Khổng Hi Quý khôi giáp sáng choang, eo đeo bảo kiếm, mặt hồng nhuận mập phì chảy mỡ, được hơn mười thân binh hộ vệ vây quanh, mang theo Lôi tri huyện uy phong lẫm lẫm đến thành lâu.
Lão bước một chân vào lớp máu đọng, loạng choạng suýt ngã, rất may là hộ vệ đi sau mắt lanh tay lẹ, vội vỡ đỡ lấy, bấy giờ mới miễn cưỡng bị ngã chỏng vó, mất mặt trước mọi người.
Lão kinh hồn cố định thần, chỉnh chỉnh lại đầu khôi, ngước mắt nhìn, thấy trên mặt thành đầy tử thi của địch quân và Minh quân, khắp nơi đầy chân đứt tay cụt, máu đã tẩm ướt cả đá lót trên mặt thành, nơi nào cũng có máu. Lão nhịn không được kinh tâm đảm chiến, cẩn thận bước tới công sự trên thành, vịn tay thò đầu ra nhìn, không khỏi hít một hơi khí lạnh: toàn bộ ruộng đồng bên ngoài thành đầy thi thể của địch quân, nằm ngổn ngang khắp nơi, phần lớn thi thể đều không toàn vẹn. Mấy chục cái lổ lớn còn bốc khói đen không biết vì sao mà hình thành. Đao kiếm, vụn khói, thang dây, chiến kỳ... chỗ nào cũng có.
Đây chính là chiến trường, chiến trường thây nằm chật đất!
Khổng Hi Quý trước đây chỉ huy tác chiến đều là ở hậu phương phát hiệu lệnh, quân đội của lão chỉ cần gặp đại quân của Trương Hiến Trung là chạy, chạy thục mạng, cho nên không hề tiến hành đề kháng ra dạng gì, càng không có loại huyết chiến thế này. Dù là như thế, quân của lão gần như bị địch quân diệt sạch. Trong khi đó, trường diện máu huyết lâm lâm, thi thể tàn khuyết chất đầy này là lần đầu tiên lão thống lĩnh binh nhiều năm thấy được!
Khổng Hi Quý cố lấy lại tinh thần, từ từ quay đầu lại, cười ha hả: "Hay! Đánh hay lắm! Minh quân chúng ta thường là sở hướng phi mỹ như vậy, đặc biệt là dưới trướng bổn quan đều là anh dũng chi sư của Đại Minh, trường thắng chi sư! Đây đều là công lao của người giỏi dưới tráng ta a! Đến lúc này thì đã khiến Trương tặc biết mùi lợi hại rồi....! Ha ha ha..."
Mấy tướng quân dẫn Minh quân cùng Dương Thu Trì và Đồng quân cộng đồng kháng kích địch quân đều hiện mấy phần đắc ý trên mặt, nhưng khi thấy Đồng quân thần sắc nhàn nhạt, biết là kỳ thật thắng lợi của trường bảo vệ chiến này trước đó là tử thủ dựa vào vị bạch y nữ hiệp đó, nếu không phải này chém giết vô số địch quân đánh lên thành lâu, cổ vũ đấu chí của quân dân toàn thành, thì Kiềm Dương này đã sớm bị công phá rồi. Sau đó, đại bại địch quân là nhờ vào 5 nghìn Đồng quân tăng viện, đặc biệt là pháo đạn thần kỳ của vị điển sứ huyện nha này, khiến địch quân bị nổ hồn phi phách tán, không dám tiến công nữa. Những tướng quân nhà Minh này đều biết nguyên nhân thắng lợi không phải toàn đều kể hết trên người của Minh quân.
Do đó, sự đắc ý trên mặt họ đều thu lĩêm lại hết.
Khổng Hi Quý không hề hay biết gì, vẫn y như cũ tự huyênh hoang, nói với Lôi tri huyện: "Tri huyện đại nhân, ông coi hơn nghìn tử thi của địch quân trên mặt thành này nè, ha ha, đây đều là công lao của người dướng truớng ta a, đại nhân kiến thức sự lợi hại và anh dũng của tước sĩ ta chưa? Ha ha ha! Đánh hay lắm! Bổn quan sẽ đem tin vui này lập tức bẩm báo lên ba vị vương gia, rồi báo lên triều đình, sẽ khao thưởng thật lớn cho tướng sĩ toàn quân! Luận công khen thưởng! Ha ha ha."
Lôi tri huyện tự nhiên vuốt mông ngựa ào ào, thuận lời đưa đẩy, khen đến nỗi Khổng tổng binh đắc ý dương dương, bay lên tận mây xanh.
Phụ trách chỉ huy Minh quân đề ngự địch trên thành lâu là một vị du kích tướng quân (Chú: là 1 chúc quan của triều Minh, không dính dáng gì đến việc đánh du kích. ND) tên là Long Bỉnh nghe tổng binh cứ tự thổi phồng công lao, sợ sẽ ảnh hưởng đến tấm lòng của quân bằng hưu, vội ho khan một tiếng, bước lên cung tay thua: "Tổng binh đại nhân, Dương điển sứ thỉnh về Đồng binh, và chế tác đạn pháo cực kỳ lợi hại, công lao rất lớn."
"Vậy sao?" Khổng Hi Quý thu nụ cười, quét nhìn Đồng binh khắp thành lâu mặc sắc phục của dân tôc Đồng, "Đúng đúng, quân đội của Đồng trại tăng viện, công không nhỏ chút nào. Đúng rồi, Long tướng quân, ngươi vừa rồi nói là ai đến thỉnh Đồng quân?"
Long Bỉnh tiến dẫn Dương Thu Trì: "Vị này là Dương điển sứ, ông ấy còn chế tạo...."
"Điển sứ?" Cặp mắt tam giác của Khổng Hi Quý liếc xéo, rồi cắt ngang lời của Du kích tướng quân Long Bỉnh, khinh bỉ hừ lạnh một tiếng, dừng khóe miệng khinh miệt hỏi: "Là ngươi thỉnh Đồng quân?"
Dương Thu Trì vội bước lên một bước, khom người thi lễ: "Vâng! Ti chức Dương Thu Trì, là điển sứ của Kiềm Dương huyện, trước đó có đến Quý châu Trấn Viễn phủ, tiếp được quân tình khẩn cấp của tri huyện Lôi đại nhân, đã từ Đồng trại mượn được 5 nghìn Đồng binh, khẩn cấp đến đây chi viện, rất may không đến trễ."
Khổng Hi Quý quay đầy nhìn Lôi tri huyện đang khúm núm: "Là ngươi truyền quân tình cho hắn?"
Lôi tri huyện vội đáp: "Dạ dạ, Dương đại nhân là điển sứ của huyện, phụ trách..."
"Được rồi!" Khổng Hi Quý không nhịn được phiền cắt ngang lời Lôi tri huyện, lại lườm mắt nhìn Dương Thu Trì, mũi hừ hừ như ống thông khí, hỏi: "Ngươi chỉ là tên tiểu điển sứ nho nhỏ, sao có thể mượng được 5 nghìn Đồng binh? Đúng là nực cười! Thủ lĩnh Đồng binh ở đâu?"
A Hạnh Ny thấy bộ dạng khệnh khạng của lão như vậy, lại thấy lão đối với Dương Thu Trì không lễ mạo gì, lòng chán ghét vô cùng. Nhưng mà, nàng cũng biết tổng binh là quan chỉ huy quân sự tối cao của Hồ Quảng, không tiện đắc tội, bước lên ôm quyền thưa: "Mạt tướng A Hạnh Ny, là con gái của Đồng trại thổ ti Dát cát Ước, là thủ lĩnh dẫn đầu Đồng binh."
Khổng H iQuý không hề biết nguyên nhân chủ yếu để đánh lui hai vạn đại quân của Trương Hiến Trung lần này là đạn đá có chứa thuốc nổ của Dương Thu Trì, tuy miệng cứ giành hết công lao về cho mình, nhưng trong lòng cũng biết thắng lợi này thuộc về Đồng binh đến tăng viện, cho nên lập tức đổi thành cái mặt cười, nhịn lên nhìn xuống đánh giá A Hạnh Ny, thấy nàng toàn thân nhung trang, thanh tú nhanh nhẹn, mặt đẹp như hoa, càng hoan hỉ vô cùng, ngầm nước nước bọt đánh ực, cái mặt phì đầy nọng cười hề hề: "Quả nhiên là anh hùng xuất thiếu niên! Lần này Đồng trại thổ ti phái xuất thần binh tương trợ bổn quan thủ thành, bảo hộ ba vị vương gia bình an cũng coi là một kỳ công, bổn quan nhất định sẽ bẩm báo triều đình, thưởng lớn cho Đồng trại thổ ti các ngươi! Khao thưởng Đồng binh tam quân! Ha ha ha." Nói xong, thò tay ra định vỗ lên vai A Hạnh Ny biểu hiện thân mật.
A Hạnh Ny nhíu mày, lùi về sau một bước tránh đi, ôm quyền nói: "Đa tạ tổng binh đại nhân, chỉ có điều lần này người có công đầu chính là Thu Trì ca của ta, là người chế tác đạn pháo, nổ chết vô số Trương tặc quân tấn công, làm địch quân khủng hoảng mới triệt binh. Đại nhân muốn khao thưởng nên khảo thưởng Thu Trì ca trước, nếu không thưởng phạt bất minh."
