dạng tinh thể màu vàng và là một trong những hợp chất có tính axit mạnh nhất của phenol. Như các hợp chất chứa nhiều nitrat khác (TNT), axit picric là một chất nổ. Tên của axit picric bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp πικρος-có nghĩa là đắng, để diễn tả vị đắng của nó.

Axit picric được đề cập lần đầu tiên trong một bản viết tay về giả kim thuật của Jonann Rudolf Glauber năm 1742. Lúc đầu nó được tạo ra bằng cách nitrate hóa một số chất như sừng động vật, lụa, cây chàm và nhựa tự nhiên. Sự tổng hợp từ phenol và công thức phân tử chính xác của nó được hoàn thành vào năm 1841. Tới tận năm 1830 các nhà hóa học mới nghĩ tới việc sử dụng axit picric như một chất nổ. Trước đó họ cứ tưởng chỉ có muối của axit picric là chất nổ, không phải chính axit.

Vào năm 1873 Hermann Sprengel chứng minh nó có thể nổ được và năm 1894 những người công nhân Nga đã tìm ra phương pháp dùng nó để sản xuất đạn pháo. Ngay sau đó, phần lớn quân lực sử dụng axit picric như thuốc nổ mạnh chính. Tuy nhiên, đạn pháo nhồi axit picric trở nên rất không bền khi chất này ăn mòn vỏ bom tạo ra picrate kim loại, vốn kém bền hơn phenol nguyên mẫu. Vào thế kỷ 20 phần lớn việc sử dụng axit picric được thay thế bằng TNT. Axit picric vẫn còn được sử dụng trong việc phân tích hóa học của kim loại, mỏ và khoáng chất.

Vào năm 1885, dựa trên những nghiên cứu của Hermann Sprengel, nhà hóa học người Pháp Eugene Turpin đăng ký sáng chế sử dụng axit picric nén và đúc để chế tạo bộc phá vào đạn pháo. Năm 1887, chính phủ Pháp sử dụng nó với cái tên melinite với việc thêm vào thuốc súng bông. Từ 1888, nước Anh bắt đầu sản xuất một hỗn hợp tương tự ở Lydd, Kent với tên lyddite. Nhật Bản tiếp theo đó với một công thức cải tiến tên schimose. Vào 1889, một hợp chất tương tự nữa là hỗn hợp của amoni cresylate với trinitrocresol (hay một muối của amoni với trinitrocresol) được sản xuất dưới cái tên ecrasite.

Axit Picric có thể được tổng hợp bằng cách nitrate hóa phenol, benzene (trong phản ứng Wolfenstein-Boters), hay ngay cả axit acetylsalicylic (aspirin). Axit picric được biết tới như một thứ chất nổ rất dễ chế biến tại gia. Việc tổng hợp nó chỉ yêu cầu các hóa chất có thể mua được dễ dàng ở các cửa hàng hay nhà thuốc tây, mặc dù đã có rất nhiều người bị thương hoặc tử vong trong quá trình chế biến. Bên cạnh nguy cơ nổ, chất khí cực độc NO2 còn có thể được tạo thành trong quá trình chế biến.

Những phương pháp an toàn hiện nay khuyến cáo nên lưu trữ axit picric ẩm. Khi axit picric khan, nó khá nhạy với sốc và ma sát. Do đó các phòng thí nghiệm thường lưu trữ nó trong lọ dưới một lớp nước và khiến nó an toàn hơn. Một yêu cầu nữa là phải dùng lọ nhựa hoặc thủy tinh vì axit picric có thể tạo thành muối picrate với kim loại, vốn nhạy và nguy hiểm hơn chính axit. Trong một tai nạn năm 2007, một số nhân công dược ở Comlumbus, Wisconsin đã tìm thấy một chiếc lọ đựng hai ounce một loại chất lỏng, đáng lẽ phải được giải quyết bởi đội xử lý bom mìn.

Axit picric được ứng dụng nhiều nhất trong vũ khí và đạn dược, như đã được đề cập ở trên.

Trong thao tác với kính hiển vi, picric được sử dụng như một chất phản ứng để nhuộm mẫu vật, ví dụ như nhuộm Gram. Nó cũng có một số sử dụng trong hóa hữu cơ nhằm tạo thành muối kết tinh của bazơ hữu cơ (picrate) cho việc nhận dạng và xác định tính chất.

Bouin's picro-formol là một phương pháp bảo quản cho tiêu bản sinh học.

Kiểm tra ma túy còn sử dụng axit picric để phát hiện creatinine bằng phản ứng Jaffe. Nó tạo thành một hỗn hợp màu phức tạp có thể đo bằng quang phổ kế.

Ít thông dụng hơn, axit picric ẩm còn được dùng cho việc nhuộm da hay việc đóng dấu tạm thời. Nó phản ứng với protein của da tạo ra màu nâu tối và có thể tồn tại gần một tháng.

Đầu thế kỷ 20, axit picric được ngành dược phẩm sử dụng như chất diệt khuẩn và cách chữa cho phỏng, sốt rét, mụn giộp, đậu mùa.

(**) Thuốc nổ TNT: TNT là dạng thuốc nổ đơn, không khói, khác biệt với các loại thuốc nổ phức (Composition, C4 là một dạng thuốc nổ phức, tên đầy đủ là composition 4).

TNT là thuốc nổ cơ bản với đặc tính dễ chế tạo, giá thành rẻ, độ bền cao, không gây phản ứng với kim loại nên rất thích hợp cho việc nhồi vào đầu nổ bom, mìn, đạn pháo. Sức công phá của nó rất "cơ bản" so với các loại thuốc nổ mạnh khác. TNT được pha trộn với các thành phần khác với các tỷ lệ khác nhau để thành các loại thuốc nổ phức có sức công phá lớn hơn hoặc giá thành rẻ hơn như Tritonant là hỗn hợp TNT và bột nhôm, Amatol là hỗn hợp TNT và ammonium nitrate, Baratol là hỗn hợp TNT và barium nitrate.

Chương 114: Cầu hôn nơi chiến trận

Đích quân tấn công huyện thành rõ ràng là nhiều hơn tối qua, và cũng không biết đó là tăng binh để cường công, hay là đại quân đã kéo đến. Nhưng mà, đại pháo trên thành lâu không thể oanh kích địch quân dưới thành, binh sĩ Minh quân và bá tánh hợp đồng tác chiến trong thành bắt đầu đánh xáp lá cà, đội làn mưa tên lăn đá và gỗ xuống dưới.

Địch nhân dùng thang mây xông lên thành lâu đều bị Liễu Nhược Băng và Vũ Kỳ nghiêm trận chờ đợi dẫn theo các Tuyết phong sơn tặc trảm sát. Do đó, cho dù địch quân như bầy ong chen lấn ùa lên, nhưng có thể bước chân lên thành lâu thì chỉ còn là thi thể, thi thể và thi thể tầng tầng điệp điệp.

Dương Thu Trì thấy địch nhân bắc thang mây công lên ngày càng nhiều, tình huống nguy cấp, liền chụp lấy một thạch đạn, đưa dây dẫn vào đuốc cắm ở tường thành đốt cháy lên, dùng sức ném ra xa. "Oành" một tiếng, đạn pháo nổ khiến địch quân ở ngoài thành người ngã ngựa đỗ sát rạt. Bọn họ căn bản không ngờ chỉ không đầy mấy trượng mà lại bị đạn pháo nổ có uy lực cực lớn như vậy.

Dương Thu Trì mừng như điên, quay sang hô lớn với Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ, các hộ vệ, Vũ Kỳ và mọi người: "Đốt pháo đạn bằng đá, ném xuống cho nổ tan xác đám con rùa này!' Hắn lại cầm một tạc đạn lên, đốt dây dẫn hỏa bằng cây đuốc, dùng sức ném ra, oành một tiếng, quân địch xung quanh điểm nổ hai ba chục mét vuông đều bị nổ tan xương nát thịt!

Đây là sự sát thương trước đây chưa từng có! Trong dĩ vãng, nhưng đạn pháo nổ bung ra lợi hại nhất cũng chỉ tạo thành thương vong trong phạm vi một hai mét. Còn phạm vi sát thương lớn như thế này đơn giản là chưa từng nghe nói tới chứ kể gì đến chứng kiến!

Lưu Dũng hô to: "Quẳng thạch đạn, nổ cho banh xác đám rùa này!" Rồi đua nhau cầm thạch đạn đốt cháy rồi quẳng xuống dưới thành, khiến địch quân ngã rạp hàng loạt.

Vũ Kỳ hướng dẫn bọn sơn tặc học theo, cầm đạn pháo bằng đá đốt lên quăng xuống dưới thành. Tạc đạn nổ liên tục, chấn điếc cả tai, địch quân tiến sát tường thành tử thương vô số! Một số thang mây bắc lên thành cũng bị nổ tan, máu bắn tung tóe, chỗ nào cũng có!

Nhưng mà, sơn tặc quẳng tạc đạn chưa bao giờ cảm thụ được uy lực của tạc đạn. Vì diệt địch quân dưới thành, một bộ phân nhỏ tạc đạn đã bị quẳng sát tường thành, sau một loạt tiếng nổ, vài chỗ ở chân tường bị nổ sạt lỡ, tuy chôn sống không ít địch quân công thành, nhưng cũng khiến thủ quân trên thành bị té nhào xuống chết theo. Cũng may là tường thành cổ đại đều dùng thật tâm, bên trong là đất đá rất cứng, bên ngoài mới là tường thành bằng đá xanh, cho nên tường thành chỉ bị sạt lở một phần phía ngoài, về toàn bộ chưa sụp hẳn tạo ra khuyết khẩu.

Dương Thu Trì cả kinh, rống to: "Quẳng xa một chút! Con mẹ nó quẳng xa ra một chút, lực tay mạnh lên, nếu không thành tường sụp luôn bây giờ..."

Nhân lúc Dương Thu Trì quay đầu hô to, một tên địch trèo được lên thang mây nấp sau phần nhô lên trên tường thành thò một cường nổ bắn lén vào hắn một mũi lang nha tiễn. Trong lúc không kịp đề phòng, hắn bị mũi tim đó bắn trúng giữa ngực.

Cái nỏ cứng này lợi hại phi thường, lại bắn trong cự li gần, dễ dàng xuyên khải giáp nặng. Dương Thu Trì kêu lên một tiếng, ngã ngữa.

Cách đó không xa, Liễu Nhược Băng chứng kiến hết, hô lên cả kinh: "Thu Trì!" Rồi phóng ra một mũi liễu diệp phi tiêu, xuyên qua đầu của tên bắn lén đó, thi thể ngã lăn xuống thành.