"Vậy à?" Khổng Hi Quý bấy giờ mới quay đầu, nhìn kỹ lại Dương Thu Trì một cái. Chỉ có điều, lão không tận mắt chứng kiến uy lực của tạc đạn, không hề thấy địch quân như núi đổ sóng trào bị tiếng nổ kinh thiên động địa máu thịt văng đầy, cho nên không cảm thụ được một trăm tạc đạn bàng đá của Dương Thu Trì mang đến sự cải biến về chất cho cuộc chiến bảo vệ này thế nào, cho nên nghe mà cũng như không, cho dù A Hạnh Ny là đại biểu Đồng binh nói thế, vẫn không đủ làm cho lão trọng thị.
Khổng Hi Quý thu hồi mục quang, lại cười hề hề nói với A Hạnh Ny: "A Hạnh Ny tướng quân, lần này đánh lui địch quân, ngươi lao khổ công cao, xinh thỉnh theo ta đi gặp ba vị vương gia, chúng ta cùng thương lượng đại kế lui địch, thế nào?"
A Hạnh Ny lắc đầu: "Chúng tôi đến là vì Thu Trì ca, chúng tôi chỉ nghe theo hiệu lệnh của Thu Trì ca. Xin lỗi!"
Khổng Hi Quý ngẩn người, lại nhìn kỹ lại Dương Thu Trì, hơi có chút phản ứng, cười nói: "Vậy được, vậy thỉnh Dương điển sứ cùng đến thương nghị luôn!"
Dương Thu Trì ôm quyền đáp: "Tổng binh đại nhân, ti chức chức nhỏ lời kém, làm sao có thể thương nghị quân cơ đại sự với tổng binh đại nhân và ba vị vương gia chứ. HƠn nữa, ti chức còn phải nhanh chóng sắp bày chuyện phòng ngự, chế tạo đạn dược để phòng địch quân lần nữa đánh tới."
Khổng Hi Quý trầm mặt: "Thế nào? Điển sứ đại nhân, ngay cả lời bổn quan nói mà cũng không nghe sao?"
Dương Thu Trì nghe lão giở giọng, phản cảm vô cùng. Dù sao kiếp trước hắn cũng làm siêu phẩm Trấn quốc công của Đại minh, cẩm y vệ chỉ huy sứ, quyền thế hơn xa Khổng Hi Quý, sao có thể chịu cái nhìn khinh khi này của lão, lập tức đứng thẳng người, điềm đạm nói: 'Tổng binh đại nhân nặng lời rồi, thật tế là địch quân chỉ tạm lui, có thể trong khoảnh khắc sẽ quay lại, không thể giống như có người trốn trong nha môn gối cao chẳng lo nghĩ gì, chúng tôi còn phải tăng cường chiến bị..."
"Phóng tứ!" Con mắt tam giác của Khổng Hy Quý trừng to, cái mặt đầy mở rung rinh, "Tên điển sứ nho nhỏ nhà ngươi kia, bổn quan bảo ngươi tham dự thương nghị quân cơ yếu sự là nễ mặt người lắm rồi, khôn gngờ lại không nễ mặt, còn dám đương trường trào phúng bổn quân! - Người đâu a, bắt trói!"
Mấy thân binh ở sau lưng lão cùng quát lên, như lang như hổ xông lên định bắt người, A Hạnh Ny bước lên một bước, tay án vào cán kiếm, tức giận quát: "Đứng lại! Tên nào lên chém chết!"
Tiểu hắc cẩu nhất mực nằm phục ở đó, lúc này mắt lộ hung quang, mũi khịt khịt, nhìn uy hiếp các thân binh.
Lưu Dũng, Mã Lăng, Phó quan, Hồ Thủy cùng các hộ vệ đều đao kiếm rời khỏi vỏ, vây lên.
Vũ Kỳ giơ tay, hơn trăm sơn tặc giơ hỏa súng và đao kiếm đối chuẩn Khổng Hi Quý cùng thân binh.
Đồng binh xung quanh cũng hè nhau giới bị, biến Minh quân thành thế bị bao vây.
Chỉ có Liễu Nhược Băng vẫn bình tĩnh như nước, đứng bên cạnh Dương Thu Trì tựa hồ như không thấy đám thân binh xông lên. Chỉ có điều, Dương Thu Trì đã cảm thụ sát khí dày đặc tiết ra trên người nàng.
"Làm cái gì vậy? Các ngươi phản rồi hả?" Khổng Hi Quý lùi lại mấy bước, tay đặt lên cán kiếm, hoảng hốt hỏi.
Du kích tướng quân Long Bỉnh và các thiên tổng khác cùng bước tới can ngăn, và khẽ nói về chuyện Dương Thu Trì chế tạc đạn có uy lực và tác dụng thế nào, lại nhấn mạnh tính trọng yếu trong chiến đấu của tạc đạn do con người trẻ tuổi này chế tạo.
Những du kích tướng quân và thiên tổng là theo tổng binh Khổng Hi Quý bại lui về Kiềm Dương huyện, là bộ hạ cũ của Khổng Hi Quý. Lời của họ khiến Khổng Hi Quý không thể không xét lại.
Vốn ra, Khổng Hi Quý làm quan nhiều năm, tự nhiên biết đạo lí không nên chọc giận quần chúng, đương nhiên càng hiểu lúc này phải tận sức mua chuộc lòng người. Nhưng mà, do y không hề trực tiếp tham gia trường bảo vệ chiến máu tanh này, không hề nhìn thấy uy lực khủng bố của tạc đạn Dương Thu Trì chế tạo gây ra cho đội hình dày đặc của địch quân, và tác dụng cực lớn đối với việc lui quân của địch... cho nên nhất mực không tin vào việc có tạc đạn lợi hại như vậy, trong lòng nhiều ít cũng nhân là những lời nói khoa trương trong lúc kinh hoảng của mọi người. Sở dĩ, lão nhất mức khinh thường Dương Thu Trì, cho rằng hắn chẳng qua là một điển sứ của nha môn, là quan nhỏ hàng tòng cửu phẩm, thế mà dám trào phúng vị tổng binh đường đường như mình là kẻ tham sanh úy tử, tức giận mới hạ lệnh bắt Dương Thu Trì, không ngờ mệnh lệnh này đã chọc vào tổ ong mặt quỷ.
Khổng Hi Quý kinh khủng quét mắt nhìn những sơn tặc bậm trợn với mục quang băng lãnh cùng các Minh quân hộ vệ nét mặt lầm lì, ngoài ra còn có A Hạnh Ny tuy đẹp nhưng tay án kiếm dữ dằn cùng 5 nghìn Đồng quân vây quanh Minh quân... tuy lão không biết vì sao một điển sứ nho nhỏ mà lại được nhiều người ủng hộ và yêu mến quá như vậy, chịu vì hắn mà đối đực trực tiếp, uy hiếp một vị đường đường là tổng binh Hồ Quảng như lão ta. Nhưng lão ta biết, lúc này thành tường Kiềm Dương huyện chỉ cần giậm chân là lung lay này tuyệt đối không phải là của một tư lệnh trơ trụ một nghìn tàn binh bại tướng này, mà là của thanh niên thân hình hơi ôm ốm trước mặt.
Huống chi, một nghìn tàn binh bại tướng ấy kinh lịch qua trận thắng lợi bằng tạc đạn của Dương Thu Trì, đã sinh lòng sùng bái đối với hắn, tựa hồ không chuẩn bị vì Khổng Hi Quý tổng binh này mà trở mặt với bọn Dương Thu Trì.
Khổng Hi Quý già dặn trên quan trường, giỏi nhất là trông mặt mà bắt hình dong, lập tức minh bạch tình hình trước mắt, biết là cần phải lung lạc Dương Thu Trì. Do đó, mặt của lão liền hiện vẻ đột nhiên hiểu ra, phảng phất như vừa nghe thủ hạ thuật lại mọi chuyện, bây giờ vừa mới hiểu, liền ngửa cổ cười ha hả: "Thì ra là thế, đúng là bổn quan quan sát không kỹ, hiểu lầm Dương đại nhân, thì ra Dương đại nhân mới là công thần của trận chiến này. Hắc hắc hắc, giỏi! Bổn quan luận công ban thưởng, Dương đại nhân, chức điển sứ này của ngươi quá nhỏ, không xứng với trọng trách trên vai ngươi. Như vầy đi, bổn quan thăng ngươi làm thủ bị của Kiềm Dương huyện! Thế nào?"
Tổng binh là quan chỉ huy quân sự tối cao của chiến khu, trừ phó tổng binh do triều đình trực tiếp ủy nhiệm ra, những tham tướng, du kích tướng quân, thủ bị, thiên tổng, bá tổng... đều do tổng binh có thể trực tiếp căn cứ tình huống chiến sự mà bổ nhiệm hoặc bãi miễn, chỉ cần báo lên binh bộ hoặc ngũ quân đô đốc phủ là được. Do đó, tổng binh trước chiến trận nhậm mệnh, lập tức có hiệu lực.
Dương Thu Trì vốn định cự tuyệt, nhưng thấy nhãn thần của ông ta lộ vẻ khẩn cầu, nghĩ lại dù sao lão mập như heo này cũng là tổng binh Hồ Quảng, là thủ lĩnh quân sự tối cao của Hồ Quảng, nếu như làm mất mặt ông ta, đối với việc thống binh kháng kích địch quân chưa chắc đã có lợi. Hơn nữa, lúc này đại quân của Trương Hiến Trung chỉ là tạm lui, nhất định sẽ còn kéo đến. Đến lúc đó quy mô tiến công e rằng sẽ gấp mấy lần trước đó, chiến đấu đầy máu tanh sẽ còn chực chờ ở phía sau, lúc này cần phải bỏ đi hết hiềm cũ, đoàn kết một lòng mới được. Hơn nữa, hắn cũng cần một quân chức để dần dần thực hiện lý tưởng của mình. Huống chi, chức thủ bị này chính là ngũ phẩm, chức quan đã không nhỏ rồi, do đó, Dương Thu Trì cung tay: 'Đa tạ tổng binh đại nhân đề huề!"
Lôi tri huyện có hơi đố kỵ, thầm nghĩ vị điển sứ này quả là quan vận hạnh thông. Chỉ có điều, loạn thế xuất anh hùng, từ cổ đã là như thế. Ông ta cố dồn nén lại lòng đố kỵ, mặt tươi cười chúc mừng Dương Thu Trì, lời vuốt mông ngựa dĩ nhiên là tuôn ra không ngớt.
Khổng Hi Quý thấy Dương Thu Trì tíêp thụ nhậm mệnh, như vứt đi gánh nặng, bật cười ha hả, lại khôi phục vẻ dương dương tự đắc lúc nãy, nói với A Hạnh Ny: "Tướng quân dẫn Đồng binh tăng viện cho chúng ta, công lớn vô cùng, bổn quan thăng ngươi làm Kiềm Dương huyện hiệp thủ!"
Minh triều mạt niên, lĩnh quân thủ một thành thường được xưng là "Thủ bị", người cùng chủ tướng thủ một thành gọi là "Hiệp thủ", cũng là phó thủ bị, là quan chức hàng tòng ngũ phẩm.
A Hạnh Ny thấy Dương Thu Trì tíêp thụ, cũng khom người thi lễ: "Mạt tướng đa tạ tổng binh đại nhân đề huề!"
Đôi mắt tam giác của Khổng Hi Quý nheo lại quét tới quét lui gương mặt xinh đẹp như vầng trăng của A Hạnh Ny, ngầm nuốt một ngụm nước bọt, chỉ vào du kích tướng quân Long Bỉnh ở bên cạnh: "Dương thủ bị, A hiệp thủ, Long tướng quân đại biểu bổn quan phụ trách phòng ngự tổng thể thành này, hai người cần phải hiệp trợ Long tướng quân bố phòng cho tốt, cộng đồng bảo hộ cho sự bình an của ba vị vương gia. Biết chưa?"
Long Bỉnh là du kích tướng quân, quan chức vao hơn Dương Thu Trì một cấp. Long Bỉnh là đại biểu cho Khổng Hi Quý chỉ huy, vốn tên mập này phong quan chức cho hai người là định đem toàn bộ Đồng quân cho người này trực tiếp lãnh đạo. Điểm này Dương Thu Trì tuy minh bạch, nhưng không muốn tranh chấp. Lúc này đại địch trước mắt, bảo đảm chỉ huy thống nhất cao độ là điều tất yếu, nếu không, một nghìn Minh quân và 5 nghìn Đồng quân, còn hợn 100 sơn tặc và hộ vệ của hắn, cộng thêm dân chúng trong thành tự động tham chiến, cần phải có một kẻ chỉ huy thống nhất, mới đảm bảo cho điều độ và nhất trí. Một trong "tam đại kỷ luật" của quân đội Trung quốc chính là mọi hành động đều phải nghe chỉ huy!
Về mặt quân sự mà chỉ huy hỗn loạn, lệnh ra từ nhiều đầu khác nhau, bộ hạ không cách gì nghe hiểu, khẳng định là bại chớ chẳng sai. Trong khi đó hắn là điển sứ nho nhỏ, trực tiếp thăng lên làm chánh ngũ phẩm thủ bị đã như ngồi trên hỏa tiễn rồi. Tên Long Bỉnh này trước đó chỉ huy tác chiến rất có bài, Minh quân hầu hết đều nghe y, chứng tỏ y có uy tín nhất định. Xem ra, vị Long Bỉnh này là tích công thăng lên làm du kích tướng quân, bản thân hắn mà đòi ngồi cao hơn người này, e rằng có tác dụng ngược.
Cho nên, Dương Thu Trì đáp ứng một tiếng, nói với Long Bỉnh: "Long tướng quân, ti chức xin nghe hiệu lệnh!"
Long Bỉnh vội trả lễ: "Dương thủ bị nặng lời rồi, ta và ông hai người cùng hiệp trợ, cộng đồng ngự địch."
Khổng Hi Quý thấy thu phục được Dương Thu Trì, vô cùng đắc ý: "Nghe nói hai ngày trước đề ngự Trược tặc quân cường công có một vị bạch y nữ hiệp giết địch vô số, là bậc cân quắc anh hùng đã từng cứu vô số ba tánh ở Phượng Dương thành, trọng thương phản tặc Trương Hiến Trung, không biết có ở đây không?"
Long Bỉnh vội dẫn tiến Liễu Nhược Băng: "Chính là vị nữ hiệp này, là tân hôn phu nhân của Dương thủ bị, vừa rồi mới vừa đám cưới ngay trên mặt thành cùng Dương thủ bị."
"Vậy à?" Khổng Hi Quý ngước mắt nhìn, thấy được vẻ đạp tuyệt luận của Liễu Nhược Băng, dung nhan khuynh quốc giống như vạn hoa triều xuân, tức thời lão cảm thấy như bị thái dương chiếu vào đầu, miệng khô lưỡi rát, cứng cả họng nhìn, hồn nhiên không biết thân ở tại chỗ nào. Lòng lão nghĩ, vừa rồi nhìn thấy con gái của thổ ti là A Hạnh Ny đã coi như tuyệt sắc mỹ nữ hiếm có rồi, nhưng so với nữ tử lãnh diễm này ảm đạm đi nhiều. Bản thân lão sống bao nhiêu năm nay, ngữ nữ vô số, dạng mỹ nữ gì cũng gặp qua, nhưng mà, mọi mỹ nữ mà lão gặp gộp hết lại cũng không bằng vị nữ tử này. Ai yêu, hình như nàng ta là tiên nữ giáng trần?
Long Bỉnh thấy lão đường đường là tổng binh, trước mặt nhiều người như vậy mà nhìn chằm chằm vào vợ người ta, ngay nước dãi cũng muốn chảy ra, thật là thất thái cùng cực. Y vội hắng giọng, dùng cánh tay chọc vào lão, Khổng Hi Quý mới hồi lại thần, nheo con mắt tam giác, nuốt nước miếng đánh ực hai ba cái, gương mặt bóng lưỡng đầy nụ cười húp híp: "Công nương... phương danh?"
Liễu Nhược Băng điềm đạm cười, không trả lời.
Long Bỉnh vội giới thiệu: "Vị này là Liễu Nhược Băng Liễu nữ hiệp, là tân hôn phu nhân của Dương thủ bị!"
Mấy câu sau được nói rất nặng, mục đích là định báo cho tổng binh đại nhân biết người ta là hoa có chủ rồi, đừng nên có chủ ý bậy bạ.
Nhưng Khổng Hi Quý đã sớm bị vẻ đẹp của Liễu Nhược Băng làm cho thần hồn điên đảo, làm gì chú ý tình tiết nhỏ nhặt này, cười hềnh hệch: "Ai da, thì ra là Liễu nữ hiệp, nàng vừa rồi nấp sau lưng Dương thủ bị, Khổng mỗ không nhìn thấy, thất lễ quá, mong thứ lỗi."
Liễu Nhược Băng thấy dạng mê gái của lão vô cùng phiền ghét, khẽ hừ một tiếng, quay đầu sang nói với Dương Thu trì: "Phu quân, thiếp thân mệt mỏi, muốn trở về nghỉ ngơi rồi."
Hộ vệ thủ lĩnh Lưu Dũng dùng giọng ồ ề hô to: "Đúng đúng! Dương phu nhân giết địch liền ba ngày ba đêm, chưa chợp mắt chút nào, hơn nữa, vừa rồi mới kết nghĩa trăm năm với Dương gia, nên nhập động phòng rồi! Chúng ta cung tống Dương gia phu thể về nội nha nghỉ ngơi. Tửu yến náo động phòng gì đó chờ đánh bại địch quân rồi bổ sung, thế nào?"
"Đúng vậy.....! Cung tống Dương thủ bị phu thể về nha nghỉ ngơi!" Những hộ vệ khác của Dương Thu Trì, Vũ Kỳ và bọn sơn tặc đều cung thân thi lễ rồi hoan hô, nhưng binh sĩ khác cũng hô theo. Trong đám binh sĩ này đương nhiên không ít kẻ ngầm ái mộ mỹ sắc của Liễu Nhược Băng, nhưng dù sao cũng còn tự kềm chế, không như tên tổng binh này tự cho là quan lớn, dưới mắt không người, làm càn làm bậy, cho nên họ đều rất ghét, phụ họa gào to.
Khổng Hi Quý như từ tầng mây rơi xuống hiện thật, cuối cùng minh bạch vị tiên nữ giáng trần này thì ra là vợ mới cưới của Dương thủ bị, ngầm than rằng là đóa hoa lài cắm bãi cứt trâu (người đời đều vậy, cho người khác là bãi phân trâu, chỉ có mình mới là bạch mã hoàng tử đẹp trai tuy hơi già và bụng bự một chút). Tạm thời lão kềm lại cơn ngứa ngáy trong lòng, cười ruồi: "Đúng đúng, hai vị cũng nên nghỉ ngơi một chút, bổn quan cũng cần trở về bẩm báo ba vị vương gia. Chúng ta cùng về nha môn chung chứ?"