Liễu Nhược Băng như một làn chớp lao đến cạnh Dương Thu Trì, run rẫy quỳ xuống ôm hắn vào lòng. Mũi lang nha tiễn đó đã xuyên trúng tim của Dương Thu Trì, xem ra không thể cứu chữa được nữa. Nàng không dám rút tên ra, chỉ sợ rút ra rồi, máu phún trào, hắn sẽ tuyệt khí ngay lập tức.

Lúc này, tiếng nổ lớn dưới thành lâu vang lên không ngớt, đó là do Vũ Kỳ soái lĩnh bọn sơn tặc có võ công và sức tay mạnh lại không sợ chết đem pháo đạn bằng đá dùng làm lựu đạn, đốt dây dẫn rồi quăng đi, khiến cho địch quân dưới thành bị nổ chết vô số. Thang dây cũng đua nhau bị nổ vỡ, ngã chết không ít địch quân công thành. Từng cuộn khói bay lên bao trùm cả thành tuờng, trong làn mưa máu, tay cụt chân đứt không ngừng bay lên thành lâu, hoặc văng tung phơi đầy mặt đất.

Chợt từ xa vang lên từng hồi đồng la khẩn cấp, đó là mệnh lệnh thu binh của địch quân. Quân đội của Trương Hiến Trung nghe được hiệu lệnh đó, bỏ lại trên thành lâu hàng nghìn thi thể, đỡ thương binh tàn tướng rút đi như thủy triều. Tiếp đó, đại bộ phận địch quân lui hai chục dập hạ trại.

Thì ra, địch quân điên cuồng tấn công không chú ý hỏa pháo và tạc đạn thủ thành, nhưng tướng lĩnh địch quân ở hậu phương quan sát rõ ràng mọi thứ. Bọn chúng nhìn thấy sau mỗi lần nổ, đều có thể khiến mấy chục tướng sĩ quanh điểm nổ xương cốt chẳng còn gì. Sau khi loạt hỏa pháo đầu cất lên, chỉ có hơn 10 cây, nhưng tướng sĩ tiến công đã tử thương mấy trăm. Đợi đến loạt pháo thứ hai, lại mấy trăm tương sĩ bị xé thành thịt vụn. Còn tướng sĩ đánh tới dưới thành đã bị tạc đạn nổ chết vô số. Thang dây cũng bị tổn thất hơn nửa, ngay thành tường cũng bị sụp. Pháo hỏa mảnh liệt như vậy có thể nói chưa từng thấy trước đây bao giờ, cho nên chúng đều mặt xám như tàu lá.

Tướng địch thấy không đầy thời gian một bữa cơm mà đã có hàng ngàn tướng sĩ trận vong trong pháo hỏa mãnh liệt như vậy, nếu tiếp tục đánh tới, e rằng toàn quân sẽ chết sạch dưới thành! Y hạ lệnh đánh chiêng thu quân, lùi 20 dặm hạ trại, thương nghị đối sách. Y không hề ngờ rằng, lúc này số tạc đạn do Dương Thu Trì chế tạo chẳng còn lại bao nhiêu, trong khí đó nhân vật trọng yếu nhất đã ngã xuống.

Dương Thu Trì cố gương dậy trong lòng Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, mau! Địch nhân lại kéo tới nữa rồi!"

Liễu Nhược Băng thấy Dương Thu Trì bị trúng tên chỗ yếu hại, tất phải chết, lòng đau như cắt, nhỏ lệ nói: "Đừng lo lắng! Thu Trì, địch nhân đã ... đã lui rồi."

A Hạnh Ny cùng mọi người biết Dương Thu Trì trúng tên, còn địch nhân đã lui, đều vây lại cả.

Thân hình Dương Thu Trì mềm nhũn ra, dường như đã thả lỏng. Một tay hắn nắm chặt mũi lang nha tiễn cắm trên ngực, miệng không ngừng hỏi: "Băng nhi..., ta phải chết rồi sao...?"

"Không! Không đâu mà! Ta quyết không để cho đệ chết đâu!" Liễu Nhược Băng khóc lóc thét gào, đơn chưởng đặt vào hậu tâm hắn, vận công truyền vào, nhưng trong lòng biết rõ, Dương Thu Trì trúng tên ở tim, không thể nào cứu vãn được, chỉ biết khóc lóc khẩn cầu: "Thu Trì, đệ đừng chết! Đừng rời xa ta a!"

Đến lúc sinh tử quan đầu, Liễu Nhược Băng mới biết ở bên nhau mấy tháng nay, người trẻ tuổi tình nguyện vì nàng mà chết này đã khắc ghi hình bóng sâu đậm trong lòng nàng. Chỉ có điều lúc thường loại cảm tình này đều bị nàng ra sức dồn nén, thậm chí ngay cả nàng cũng hiểu rõ nó là gì. Nhưng hiện giờ nhìn Dương Thu Trì mạng trong khoảnh khắc, thứ tình cảm đó như núi lửa, bùng phát ngùn ngụt.

Dương Thu Trì cười thảm: 'Như vầy... cũng tốt..., tuy không thể... cùng nàng bách niên hòa hảo..., nhưng có thể chết trong lòng.... nàng, ta... ta cũng mãn nguyện rồi..."