Liễu Nhược Băng đương nhiên không muốn đi cùng tên tổng binh háo sắc này, nói với Dương Thu Trì: "Phu quân, chúng ta vẫn không thể gối cao nằm kỹ, cần phải thám tử đi tìm hiểu địch tình, tính kế đối địch mới là thượng sách."
Dương Thu Trì mỉm cười gật đầu: "Lời nương tử phải lắm." Xong nói với Khổng Hi Quý: 'Tổng binh đại nhân về nghỉ trước, ti chức muốn cùng chuyết kinh hiệp đồng Long tướng quân sắp xếp phòng ngự, lát sau sẽ về nghỉ."
Khổng Hi Quý tuy bị mỹ sắc của Liễu Nhược Băng làm cho thần hồn điên đảo, nhưng vẫn còn biết ngượng, lời đã nói tới mức này, lão dù có mặt dày cũng không tiện cứ bám mãi không buông. Rất may là còn ngày dài tháng rộng, y vẫn hy vọng kia mà. Cho nên y đi ba bước quay đầu lại nhìn, dẫn hộ vệ và Lôi tri huyện bước thấp bước cao xuống thành lâu.
Khổng Hi Quý đi xong, du kích tướng quân Long Bỉnh rất rõ, rằng Dương Thu Trì mới là hạch tâm thắng lợi của trận chiến bảo vệ Kiềm Dương. Mấy nghìn thủ quân đối diện với hai ba vạn địch quân mà muốn thủ thắng chỉ có thể dựa vào đạn pháo bằng đá thần kỳ của Dương Thu Trì. Do đó, Long Bỉnh cười nói với Dương Thu Trì: "Dương đại nhân, chúng ta nên phòng ngự thế nào, xin cứ chỉ điểm a."
Vừa rồi ứng phó sắc quỷ tổng binh KHổng Hi Quý lãng phí không ít thời gian, Dương Thu Trì không muốn mất nhiều lời miệng lưỡi nữa, nói thẳng: "Ti chức cho rằng, có câu tri kỷ tri bỉ, bách chiến không thua. Địch quân hiện giờ đã lui, nhưng không biết khi nào đánh nữa. Kiềm Dương huyện của ta có hai bên và phái sau đều là núi cao, chỉ có mặt này là bằng phẳng, theo lý thì đại quân của địch tiến công chỉ có thể từ phía này, hai bên và phía sau là núi cao không tiện tác chiến đại quy mô. Nhưng mà, chúng ta cũng cần phải đề phòng địch quân vu hồi bao vậy, từ phía sau công kích. Do đó, đối với ngoài, chúng ta lập tức phải vài đội thám tử dò thám tin tức địch quân, rồi từ đó đề ra sách lược ứng phó. Đối nội, thì lập tức tổ chức thu dọn chiến trường, tu sửa thành tường bị sụp đổ, chuẩn bị đá gỗ lăn, chuẩn bị phòng thủ sao cho tốt nhất. Điều này phiên Long tướng quân phụ trách sắp bày. Ti chức và chuyết kinh mang hộ vệ về nha môn, lập tức phối trí tạc đạn bằng đá, để tiện nghênh đánh địch quân tái phạm."
"Được! Cứ án theo Dương đại nhân nói mà làm!" Long Bỉnh mừng rỡ, bắt đầu sắp xếp phòng vệ thành trì.
Nói thì dễ, nhưng trong lòng Dương Thu Trì lúc này rất nặng nề. Nguyên liệu dùng làm tạc đạn đã sắp hết sạch rồi. Trận tới đánh thế nào, thắng thua ra sao ... hắn chẳng có chút ý niệm gì.
Nguyên tài liệu do Vô Trần đạo trưởng luyện chế ra đã bị Dương Thu Trì dùng phối trí tạc đáng hết một phần lớn, cần phải nhanh chóng khai thác quặng ở hậu sơn của Đồng trại để chế luyện dầu mỏ, phenol, axit sulfuric, axit nitric, thủy ngân, ether và các thứ nguyên liệu dùng để chế thuốc nổ đắng và đạn. Đánh nhau thường là so tài về tiêu hao hậu cần, phe nào không đảm bảo hậu cần, thì phe đó không cách gì đánh đấu.
Do đó, hắn gọi A Hạnh Ny đến một bên, đem tình hình nói ra. A Hạnh Ny nghe nói thì ra thứ Vô Trần đạo trưởng luyện ra là dùng làm nguyên liệu để chế tạo đạn pháo bằng đá, không có những thứ đó thì không tạo được, tức thời lòng nóng như lửa đốt, chỉ phái đầu mục lĩnh binh lần này của nàng, và là lão tộc trưởng Tùng Ân của Đồng trại thân tín của thổ ti lập tức dẫn 1000 Đồng binh trở về Đồng trại tổ chức nhân lực khai thác quặng mà Dương Thu Trì cần, rồi sau đó hộ tống quặng khai thác được về giao cho Dương Thu Trì tại Kiềm Dương.
Dương Thu Trì lại để Vũ Kỳ phái thêm sơn tặc có võ công cao cường đến doanh trại của địch quân thám thính, để chuẩn xác nắm rõ động hướng của địch.
Sau khi an bài đâu vào đấy, hắn lưu lại A Hạnh Ny mang số Đồng binh còn lại bố trí phòng ngự trên thành lâu, còn mình thì dẫn Liễu Nhược Băng, Quách Tuyết Liên, tiểu hắc cẩu và các hộ vệ vội vã trở về điển sứ nội nha.
Trở về nội nha xong, Quách Tuyết Liên giúp Dương Thu Trì cởi trọng giáp ra. Dương Thu Trì kéo tay Liễu Nhược Băng vào phòng ngủ, đóng cửa lại, hai người ôm nhau hôn say đắm, cực lâu mới buông nhau ra.
Liễu Nhược Băng e thẹn vô cùng: "Phu quân, chàng mau nghỉ ngơi đi, thiếp cũng nghỉ một chút, mệt quá."
Dương Thu Trì nhớ đến nguyên tài liệu của mình chẳng còn lại bao nhiêu, chế tạo tạc đạn giỏi lắm một thời thần là dùng xong toàn bộ, cho nên còn một lượng thời gian du dã có thể dùng. Trong khi đó, từ khi hắn xuyên việt đến đây đã mấy tháng rồi, tuy đã có phát sinh tiếp xúc da thịt với vài nữ tử, nhưng chưa chân chánh ăn ở với ai, tư vị đó không dễ chịu chút nào. Hắn liền nói: "Băng nhi, chúng ta hãy động phòng trước, sau đó ta sẽ làm, được không? Dù gì thì cũng không gấp trong thời khắc này được."
Liễu Nhược Băng thâm tình nhìn sâu vào mắt Dương Thu Trì, kéo hắn đến ngồi bên giường, áy náy cười, nói: "Phu quân, thiếp thân e rằng tạm thời không thể cùng chàng viên phòng."
"Vì sao?" Dương Thu Trì kinh hãi hỏi.
Liễu Nhược Băng làm ra vẻ có lỗi: 'Võ công của thiếp sở dĩ cao vượt người thường, đó một là vì võ công của bổn phái rất cao cường, hai là sư phụ thiếp nói thiếp trời sinh có dị bẩm, nếu như bảo trì đồng trinh, khổ luyện đồng tử công thì sẽ tăng cao gấp bội. Nhưng một khi phá thân, công lực sẽ giảm đi phân nửa. Hiện giờ địch quân áp cảnh, phu quân vừa thăng lên làm thủ bị Kiềm Dương, thiếp muốn lưu chút võ công này hỗ trợ chàng thủ thành. Hơn nữa, thiếp còn hai kình địch, một khi chúng biết võ công của thiếp giảm nhược, e rằng sẽ tìm đến làm phiền thiếp."
"A...? Nàng... nàng cùng ta viên phòng sẽ làm công lực đại tổn? Không phải vậy chứ?" Dương Thu Trì cười khổ hỏi lại.
"Đúng. Sự phụ thiếp tuy thiên tư không bằng thiếp, nhưng lúc còn trẻ đã là địch thủ hiếp có rồi. Chỉ là, sau đó gặp phải một thiếu hiệp, hai người yêu nhau, sư phụ không chống nổi sự cầu khẩn của người, nên sau đó thành thân, công lực đại giảm. Sau đó bị rất nhiều cừu gia liên thủ truy sát, vốn những kẻ này không phải là đối thủ của sư phụ, nhưng sau khi công lực sự phụ đại giảm, hai người liên thủ vẫn không chống nỗi. Tuy hai người cuối cùng vẫn giết sạch mọi cừu nhân đến tầm cừu, sư công (chồng của sư phụ) trọng thương mà chết. Sư phụ cũng dưỡng thương nhiều năm mới giữ lại được tính mạng, nhưng rồi cuối cùng cũng buồn bã mà mất đi."
Dương Thu Trì kêu khổ trong lòng không ngớt, thầm nghĩ, Băng nhi nói lời này đúng là thật. Trong kiếp trước, hắn nghe Liễu Nhược Băng sư tỷ tên là Hư Ất đạo cô ở trong sơn động sao huyệt của Kiến Văn dư đảng tại Thanh Khê huyện đã từng nói qua điều này. chỉ là lúc đó Liễu Nhược Băng đương thời nói cho dù công lực đại giảm cũng đủ giết chết sư tỷ âm hiểm. Sau đó, quả nhiên giết chết được như lời. Hắn vội nói: "Nàng thiên tư thông tuệ, võ công vượt hẳn sư phụ, cho dù công lực tổn thất, nhưng vẫn có thể vô địch thiên hạ."