Liễu Nhược Băng lệ nhỏ tốc tốc như mưa rào, ôm chặt lấy hắn, chẳng biết nói thế nào.

Dương Thu Trì mềm oặt người, đã không xong đến nơi rồi, cố gượng hỏi: "Băng nhi, nàng...., nàng thật không... không quan tâm gì đến ta sao?"

Liễu Nhược Băng khẽ đưa tay vuốt ve mặt hắn, dịu giọng nói: "Ta... ta kỳ thật cũng... cũng rất ưa thích đệ..., ngày đó để liều mạng cứu ta, vì cứu ta, dùng... dùng miệng bón thuốc cho ta..., lại nói không để một mình ta lẻ loi chết đi, đòi tự sát cùng chết với ta, ta..., ta rất vui sướng tận đáy lòng. Lúc đó ta nghĩ, cả đời này của ta e rằng chẳng thể nào rời xa đệ được nữa..."

Khóe miệng Dương Thu Trì nở nụ cười an ủi: "Băng nhi! Vậy..., vậy nàng nguyện ý lấy ta không...?"

Nước mắt của Liễu Nhược Băng rơi trên gò má hắn, vội nghiêng qua một bên, hít hít mũi, rồi quay đầu lại, cố khiến cho bản thân không được khóc, nhìn sâu vào mắt hắn, từ từ và kiên định gật đầu: "Băng nhi... nguyện ý!"

Dương Thu Trì mừng rỡ: "Vậy... hôn ta... được không?"

Liễu Nhược Băng dường như đã quên hết mọi chuyện xung quanh, ôm chặt Dương Thu Trì, cúi người xuống, đối môi hồng ấn lên môi hắn, nhẹ nhàng trao nhau nụ hôn.

A Hạnh Ny ở sau lưng che miệng quay đầu đi, khóc không thành tiếng. Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ cùng các hộ vệ đều quỳ xuống đất, nước mắt đầy mặt. Vũ Kỳ và các sơn tặc đều thần sắc ảm đạm.

Dương Thu Trì tham lam hôn đôi môi mềm mịn của Liễu Nhược Băng, lát sau hai người mới phân ra, hắn hỏi: "Băng nhi, chúng ta... bái thiên địa được không?"

Liễu Nhược Băng lòng đau như cắt, hôn lên má hắn, cố cười: "Chàng chẳng phải nói... trai gái giang hồ chúng ta... chỉ cần nói là được sao? Từ nay về sau, Băng nhi... là thê tử của Thu Trì rồi!"

Dương Thu trì hỏi dồn: "Nàng..., nàng không phải vì ta sắp chết mới đáp ứng chứ?"

"Không phải! Hai ngày nay, thiếp mới biết chàng đối với thiếp trọng yếu thế nào! Thu Trì, cả đời cả kiếp này, thiếp quyết cùng chàng ở cùng một chỗ!"

"Không hối hận?"

"Tuyệt không hối hận!" Liễu Nhược Băng lệ rơi đầy mặt, kiên định đáp.

Chương 115: Tạ thiên tạ địa

"Quá tốt rồi...! Ta thật cao hứng!" Dương Thu Trì mặt đầy vẻ hạnh phúc: "Nhưng... ta vẫn muốn cùng nàng bái thiên địa ngay bây giờ! Dù sao thì hai chúng ta cùng là cô nhi, tự mình làm chủ được rồi, đúng không?"

Liễu Nhược Băng không nhẫn tâm để Dương Thu Trì ôm hận mà chết, nhỏ lệ gật gật đầu.

Dương Thu Trì mặc khải giáp nặng, lúc này lại trở nên vô cùng nặng nề, gượng hai ba lần mà không dậy nổi. Liễu Nhược Băng vội cẩn thận đỡ hắn quỳ dậy, bản thân nàng cũng quỳ, một tay giữ dưới nách hắn.

Dương Thu Trì quay sang nói với Lưu Dũng: "Lưu đại ca, làm phiền huynh giúp làm lễ và chứng hôn cho chúng tôi, được không?"

"Được a! Dương gia! Thuộc hạ có thể làm người làm chúng cho Dương gia và bạch y nữ hiệp... kết tóc trăm năm, quả thật.... vinh hạnh vô cùng!" Lưu Dũng đứng dậy, giọng nghẹn ngào nói lớn:

"Nhất bái thiên địa!"

Liễu Nhược Băng đỡ Dương Thu Trì cùng lạy.

"Nhị bái cao đường!"

Hai người cùng lạy lần nữa.

"Phu thê... đối bái!"

Liễu Nhược Băng đỡ Dương Thu Trì quỳ vững, bản thân chuyển sang đối diện hắn, hai người cùng lạy nhau.

"Tống nhập.... động... phòng...." Nói đến đây, Lưu Dũng đã khóc không thành tiếng, binh sĩ chung quanh đều khóc không thành tiếng.

"Lão gia! Lão gia người sao vậy...?" Dứơi thang thành lâu vang lên một tràng tiếng gào khóc dài, một cô gái loạng chọang vẹt người ra hai bên chạy lên, khi đến trước mặt liền quỳ sụp xuống giữ chặt Dương Thu Trì: "Lão gia...., người sao vậy?... xin đừng bỏ lại Tuyết Liên mà..."

Cô gái này chính là tiểu nha hoàn Quách Tuyết Liên.