Liễu Nhược Băng mỉm cười, yêu thương hôn hắn, lắc đầu đáp: "Ai dám nói là thiên hạ vô địch? Tuy thiếp đến giờ chưa gặp kỳ phùng địch thủ, nhưng thiếp cũng đã có hai kình địch, công lực chỉ kém thiếp một chút mà thôi. Lúc trước chúng thiếp đều đánh nhau hơn 300 chiêu, thiếp mới phân biệt đánh bại họ. Nếu như thiếp giảm công lực phần lớn, e rằng không phải là đối thủ của hai người."
Dương Thu Trì đại kinh thất sắc, cố gượng cười: 'Hai người này, hắc hắc, với nàng là bạn chử không là địch, chỉ là tỉ thí võ công thôi đúng không?"
Liễu Nhược Băng cười khổ: "Không phải, có một kẻ là con gái của cừu gia đứng đầu vây công sư phụ và sư công thiếp khi xưa. Phụ thân ả bị sư phụ thiếp giết chết. Ả luyện thành võ công xong, thì sư phụ thiếp đã qua đời rồi. Ả liền tìm thiếp tầm cừu. Người còn lại là một võ tướng."
Dương Thu Trì tức thời lạnh cả nửa tấm lòng, hỏi: "Nếu như hai người họ đều có thù với nàng, vì sao không liên thủ đối phó nàng? Hai người liên thủ, nàng xem ra không phải là đối thủ rồi?"
'Dạ, chỉ sợ thua nhiều thắng ít. Rất may là họ đều là kẻ tâm cao khí ngạo, quyết không chịu liên thủ đối phó thiếp, càng không nguyện ý đánh lén, đặc biệt là võ tướng đó lúc này e rằng không hơi đâu tìm thiếp chi cho phiền. Đau đầu nhất là cừu gia kia, nhất mực muốn giết thíep cho nhanh."
Dương Thu Trì vỗ đùi: "Đúng rồi! Nếu như bọn chúng muốn giết nàng, vậy không thể trách chúng ta giết chúng. Tiên hạ thủ vi cường, bọn chúng ở đâu? Ta mang theo đội nhân mã quét gọn bọn chúng. Ta không tin võ công của chúng lợi hại hơn tạc đạn của ta!"
Liễu Nhược Băng ôm hắn, trách: "Chàng đó nha! Còn tự xưng là trai gái giang hồ gì, người ta đường đường chính chính tìm thiếp khiêu chiến, thiếp ngược lại bảo chàng đi ám toán người ta. Cái này còn có chuyện gì để mà nói nữa chứ. Hơn nữa chàng chưa chắc đã ám toán được họ!"
'Hắc! Cái này nàng không cần lo rồi, có câu minh thương dễ đón, ám tiễn khó phòng! Chúng tránh được một nhưng không tránh được mười lăm? Dù sao thì cũng có cơ hội diệt chúng, chuyện này nàng đừng quản, cứ giao hết cho ta, nàng chỉ cần cho ta biết chúng là ai thôi là được rồi."
Liễu Nhược Băng cười đáp: "Được a, vậy thiếp cho chàng biết, con gái của cừu gia đó tên là Ngải Miêu Miêu, cha là Ngải Đông Hải ngoại hiệu Âm Dương thủ, chính là người lập kế hoạch liên thủ tập kích sư phụ và sư công của thiếp. Phụ thân của ả chết rồi, Ngải Miêu Miêu khi ấy chỉ là nha đầu trẻ nít. Sau đó không biết ả gặp kỳ ngộ gì, võ công đột tiến, tìm thiếp quyết đấu hai lần, nói là món nợ của sư phụ đồ nhi phải trả. Lần đầu thiếp chỉ dùng 181 chiêu đánh bại ả, nhưng lần sau phải dùng 328 chiêu mói được. Nhưng mà, đó là chuyện năm năm về trước rồi. Sau lần quyết chiến tối hậu, ả không biết hạ lạc nơi nào, không ai gặp qua, theo truyền thuyết thì ả vượt biển tầm sư rồi."
"Cái gì? Hạ lạc bất minh? Vậy đi đâu tìm ả bây giờ?"
Liễu Nhược Băng mỉm cười: "Thì vậy đó, chỉ có chờ chúng tìm tới thôi. Ngươi này ý chí kiên định, không đạt thành mục đích không chịu thua. Cừu gia của thiếp không ít, nhưng thiếp đều không để ý, chỉ cảm thấy đau đầu với mỗi Ngải Miêu miêu này."
"Nàng thật đúng là, nếu như là thế, khi xưa sao không một kiếm giết ả cho rồi!"
"Không phải thế, lần đầu ả bị thương đào tậu, lúc đó võ công của ả còn chưa cao, do đó thiếp không quá để ý, cũng không truy sát. Lần thứ hai, võ công của ả đại tiến, xuất chiêu thập phần ngoan độc, thiếp bấy giờ mới cảnh giác. Chỉ có điều, lúc đó võ công của ả đã không tệ, chỉ hơi kém thiếp một chút, cho nên tuy thiếp đánh bại ả, nhưng chỉ là hơn về chiêu số, ả không hề thụ thương, tự biết không đánh lại là mượn cơ hội đào tẩu. Nhưng mà thiếp biết, ả nhất định sẽ tìm thiếp lần nữa."
Dương Thu Trì hừ một tiếng: "Sợ cái gì, ả mà dám đến, ta nả một phát vào ả là xong! Hết chuyện!"
Tiếp đó hắn thấy Liễu Nhược Băng chỉ cười điềm đạm, biết là nàng sẽ không để hắn làm vậy, bản thân hắn cũng tự nghĩ và cảm thấy không thể làm vậy được, vì người ta đường hoàng tìm đến đòi quyết đấu, thế mà hắn lại dùng âm chiêu sử dụng vũ khí hiện đại hại người, đích xác là quá tệ rồi. Hắn tự nhũ hay là phải bàn kỹ lại chuyện này sau vậy, đành hỏi: "Còn cừu gia kình địch khác là ai?"
"Còn lại không phải cừu gia, mà chỉ là thiếp và y cùng đánh cuộc một trận quyết đấu thôi."
Dương Thu Trì: "Đánh cuộc hả? Hắc hắc, có gì mà gấp, cùng lắm là nhận thua chứ gì, ít nhiều tiền gì đó trả cho y!"
"Không phải là tiền, mà còn cược mạng, rất nhiều nhân mạng!"
"Hả? Chuyện là thế nào? người này là ai thế? Vì sao phải đánh cuộc nhiều nhân mạng?" Dương Thu Trì lại khẩn trương hẳn lên.
"Y là một bối lặc gì đó của Hậu Kim, tên rất dài, gọi là... Ái Tân Giác La - Đa Nhĩ..."
"Cái gì? Đa Nhĩ Cổn?" Dương Thu Trì cả kinh. Danh tự này quá quen, vô số phim điện ảnh đều có nói về người này, là nhân vật quan trọng nhất trong chuyện nhà Thanh đánh diệt nhà Minh.
Liễu Nhược Băng kỳ quái hỏi: "Chàng nhận thức y?"
"Đúng, à không, không nhận thức, có nghe nói qua - nàng sao lại có thù với hắn? Hắn ở Liêu Đông mà."
"Nói ra cũng dài,năm 11 Sùng Trinh, y mang binh được phong làm 'Phụng mệnh đại tướng quân" của Hậu Kim soái quân nam hạ, đánh vào phúc địa Đại Minh ta, đốt giết cướp của, cuối cùng đánh tới Sơn Đông Tế Nam. Thiếp lúc đó vừa khéo ở Sơn Đông, thấy y giết người quá nhiều, liền tiềm nhập vào quân doanh, ngầm đánh lén chế phục y, bức y lui binh. Y không ngờ thà chết không chịu đáp ứng, còn nói thiếp đánh lén không phải là anh hùng, nếu như thẳng mặt đối quyết, thắng y rồi hãy nói sau. Thiếp bèn tha y, quyết đấu với y. Trong đại trướng của quân đội, thiếp và y đại chiến im liền đến 296 chiêu, thiếp mới chế phục được y.
Y bội phục, xưng là lần đầu chiến bại, đáp ứng lập tức triệt binh phản hồi Liêu Đông, trong vòng ba năm chỉ tác chiến ở Liêu Đông, không xuất binh quan nội. Nhưng y biểu kỳ không phục, hẹn 3 năm sau tái chiến. Nếu như y bại nữa, 3 năm sau lại không đánh vào quan nội, còn y thắng, sẽ... sẽ bảo thiếp lấy y..."
"Nàng đáp ứng rồi sao?" Dương Thu Trì khẩn cấp hỏi, tiếp đó cười, khẽ đánh mình một cái, "Ta thật ngốc, nếu là nàng đáp ứng, sao lại còn gả cho ta chứ."
Liễu Nhược Băng lườm hắn một cái: "Thiếp đương nhiên không đáp ứng! Y liền nói ba năm sau nếu như thiếp không tìm y quyết đấu một lần, y sẽ kéo quân nam hạ, giết người hán, đaọt tiền tài. Thiếp tức giận, định giết y, nhưng chuyển niệm nghĩ, thế lực Hậu Kim càn glúc càng mạnh, đặc biệt là Đa nhĩ Cổn văn thao võ lược, là kình địch Đại Minh. Nếu như lời y có tín nghĩa, chỉ cần 3 năm sau lần nữa chế phục y, thì chí ít cũng đảm bảo Đại Minh bình an thêm ba năm. Do đó, thiếp liền đáp ứng ba năm sau quyết đấu với y, nhưng không đáp ứng gả cho y, chỉ nói nếu như thiếp thua, sẽ không quản chuyện nam chinh của y nữa. Y cuối cùng cũng đồng ý."
Dương Thu Trì hỏi: "Vậy sau này thì sao? Nàng đi tìm hắn chưa?"
Liễu Nhược Bằng gật đầu: "Rồi, người này quả nhiên biết giữ chữ tín. Sau lần đầu tiên đánh bại y, suốt ba năm sau y không hề mang binh nam hạ. Mãn hạn ba năm, cũng là năm Sùng Trinh thứ 14, thiếp đến Liêu Đông tìm y. Lần này, thiếp chỉ dùng 260 chiêu là kích bại được y."
"Ha ha ha, nương tử lợi hại, còn tên Đa Nhĩ Cổn đó càng luyện càng thụt lùi, ha ha ha."
"Không phải vậy đâu, bỡi vì ba năm này thiếp chuyên tâm luyện võ, trong khi y nhất mực tác chiến với quân đội Đại Minh tại Liêu Đông, thời gian dùng cho võ công tự nhiên không nhiều, nên thua thiếp. Người này quả là một hán tử, thua rồi không trở mặt, cho đến hiện giờ đã hai năm rồi mà không mang binh nam hạ."
"À, thì ra năm năm nay Đa Nhĩ Cổn không mang binh nam hạ cướp bóc, thì là vì bị vợ ta đánh bại. Ha ha, ta đại biểu bá tánh Đại Minh kính vợ một nụ hôn!" Nói xong hôn chốc một cái vào má của Liễu Nhược Băng.
Liễu Nhược Băng đỏ hồng cả mặt, cũng hôn đáp lại hắn: "Phu quân quá khen rồi...!"
"À, sao trước nàng nói sư phụ là lão sư?"
"Thử chàng xem có nói thật không ấy mà!"
Dương Thu Trì nhỏen miệng cười, nhưng nụ cười từ từ tiêu biến, lòng nghĩ Băng nhi nếu như đã lấy hắn, tự nhiên không lừa hắn chuyện này. Bỏ qua chuyện sư phụ nàng là ai, bỏ qua chuyện Đa Nhĩ Cổn có giữ lời thật hay là vì tình thế không cho phép nam hạ, nhưng chuyện trước mắt là nếu đồng tử công của Liễu Nhược Băng bị phá, thì công lực sẽ đại tổn, giống y như kiếp trước vậy, rõ ràng cũng không phải là lời giả.
Băng nhi một khi công lực đại tổn, sẽ phải đối mặt với ba vấn đề lớn: Một là con gái Ngải Miêu Miêu của cừu gia nhất định còn đến báo cừu. Người này có võ công chỉ kém Liễu Nhược Băng một chút, trong khi Băng nhi của hắn là người tâm cao khí ngạo, quyết không cho hắn giúp giết chết Ngải Miêu Miêu. Và hắn cũng không thể ngày nào theo sát Băng nhi, một khi nàng đơn độc gặp Ngải Miêu Miêu, e rằng hung đa cát thiểu. Hơn nữa, Băng nhi đi khiêu chiến khắp nơi trong những năm gần đây, kết ra không ít cừu gia. Nếu như biết công lực của nàng giảm, họ sẽ liên thủ tầm cừu, bi kịch của sư phụ nàng nói không chừng sẽ xảy ra lại trên người nàng.
Vấn đề thứ hai là Đa Nhĩ Cổn, người này rốt cuộc thế nào thì hắn chỉ từ trong điện ảnh và tiểu thuyết biết qua. Nếu như y biết giữ chữ tín, có thể dùng chiêu này bức y không mang binh nam hạ, đương nhiên không thể chờ một cách vô hạn chết, chờ hắn hiện đại hóa quân đội rồi, thử coi có tranh giành được với y không.
Vấn đề thứ ba là khẩn bách nhất, hơn cả hai chuyện trước, đó là phòng thủ trước mắt không thể không dựa vào võ công của Liễu Nhược Băng. Hai ngày trước có thể chống đỡ được đại quân của Trương Hán Trung công thành đều là nhờ nàng phần lớn. Do đó, hiện giờ không thể để công lực của Liễu Nhược Băng giảm được.
Liễu Nhược Băng thấy hắn ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ, dựa vào lòng hắn, khẽ nói: "Xin lỗi phu quân, Băng nhi làm chàng mất hứng rồi..."
Dương Thu Trì cười cười: "Không sao! Dù gì nàng cũng là vợ ta, chúng ta giải quyết những vấn đề rắm rối trước mắt rồi viên phòng cũng không muộn. Nhưng mà, ta có một yêu cầu."
"Phu quân cứ nói." Liễu Nhược Băng ngước mặt mỉm cười nhìn hắn.
"Ả Ngải Miêu Miêu gì đó, lần sau nàng quyết đấu cùng ả, kích bại ả rồi ta muốn giết ả nàng không được can thiếp, chúng ta không thể cứ cù cưa như vậy mãi, đúng không nào?"
Liễu Nhược Băng suy nghĩ một lúc, khẽ gật đầu: "Phu quân nói đúng, nhưng phu quân cũng phải đáp ứng thiếp, khi thiếp đối quyết cùng ả, chàng tuyệt không được nhúng tay vào, cho đến khi thiếp đánh bại ả thì thôi. Được không?"
"Cái đó đương nhiên, chúng ta phải thắng cho đẹp vào,.... nhưng mà..."
"Nhưng mà làm sao?"
"Nếu lỡ khi, ta nói là lỡ khi, ả Ngải Miêu Miêu đó không biết học từ hải ngoại chiêu số âm độc nào đó làm hại nàng, ta không khoanh tay đứng nhìn đâu."
"Sao hả? Chàng không tin năng lực của Băng nhi?"
"Không phải vậy, ta nói lỡ khi, nàng cũng nói là ả này xuất chiêu vô cùng âm độc mà."
Liễu Nhược Băng cười mỉm: "Chàng yên tâm đi, chỉ cần đối quyết đường đường chính chính, cho dù là có đánh bại thiếp, cũng không hại thiếp được đâu, thiếp có lòng tin này."
Tuy Liễu Nhược Băng đầy lòng tự tin, nhưng Dương Thu Trì vẫn lo lắng, lòng nghĩ cái này không thể mạo hiểm, cần phải phòng thủ mới được. Điều hay nhất là phải làm sao thân không biết quỷ không hay diệt Ngải Miêu Miêu, để cho ả bị chết bất ngờ hay gì đó, Băng nhi sẽ không trách hắn được. Làm chuyện này hắn có tự tin, sẽ không để lại dấu vết gì. Nhưng mà không biết Ngải Miêu Miêu hiện giờ ở đâu, ả là ai... không thể chờ được, cần phải chủ động tìm kiếm, tiên hạ thủ vi cường!
Dương Thu Trì hỏi: "Nàng và Đa Nhĩ Cổn quyết đấu lần thứ bao vào lúc nào?"
"Năm sau."
"Trong vòng một năm?"
"Đúng, trước ngày cuối năm sau đều được."
"Vậy được, trước lúc này, vi phu sẽ kiến lập quân đội, cố đánh bại Đa Nhĩ Cổn và Hậu Kim, triệu để tiêu trừ cái hoạn này, nếu vậy thì vụ đánh cuộc này không thể tiếp tục nữa rồi."
Liễu Nhược Băng nhìn hắn: "Đại quân của Đa Nhĩ Cổn vô cùng lợi hại, thiếp đã thấy qua rồi..."
"Lần này nương tử không tin năng lực của vi phu rồi, hắc hắc."
Liễu Nhược Băng cười cười: "Tin, phu quân là giỏi nhất."
"Ta giỏi cái gì nào?" Dương Thu Trì cười ái muội, thò tay vào áo quần nàng, vạch tiết y, sờ và vò nắn nhẹ gò ngực cao vợi chắc nịt của nàng.
Liễu Nhược Băng rên lên một tiếng, nằm dựa vào lòng Dương Thu Trì, miệng lẩm bẩm: "Phu quân...."
Dương Thu Trì lần tay khắp tơi, đến bụng dưới phẳng lì của nàng, rồi gò tam giác thần bí của nàng.
"A..." Liễu Nhược Băng lần đầu kinh qua cái hoan hỉ của nam nữ, tuy chỉ là những thứ mào đầu, nhưng đã thở khì khì, thần hồn điên đảo.
Dương Thu Trì sờ nắn khắp ngọc thể của Liễu Nhược Băng, vật dưới khố cũng vùng dậy đòi xung phong, khiến hắn gần như muốn phóng mình lên chiến mã. Khi biết mình làm như vầy là đùa với lửa, phá đi trinh tiết của Liễu Nhược Băng, có hối cũng không kịp, hắn vội thu liễm tâm thần, dùng ý chí kéo cương ngựa quay đầu, kéo mần gối che đi thân hình y sam hở hang loạn của nàng.
Liễu Nhược Băng giống như rơi xuống vực, vội mở bừng mắt, vừa thẹn vừa giận nhìn hắn.