Khi địch quân đến đánh, do nàng không biết võ công, không giúp thủ thành được, liền lùi ra sau tiếp tục tổ chức công tác hậu cần. Nghe nói địch quân thối lui, nàng vội chạy lên thành lâu, khi gần đến thì nghe Dương Thu Trì đã trúng tên không xong tới nơi rồi, liền như phát điên chạy tới, ôm hắn khóc như mưa.

Dương Thu Trì cười nói: "Tuyết Liên, ta và Băng nhi... thành thân rồi, mừng quá!" Xong hắn quay đầu nhìn Liễu nhược Băng, "Băng nhi hiện giờ đã là bà xã ta rồi, chúng ta vừa rồi đã bái thiên bái địa nữa! Đúng không? Nương tử!"

Liễu Nhược Băng không hề hồi đáp, nhìn chầm chầm vào mũi lang nha tiễn trên ngực Dương Thu Trì, gương mặt nhòe lệ lúc này đầy vẻ nghi hoặc. Không chờ Dương Thu Trì kịp phản ứng, nàng đột nhiên đưa tay chụp lấy đuối mũi lang nha tiễn đó, lay động, vẻ nghi hoặc trên mặt càng đậm hơn, liền dùng kình lực rút ra.

Dương Thu Trì a lên một tiếng, hoảng hốt nhìn Liễu Nhược Băng.

Liễu Nhược Băng nhìn đầu mũi tên, thấy không có chút máu nào, vừa kinh vừa mừng: "Thu Trì, chàng... chàng không thụ thương?"

Thì ra, vừa rồi Quách Tuyết Liên xông lên khóc lóc ôm Dương Thu Trì lắc lư, Liễu Nhược Băng phát hiện mũi tên trên ngực của Dương Thu Trì cũng theo đó lắc lư đưa đẩy theo, không giống như đã cắm ngập vào thân thể, mà dường như là cắm gá trên khải giáp vậy. Nàng nghi ngờ nên cầm lên đuôi tên lắc thử, phát hiện tuy nó đã bắn xuyên qua khải giáp, nhưng dường như không cắm vào thân thể, cho nên mới vừa kinh vừa mừng rút ra.

Mắt kính râm của Ý đã bị đập vỡ rồi, mặt nạ bị lột sạch rồi, Dương Thu Trì bẽn lẽn ngồi dậy, đưa tay ôm hai tay nàng: 'Băng nhi, ta không thụ thương...., hắc hắc, vì nàng không chịu lấy ta, ta mới dùng hạ sách này..."

"A! Ông trời hỡi!" Liễu Nhược Băng mừng như điên, nhào hẳn vào lòng Dương Thu Trì, ôm chặt hắn như sợ hắn bay đi vậy: "Quá tốt rồi! Tạ trời tạ đất!..." Rồi đẩy hắn ra, nhìn lên nhìn xuống, quả nhiên thần sắc như thường, nên lòng hoan hỉ như muốn vỡ òa, "Thu Trì! Chàng không sao! Quá tốt rồi! Tạ thiên tạ địa..."

A Hạnh Ny cao hứng đến nỗi như bị hư thoát, ngồi phịch xuống cạnh nàng, mừng quá bật khóc: "Thu Trì ca! Anh không bị thương, quá tốt rồi! Hu hu hu..."

Quách Tuyết Liên do cực bi chuyển sang cực hỉ, nhất thời ngẩn cả ra, cho đến khi Dương Thu Trì vỗ vai nàng bảo mình không sao, nàng mới túm lấy vạt áo hắn òa lên, nhưng mà lần này là khóc vì hoan lạc.

Liễu Nhược Băng lại đẩy Dương Thu Trì ra, sờ mó vào cái lổ tên ở giáp ngực của hắn, đích xác là không có máu chảy ra, bấy giờ mới yên tâm hẳn. Nàng ôm chầm cổ hắn, ngước mắt nhìn hắn, mặc cho nước mắt hạnh phúc chảy ra: "Quá tốt rồi!... thiếp rõ ràng là thấy ngực chàng trúng một tên nỏ, sao lại không có chuyện gì?"

Dương Thu Trì nháy mắt: "Cái này phải cảm tạ Tuyết Liên nha đầu. Cô bé làm cho ta một khải giáp nặng, dày hơn khải giáp thường nhiều! Khải giáp này ngăn phần lớn lực bắn của mũi tên, vào trong ngực ta vừa khéo trúng vào cái đôi bao tay đao thương chém không đứt đó. Mũi tên cắm lên bao tay, nên ta mới may mắn thoát nạn. Ta vốn định cho nàng biết ta không sao, nhưng nghe địch quân đánh chiêng thu quân, bấy giờ mới cố phịa ra chuyện chọc nàng. Không ngờ chính vì thế mới có thể thật sự kết thành phu thê với nàng. Cái này đúng là phải tạ trời tạ đất rồi, đa tạ ông trời đã để cho nàng chịu làm nương tử của ta!"