Dương Thu TRì hôn lên trán nàng: "Không thể đùa với lửa được, ta e sẽ nhịn không nổi. Ngoan, ngủ một giấc đi. Ta ra vườn phối trí tạc đạn. Ta để tiểu hắc cẩu ở đây làm hộ pháp cho nàng."
Mắt Liễu Nhược Băng như có nước, bộ dạng yêu kiều như hoa xuân: "Dạ! Mau đi đi, địch quân tiến công hãy gọi thiếp ngay."
"Được!" Dương Thu Trì hôn chào nàng, đứng dậy bước ra cửa, còn quay lại gửi một cái hôn gió, khiến Liễu Nhược Băng đỏ mặt tận mang tai, khẽ cười đáp trả.
Dương Thu Trì đứng ở chỗ công tác ở sương phòng trong nội nha, nhìn những thùng nguyên liệu đã trống gần hết đến phát ngốc. Hắn tính toán lại, số nhiên liệu này giỏi lắm chỉ làm được hơn chục đầu pháo đạn, cộng thêm mấy quả trên thành lâu, tổng cộng không tới 20. Lần đầu đánh lui địch quân tiến công, đã dùng gần 100 quả đạn. Quy mô tiến công lần kế của địch quân phải nhiều hơn, và sẽ sử dụng nhiều thủ đoạn hơn, tránh xung phong dày... như vậy, uy lực sát thương của tạc đạn sẽ giảm. Cho nên, muốn dựa vào không tới 20 quả tạc đạn bằng đá này để đánh lui địch quân quả là nhiệm vụ bất khả thi. Trong khi đó, quặng mỏ còn chưa đưa đến, luyện chế cần một thời gian, e rằng không kịp.
Xem ra cần phải lợi dụng hiệu quả số nguyên liệu này mới được!
Súng xung phong! Đối phó đội hình dày đặc này, ngoài trừ tạc đạn, vũ khí tốt nhất là súng xung phong hoặc súng máy!
Nguyên liệu chế tạo tạc đạn thì tiêu hao nhiêu, chứ chế tạo đạn dược thì hữu hiệu hơn, đủ chế ra hai ba vạn viên với số nguyên liệu này! Nếu hắn chế ra đầu đạn có lực xuyên thấu đủ mạnh, thì có thể bắn một viên xuyên qua hai ba tên! Đối phó 3 vạn địch quân như vầy, chỉ cần diệt phân nửa thì cũng đủ chúng khiếp sợ chạy hết rồi.
Ha ha!
Dương Thu Trì cảm thấy hưng phấn về ý tưởng này, và không biết đồ hình hắn giao cho lão Hắc đầu chế tạo ra súng có hiệu quả thế nào.
Dương Thu Trì vội mệnh lệnh cho Mã Lăng Vũ mang theo mấy hộ vệ đến chỗ lão thiết tương, lấy cây súng xung phong, súng bán tự động, vỏ đạn và ngòi nổ đến.
Nhanh chóng, mấy thứ đó được đưa về.
Dương Thu Trì cầm cây súng xung phong lên nhìn, lão hắc đầu không thẹn là lão công tượng về hưu của triều đình, tay nghề rất khá, nhìn bên ngoài không khác gì súng xung phong hiện đại bao nhiêu.
Hắn lập tức phối trí thuốc súng không khói và thuốc nhồi. Hắn cho nhồi thuốc vào mấy chục viên đạn, bỏ vào băng, gắn vào súng, mở khóa bảo hiểm, đưa đạn lên nòng, không tệ, đạn thuận lợi tiến vào nòng, chỉ còn bước cuối cùng nữa thôi, đó là bắn thí điểm!
Dương Thu Trì dĩ nhiên không tự cầm súng bắn thử, hắn cột súng vào một cây trong vườn, bảo hộ vệ vá mấy bao cát đặt làm giá để ở ngoài mấy mét, sau đó dùng một sợi dậy cột vào cò súng, kéo đi thật dài, rồi nấp sau mấy bao cát, kéo dây.
Đoàng đoàng đoàng...!
Ba tiếng nổ giòn vang lên, bao cát phía trước hiện ba lổ lớn cát văng tung tóe!
Thành công rồi! Ha ha, Dương Thu Trì mừng rỡ, lại kéo cò mấy lần nữa, đoàng đoàng đoàng đoàng...., miệng súng phun ra lưỡi lữa, bắn hàng loạt đạn cắm vào bao cát phía trước!
Quá tốt rồi! Dương Thu Trì liên tục kéo sợi dây, khi bắn sắp hết băng đạn thử, thì "oành!" một cái, họng súng xì ra khói đen ... nổ lòng súng rồi!
Lòng Dương Thu Trì lạnh ngắt, lát sau mới quẳng sợi dây, từ từ bước tới xem xét, thì thấy nòng súng và khoang súng xung phong đã vỡ toát hết cả!
Dương Thu Trì tử tế quan sát dấu nứt của súng, hơi trầm tư. Hắn nhanh chóng hiểu ra nguyên do bên trong: kỹ thuật luyện thép không đạt đến yêu cầu chế tạo súng đạn hiện đại, do đó không thể tạo nòng súng và khoang súng không có chỗ hở cho súng xung phong 56. Sau khi liên tục xạ kích, nòng súng không chịu được nhiệt độ và áp suất cao, đã tự nổ vỡ.
Xem ra, muốn chế tạo súng ống hiện đại, cửa ải này cần phải qua. Nhưng hắn không biết luyện thép, và cũng không biết làm thế nào để tăng chất lượng thép và chế tạo nòng súng không có lổ hở.
Hắn lại tiến hành thử với súng bán tự động 56, y như vậy, sau khi bắn liên tục mấy chục viên đạn, nòng súng xuất hiện vết nứt.
Dương Thu Trì vô cùng chán nản. Lão hắc đầu là công tượng của triều đình, và lại vì tính mệnh của con trai mà tạo súng cho hắn, khẳng định là đã cố hết sức. Có thể nói, kỹ thuật của ông ta đã đại biểu cho kỹ thuật toi luyện tối cao của Minh mạt.
Hai cây súng đều có vấn đề về nòng, chỉ có thể nói kỹ thuật luyện thép ở thời Minh mạt này có vấn đề.
Làm sao đây?
Nếu như không thể đề cao kỹ thuật luyện thép, vậy chỉ có thể giảm độ nóng của nòng, giảm áp lực đi.
Muốn giảm áp lực của nòng, giảm lượng thuốc nhồi vào đạn là không hiện thực, vì sẽ giảm tầm bắn.
Tăng độ dày của nòng thì có thể, nhưng không thể tăng vô hạn chế, như vậy không những làm cho súng quá nặng, còn do nòng súng quá dày khi bắn liên tục trong thời gian ngắn sẽ khiến thành trong của nòng nóng hơn thành ngoài, không bình quân nhiệt độ sẽ nổ vỡ.
Do đó, biện pháp có thể tuyển chọn duy nhất là làm sao hạ thấp nhiệt độ nòng súng.
Có hai biện pháp, một là sử dụng loại làm lạnh chủ động nào đó, hai là kéo dài thời gian bắn giữa hai lượt đạn, để nòng súng có thời gian nguội đi.
Vì thế, Dương Thu Trì nghĩ tới súng máy Maxim làm nguội bằng nước và ống lắp đạn bên ngoài theo kiểu tạo của công xưởng Hán Dương (Chú; Nơi chuyên sản xuất súng đạn cho Trung Hoa trong thời nội chiến). Súng Maxim dùng nước lạnh giảm nhiệt nòng súng để khỏi bị nổ nòng, còn ống lắp đạn ngoài thủ công dành cho súng bộ thương, cố định 5 phát một lượt, đạn phỏng theo xuất phẩm súng moze (mauser) 1888 của Đức quốc xã. Khi tính đến độ bền của nòng súng, và cần để tán nhiệt, Dương Thu Trì quyết định lên đạn bằng tay, vừa làm giảm tốc độ giữa hai lần bắn, tránh bắn liên tục tạo thành nóng quá mà vỡ nòng. Đồng thời, mỗi lần bắn một loạt đạn cần lên đạn, nhắm kỹ lại, có lợi cho độ chính xác và tiết kiệm đạn.
Hắn chế định lại phương án thiết kế vũ khí, cho chế tạo súng mới.
Súng xung phong hiển nhiên không thể sử dụng làm lạnh bằng nước, bỡi vì chỉ bộ phận làm lạnh không đã 10 kg rồi, sao mà xung phong được. Do đó, trong tình huống hiện tại, chỉ có thể chế tạo súng máy hạng nặng.
Súng máy Maxim có rất nhiều bản, Dương Thu Trì tuyển chọn súng của Liên Xô năm 1910 làm mẫu chính.
file:///C:/Share Truyện Vip/Nap Thiep Ky I II/VIP - Nạp Thiếp Ký I &%2 0II - Mộc Dật (Full) - Trang 87 - VIP VĂN ĐÀN_files/vipvandan.vn---284_maxim220px-MWP_Maxim_wz1910.JPG
Loại súng máy này rất thường thấy trong điện ảnh, phía trước có ống làm lạnh bằng nước rất to, phía dưới thò ra một đầu súng nhỏ, sau đó là một cái thuẫn bài bảo hộ tay súng phía sau. Nó còn có một cái ống ngắm hình vuông, phía dưới có hai bánh xe. Hai bên có hai cái giá đỡ, thường dùng để thao túng xạ kích. Do có bánh xe, nên có thể trực tiếp kéo đi, có tính linh hoạt nhất định.