Liễu Nhược Băng vung nấm đấm phấn đấm vào khải giáp, ứa lệ mắng: "Con người của chàng thật là...., hại cho người ta nóng ruột cả lên!" Lòng nàng tuy oán Dương Thu Trì dùng cái chết lừa nàng lấy hắn, hại nàng đau lòng đứt ruột, trong lòng ít nhiều gì cũng hơi bực, nhưng dù sao thì nàng cũng đã thật lòng yêu hắn, biết là người yêu dấu thật sự không còn cách nào, làm vậy cũng giống như ngủ mơ phải một cơn ác mộng rồi tỉnh lại, nàng thầm tự nhủ may đó chỉ là một sự kinh hoàng hư ảo, chẳng thể nào sánh với cái hoan hỉ hiện giờ. Nàng tràn đầy yêu thương, hiển hiện lên đôi mắt nhìn hắn, rồi dựa vào lòng hắn, khẽ bảo: "Sau này không được dùng cách đó dọa thiếp nữa, nghe không?"

"Dạ! Nương tử yêu dấu của ta ạ!" Dương Thu Trì ôm nàng định hôn môi, vừa rồi vốn cho là Dương Thu Trì sắp chết, Liễu Nhược Băng không nỡ để hắn thương tâm, cho nên chẳng quan tâm đến người khác nghĩ gì chấp nhận hôn môi với hắn. Nhưng hiện giờ biết là hắn bình an vô sự, nếu bảo nàng trước mặt mọi người hôn hít với hắn như thế, nàng e thẹn khó thể đương, nên hoảng loạn tránh ra, nào ngờ cái hôn này vẫn trúng vào môi dưới và cằm nàng.

Liễu Nhược Băng e thẹn vô cùng, nằm dựa vào lòng hắn, trong lòng cầu mong ông trời cứ để nàng vĩnh viễn sống trong hạnh phúc dạt dào này.

Gương mặt đen đúa vì khói thuốc súng của Lưu Dũng vẫn còn nhòe lệ, nhưng y lại ngoác miệng cười ha hả: "Dương gia tài thiệt, ngay chúng tôi cũng bị ngài lừa, khà khà khà..." Mọi người đều hân hoan cười.

Liễu Nhược Băng bấy giờ mới ý thức đến xung quanh còn rất nhiều người, thẹn không thể tả, đẩy Dương Thu Trì ra, đứng lên nói: "Mau đứng dậy đi! Địch nhân còn chưa biết có đi rồi lại kéo đến nữa không."

Dương Thu Trì ngượng ngập đứng dậy: "Tạm thời sẽ không đâu, bọn chúng còn chưa tìm được biện pháp đối phó với tác đạn bằng đá của chúng ta, lại không biết chúng ta còn đạn dược hay không, cho nên tạm thời sẽ không phát động đợt tiến công mới. Nhưng mà chúng ta cần phải lập tức chế tạo tạc đạn, không thể cứ bày kế không thành hoài."

A Hạnh Ny mặt nhòe lệ hoa, kéo tay Dương Thu Trì: 'Thu Trì ca, huynh vừa rồi.... dọa chết người ta luôn..."

Dương Thu Trì khẽ vuốt ve làn tóc của nàng biểu lộ sự hối lối, nhìn gương mặt như sương tuyết lấm tấm dấu máu do trảm sát địch nhân, biết là sự chém giết tàn bạo vừa rồi chỉ mới là sự bắt đầu. Hiện giờ xem ra, vũ khí hiện đại của hắn không khống chế hay làm địch nhân hoảng sợ như trong tưởng tượng. Hắn cần phải lập tức chế tạo nhiều tạc đạn hơn, tốt nhất là chế tạo hỏa tiễn pháo cachiusa (Katyusha - loại pháo phản lực của Nga - Xem chú thích), hình thành sát lương diện rộng, mới tạo ra được hiệu quả răn đe. Nhưng đáng tiếc hắn không phải là chuyên gia vũ khí, ngay kết cấu của pháp ka-chiu-sa thế nào, dụng cụ chế tạo ra sao cũng không biết. Thứ hắn có thể tạm gọi là rành, chỉ là các vũ khí hạng nhẹ và thuốc nổ mà thôi.

Trong lúc hắn đang suy nghĩ xem tiếp theo nên làm thế nào, chợt có người hô: "Tổng binh đại nhân đến...!"

Mọi người vội chia ra đứng lên, cúi đầu chào.

Tổng binh là võ tướng cao cấp, ở thời Minh sơ, tổng binh là thống soái tối cao trên chiến trường, gặp phải chiến sự thì sẽ do triều đình phái công, hầu, bá xuất nhậm làm tổng binh chỉ huy tác chiến. Sau khi chiến sự kết thúc, người này phải giải nhiệm về triều. Do đó, thời Minh sơ, tổng binh tương đương chức tổng tư lệnh mặt trận, hoặc là thống soái quân sự tối cao của chiến khu.

Sau đó, chiến tranh với Ngõa Thích, Thát Dát ở phương bắc quá dày đặc, chức tổng binh dần trở thành định chế. Mỗi khi gặp phải chiến sự, triều đình lại cử ra tuần phủ kiêm trị dân sự và quân vụ ở địa phương, tổng binh cũng phải bị người này giám đốc. Sau đó, khi dùng binh liên quan đến nhiều trấn hoặc nhiều tỉnh, lại thiết thêm chức tổng đốc, phái trọng thần xuất nhiệm, để tiết chế tuần phủ và tổng binh. Địa vị của tổng binh vì thế càng lúc càng giảm, không thể sánh với thời đầu. Đây chính là một loại không chế, cho dù tổng binh trong tay có trọng binh, nhưng không quyền điều khiển, phải chịu tiết chế của đốc, phủ. Còn tổng đốc, tuần phủ tuy có quyền điều binh khiển tướng, nhưng trong tay không có trọng binh, từ đó hình thành quan hệ tương hỗ khiên chế, tránh quá tập trung binh quyền về một mối. Điều này trong thời bình đích xác là có thể chế hành quyền lực, nhưng trong thời chiến lại thường gây mất ổn định nội bộ, kềm chế lẫn nhau, phương ngại đến sự linh hoạt và cơ động trong tác chiến của quân đội, trở thành một trong những nguyên nhân trọng yếu gây sự thất bại của Minh quân trong phần lớn trường hợp hiện giờ.

Khổng Hi Quý là tổng binh Hồ Quảng, là tổng tư lệnh của chiến khu vùng này, chức tước có thể nói là rất lớn. Chỉ có điều, quân của ông ta đã bị Trương Hiến Trung tiêu diệt phần lớn trong các trận chiến ở Lạc Dương, Trường Sa. Tàn binh còn lại thì lại do tuần án Hồ Quảng là Lưu Hi Tộ và thiên tuần phủ Lý Càn Đức soái lãnh bảo hộ ba vị giả vương gia chạy về Vĩnh Châu, cuối cùng tiến vào Quảng Tây. KHổng Hi Quý trực tiếp soái lãnh không đến 4 nghìn quân bản bộ bảo hộ ba vị vương gia bí mật chạy tới Kiềm Dương huyện. Trong hai ngày chiến đấu bảo vệ này, quân đã tử thương hơn phân nửa, Dương Thu Trì cùng mọi người kịp thời kéo đến thì chỉ còn có khoảng 1000 người.

Mấy ngày nay, Khổng Hi Quý và Phúc vương, Huệ vương, Quế vương cùng trốn trong huyện nha, nghe tiếng pháo ầm ùng bên ngoại, hò giết vang trời, bàng hoàng suốt cả ngày. Tối qua khi nghe binh của thổ ti trại ở phụ cận kéo đến, đánh lui Trương tặc quân, họ đều mừng rỡ, nhưng khi nghe nói chỉ có 5 nghìn người ít ỏi, kinh khủng khôn cùng.

Mới sáng ra chiến đấu lại vang lên, thảm liệt hơn mọi trận chiến đấu trước đó, tiếng pháo đì đùng như sấm dội, chấn điếc cả tai họ. Khổng Hi Quý mang hơn chục thân binh cầm bảo kiếm đứng trong nội nha môn của tri huyện bảo hộ ba vị vương gia, thần tình đầy vẻ một mình ta ở đây chẳng có kẻ nào có thể vượt qua được, nhưng sự kinh khủng trong lòng chỉ có lão mới biết.

Chẳng mấy lúc, tin tức truyền về, nói là địch quân đã bị tướng sĩ thủ thành đánh lui, không biết rút về hướng nào, Khổng Hi Quý không khỏi mừng rơn, vội để ba vị vương gia chờ ở huyện nha, còn mình thì mang Lôi tri huyện vội lên thành lâu hái đào hưởng kết quả đại thắng.

Chú thích:

Pháo phản lực Cachiusa (Katyusha) (tiếng Nga: Катюша), hay được gọi là tên lửa Cachiusa hoặc ngắn gọn là Cachiusa, là một dạng bệ phóng đạn phản lực được chế tạo bởi Liên Xô trong Thế chiến thứ 2. So sánh với các loại pháo khác, Cachiusa có khả năng oanh tạc một địa điểm trong thời gian rất ngắn với sức công phá cao, nhưng độ chính xác thấp và thời gian nạp đạn lâu. So với pháo truyền thống, dạng dàn phóng này tuy không chính xác song lại có ưu điểm là rẻ tiền và dễ làm.

Dàn phóng pháo có thiết kế khá đơn giản, bao gồm một giá có gắn những thanh phóng bằng thép, là chỗ đặt đạn phản lực; với bộ khung gập để nâng thanh phóng lên vị trí thuận lợi để khai hỏa. Mỗi xe tải có từ 14 tới 48 bộ phóng. Đạn phản lực M-13 đường kính 13,2 mm của hệ thống BM-13 dài 180 cm và nặng 42 kg. Nó được phóng đi bằng hỗn hợp nitrat xenlulô đặc phụt ra từ trong lòng ống. Hỗn hợp này được đặt trong vỏ thép của quả đạn với một ống dẫn đơn giản ở cuối. Quả đạn được cố định bởi bộ gá thăng bằng hình chữ thập. Mỗi đoạn ngòi nổ đều chứa thuốc nổ mạnh, nặng 22 kg. Cự ly bắn khoảng 5,4 km (3,4 dặm). Sau đó đạn phản lực đường kính 82 mm M-8 và đường kính 300 mm M-30 cũng được phát triển.

Cachiusa có độ chính xác thấp hơn pháo truyền thống, nhưng khá hiệu quả trong việc oanh tạc và đã làm cho lính Đức rất sợ hãi. Một đợt bắn BM-13, chỉ mất từ bảy tới mười giây cho một đợt bắn, phóng đi tới 4,35 tấn thuốc nổ tới khu vực rộng 4 hec-ta (10 mẫu Anh). Các khẩu đội Cachiusa thường tập trung với số lượng lớn để gây sốc cho địch quân. Điểm bất lợi là thời gian nạp đạn cho bệ phóng Cachiusa trở nên khá lâu, trong khi pháo truyền thống có thể duy trì tần suất bắn liên tục.