Loại súng này hiện đại tuy rất cũ kỹ, Dương Thu Trì không tiến hành nghiên cứu trọng điểm, nhưng khi học tập tri thức về súng, hắn có xem kỹ kết cấu và bản phác thảo, thử vật thật trong viện bảo tàng, nên về phương diện thiết kế không có vấn đề gì lớn.
Súng Maxim có uy lực rất dữ dằn, về lý luận thì có thể bắn 600 viên 1 phút, có thể bắn đơn hoặc liên, có thể điều tốc, giảm đến mỗi phút 100 viên. Tầm bắn hữu hiệu của nó khá xa, đạt 1000 mét, bắn qua thước đo đạt từ 2500m đến 3500 mét! Như vậy có thể nói, ở trên thành tường bố trí vài súng máy, thì địch quân không thể đến gần, chỉ có bị đánh chết hết!
Đương nhiên, hắn không làm hoàn toàn theo như vậy, mà căn cứ tình huống cải sửa, ví dụ như phương thức cung cấp đạn thì súng maxim truyền thống dùng băng đạn kết bằng bố, có thể bắn trong thời gian dài. Nhưng băng đạn vải bố dễ bị lép nổ đạn khi di chuyển, gặp nước dễ biến hình.... Trong khi đó cây súng máy đầu tiên của hắn tuyệt đối không để sai lầm này xảy ra, nếu không tổn thất không thể tính toán. Do đó, hắn quyết định mượn phương thức tiếp đạn loại súng máy 92 của Nhật, dùng bao đạn kim loại 30 phát do phá xạ thủ liên tục cung cấp. Như vậy đòi hỏi trình độ trầm tĩnh của phó xạ thủ cao, hơi phiền, như hiệu quả tốt, tuyệt không bị hỏng tắt.
Đối với đạn súng máy, hắn dùng loại vừa 7.62 ly của Trung Quốc, vì hiệu quả tạo thành vết thương sẽ mạnh hơn, bắn tạo thành đường vào chỉ một cái đốt ngón tay, nhưng miệng ra bằng cái chén.
Đạn này khi bắn vào cơ thể sẽ chấn động kịch liệt tạo thành tổn hại nghiêm trọng cho nội tạng. Do đó, chỉ cần bộ vị yếu hại trúng đạn, sẽ lập tức khiến người mất đi năng lực hành động, nhanh chóng tử vong. Do loại đạn này có lực xuyên thấu rất mnạh, nên một đường bắn có thể dễ dàng xuyên qua hai ba người!
Chỉ có điều, cây Maxim này quá nặng, thùng nước làm lạnh to, toàn bộ súng vượt hơn 60kg, dường như bằng thể trọng của người lớn! Nhưng mà, hiện giờ hắn đang tiến hành bảo vệ chiến, chứ không phải vận động chiến, không cần tính linh hoạt, trọng lượng có nặng cũng không phải là vấn đề lớn.
Súng máy Maxim làm lạnh bằng nước sẽ mỗi phút làm bốc hơi 1 lít nước, nếu bắn liên tục mười phút cần ít nhất 10 lít nước tuần hoàn. Bắn sẽ tạo ra hơi nước, lộ mục tiêu, nhưng trong thời cổ đại này không hề gì.
Súng bộ binh "lão sáo đồng" có kết cấu đơn giản hơn súng bán tự động, chỉ cần như vừa rồi, lão hắc đầu chế tạo chẳng phải là vấn đề.
Dương Thu Trì lập tức thiết kế bản vẽ, mất 2 canh giờ mới chế ra. Sau đó cho hộ vệ đi đưa cho lão hắc đầu, bảo ông ta dừng mọi công tác, tập trung toàn bộ nhân lực vật lực vào việc chế tạo hai món này. Đương nhiên, điều cần nhất là phải chế được vỏ đạn, đầu đạn và ngòi nổ. Hắn cho mang tới 500 lượng bạc làm kinh phí.
Còn lại là công tác của hắn. Hắn lập tức chế tạo đạn 7.62 ly.
Hắn chỉ cần phối trí thuốc súng không khói và thuốc ngói nổ, công tác nhồi thuốc cho hộ vệ hoàn thành, như vậy đề cao tốc độ. Hơn 100 phát đạn thí nghiệm đã bắn xong, nhờ Dương Thu Trì sử dụng vỏ đạn theo kiểu "Quyền sư thức" (kiểu găng tay), nên rất dễ thay ngòi nổ, nên hắn cho đem hơn 100 viên xài rồi này nhồi thuốc lại lắp ngòi nổ vào.
Vì thuận tiện cho việc chỉ đạo, tăng gia tiến trình, Dương Thu Trì cho khẩn cấp thiết lập một lò rèn ngay dưới giếng trời tại nha môn, cho dời xưởng sắt của lão hắc đầu về huyện nha. Dù gì hiện giờ trong tay hắn cũng còn vài nghìn lượng bạc có thể xài, nên hắn khẩn cấp cho gọi hết thiết tượng trong thành, luôn cả những người có dính dáng đến nghề sắt trong Minh quân và Đồng quân đến, tổng cộng mấy chục người do lão thiết tượng chỉ huy, phân thành các tổ dã luyện, phối trí, tinh chế, lắp ráp... Họ chia nhau hợp tác phối hợp, nên tốc độ không tệ.
Đầu đạn, vỏ đạn và ngòi nổ từ từ làm xong, Dương Thu Trì phối thuốc, mấy chục hộ vệ nhồi vào dưới sự chỉ đạo của hắn. Mọi việc đều án theo sắp xếp tiến hành, đến chiều thì đã tạo được mấy trăm viên đạn.
Khi Liễu Nhược Băng thức dậy, Quách Tuyết Liên đã nấu nước nóng sẵn, nàng tắm rửa cho thật thoải mái. Dương Thu Trì mặt dày đòi tắm chung, nhưng bị đuổi ra.
Sau khi tắm táp, Liễu Nhược Băng vẫn trong bộ đồ trắng như tiên nữ, Dương Thu Trì nhịn không được ôm chầm lấy nàng hôn lấy hôn để.
Chiều đến, đợt quặng khai thác đầu tiên đã được đưa về thành. Mấy chục thiết tượng trong huyện nha thay nhau toi luyện suốt đêm, tiếng đinh đinh đang đang vang lên không ngừng, gió lò rèn thổi phù phù, lửa nóng rực khiến người nhìn cũng nóng theo.
Dương Thu Trì bận rộn suốt ngày, hơi mệt, mượn dịp đó nghỉ ngơi một lúc, sau đó dẫn Liễu Nhược Băng đi thị sát tình huống bố phòng trên thành.
Tàn dương như huyết ánh hồng cả sường đồi, chiến trường máu tanh giờ đã sạch khói lửa. Hàng nghìn thi thể địch quân vẫn nằm ngổn ngang trên đất, nhưng khải giáp vũ khí trên người đều bị lột sạch, thu hồi. Những thành tường sụp đổ trước đó cũng đã được tu bổ.
Trên thành lâu hiện giờ đã tăng thêm mấy khẩu pháo mới được lão hắc đầu tạo ra. Chúng kết hợp với pháo của Đồng quân trước đó, đã gần 20 cây, bài trên mặt thành, phối trí đầy đạt thân tâm và đạn pháo. Rất nhiều dân công đang vận lên thành đá gỗ và hỏa thạch cùng các vật dụng phòng thủ.
A Hạnh Ny, Long Bỉnh và Vũ Kỳ cùng mọi người thấy Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng đến, cũng nồng nhiệt bước tới đón.
Long Bỉnh hơi khẩn trương hỏi: 'Dương thủ bị, tạc đạn pháo hoa của ông chuẩnbị thế nào rồi?"
Dương Thu Trì cả ngày nay bận rộn thí nghiệm đạn dược, chẳng chế tạo được trái tạc đạn nào. Nhưng lời này hắn không thể nói, sợ ảnh hưởng quân tâm, liền cười bảo: "Không thành vấn đề, đã tạo không ít rồi, đủ cho Trương tặc quân mỗi tên ăn một trái!"
Long Bỉnh nhe răng cười.
(*): Mã khắc thấm: Sir Hiram Maxim (1840-1916), nhà phát minh người Mỹ, đã phát minh ra súng máy Maxim. Đây là loại súng máy hạng nặng. Các khẩu Maxim được dùng rất phổ biến trên chiến trường trong chiến tranh thế giới thứ nhất các biến thể của nó được dùng bởi cả ba quốc gia tham chiến chính trên các chiến trường của riêng mình là: Đức với khẩu MG08 sử dụng loại đạn 8mm Mauser, Anh với khẩu Vickers sử dụng loại đạn .303 British và Nga với khẩu Pulemyot M1910 sử dụng loại đạn 7.62x54R. Súng Maxim không phải là chiếc súng máy đầu tiên, nhưng nó thực sự là một thứ vũ khí hiệu quả nhất.
Súng có thể bắn tự động 500 viên/phút. Nó đã gây ấn tượng mạnh với các nhà cầm quân của Anh, thế nên họ đã dùng nó như sự lựa chọn số một trong quá trình mở rộng thuộc địa ở Châu Phi.
Tại Chiến tranh Matabele 1893, 50 chiến sĩ người Anh đã có thể chế ngự 5.000 chiến binh Ndebele với chiếc Maxim này;và đó cũng là cảnh tượng trên hầu khắp các chiến trường lục địa.