Cachiusa trong Chiến tranh thế giới lần thứ II là loại pháo tự hành, thường xuyên được lắp ráp trên xe tải. Sự cơ động này đã tạo cho Cachiusa (và những loại pháo tự hành khác) một lợi thế riêng biệt: chúng có thể phóng đạn phản lực vào vị trí đich và rút lui trước khi phía địch phản pháo vào vị trí chúng triển khai trước đó. Vì tính cơ động dặc thù của dàn phóng đa hỏa tiễn này, nên nó được sử dụng để tấn công kiểu du kích (Hezbollah), tấn công quấy nhiễu (Hezbollah, Quân đội nhân dân Việt Nam) hay khủng bố (Taliban).

Hồng Quân chọn biệt danh này từ bài hát rất nổi tiếng của nhạc sĩ Mikhail Vasilevich Isakovsky trong thời chiến. Cachiusa (Катюша) có nghĩa là "Katerina bé nhỏ" (người Nga thường thêm hậu tố chỉ nhỏ - diminutif - vào sau tên trong trường hợp gọi rất thân). Bài hát này nói về một cô gái mong chờ người yêu dấu đang đi xa để thực hiện nghĩa vụ trong quân đội. Quân đội Đức phát xít đặt một biệt hiệu khác cho Cachiusa là "Organ của Stalin" (nguyên văn tiếng Đức: Stalinorgel) sau khi vị cố tổng bí thư Liên Xô này ví giàn hỏa tiễn như những ống hơi của những chiếc đàn organ khổng lồ trong nhà thờ (đàn ống).

Ngày 21 tháng 6 năm 1941, một ngày trước khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, chính phủ Xô Viết đã ra quyết định sản xuất hàng loạt các hệ thống pháo phản lực. “Kachiusa” – loại vũ khí hùng mạnh với cái tên âu yếm đã khiến kẻ thù kinh hoàng. Những binh sĩ Đức còn sống sót sau lần đầu chịu đựng hỏa lực và tiếng gầm thét của “Kachiusa” hầu như không còn tinh thần để chiến đấu nữa.

Sức mạnh của “Kachiusa” quả là kinh ngạc – ngoài khả năng sát thương lớn, nó còn gây ra một sức ép tâm lý lớn với tiếng hú đặc trưng của mình. “Khi tôi thấy “Kachiusa” lần đầu tiên tại nhà máy mang tên Stalin, tôi có cảm giác nó thật cồng kềnh và lạ lùng. Mới nhìn thì cũng là một chiếc xe tải, nhưng chả hiểu tại sao phía trên lại gắn thêm mấy thanh ray làm gì. Còn khi mà phải thử cái kỳ quan kỹ thuật ấy ở những trận đánh bảo vệ Matxcơva, tôi thậm chí còn không hình dung được nó ồn đến thế nào. Phải thú thật là sau loạt bắn đầu tiên tôi ướt hết cả quần vì sợ. Gần một tuần chúng tôi mới quen được với tiếng hú của đạn và tiếng rầm rầm như nuốt hết tất cả” – đó là lời của ông Ivan Đmitrievich Đunaev, cựu chiến binh Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, người chỉ huy “Kachiusa” từ năm 1941 cho đến tận ngày chiến thắng.

Trong những tài liệu mật của Đức có những thông báo về “đại bác phun lửa tự động nhiều nòng của Nga”. Những binh sĩ Đức còn sống sót sau lần đầu chịu đựng hỏa lực và tiếng gầm thét của “Kachiusa” hầu như không còn tinh thần để chiến đấu nữa, bởi vì hoặc là bị dập thương, hoặc là bị điếc hay chết lặng vì hoảng sợ. Sau những loạt Kachiusa, lính Đức phát điên chạy ra khỏi hầm hố và làm mồi cho những loạt tiếp theo. Kachiusa phá tan, san bằng các loại công sự, đốt cháy cả tuyết! Có lần nó còn phá huỷ toàn bộ cả một cụm xe tăng Đức vào ban đêm sau kết quả trinh sát của lính Nga.

Người Đức cố gắng chiếm được dù một khẩu “Kachiusa” bằng mọi giá. Tuy nhiên chỉ huy Xô viết đã hạ lệnh cho Hồng quân phá hủy “Kachiusa” trong trường hợp rút lui, để loại vũ khí này không rơi vào tay kẻ thù.

Một sĩ quan Đức bị bắt làm tù binh, sau những trải nghiệm khi “Kachiusa” xung trận, tại cuộc hỏi cung đã nói: “Tôi đã bị thương và chẳng bao lâu nữa sẽ chết. Tôi sẽ không thể đưa bí mật của các ông cho ai. Nhưng hãy nói cho tôi trước khi tôi chết – đó là cái gì thế? Cái gì đáng sợ đã rót lửa xuống chúng tôi, cứ như là cơn giận dữ của chúa trời?”


Quay lại  l Xem tiếp 


BigKool BigKool
Vườn Hoàng Cung - Nông Trại Online Vườn Hoàng Cung
Khu Vườn Thần Kỳ Khu Vườn Thần Kỳ
Vườn Thủy Cung Vườn Thủy Cung
goPet Online goPet Online

C-STAT